Sunday, May 17, 2009

THẢM HỌA THẾ KỶ VÀ ĐỊNH MỆNH VIỆT NAM
Lữ Lan
(Do Anh Đặng Đình Hiệp chuyển tới) .

Bối Cảnh Thời Đại Hiện giờ chúng ta đang sống trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đồng thời là mốc khởi hành của thiên niên kỷ thứ III của nền văn minh nhân loại. Đặc điểm của cục diện đương thời là thế giới đang đứng trên bờ vực thẳm. Mối đe dọa diệt vong tận thế đang gom góp những yếu tố cấu thành tai họa một cách rõ rệt nhất mà ít ai ngờ tới. Tình huống nhân loại ngày nay hiểm nghèo hơn cả hai cuộc thế chiến đệ nhất và đệ nhị, căng thẳng hơn cả thời kỳ chiến tranh lạnh của thế giới luỡng cực truớc đây mà hai kho tàng khổng lồ đầy vũ khí hạch nhân của Nga Sô và Hoa Kỳ có khả năng triệt tiêu nhiều hơn mười lần sự sống trên cả hành tinh này. Ngày nay, chúng ta đối đầu với 3 tai họa chính đang ngầm đe dọa nhân loại:
.
Thứ Nhất là sự ô nhiễm môi sinh trầm trọng đang xáo trộn nặng nề sự vận hành điều hòa của thời tiết địa cầu. Hậu quả truớc mắt là bão lụt, thiên tai, mất mùa, đói kém, khan hiếm nuớc uống nhiều vùng, và giao động thế quân bình sinh sống của muôn loài. Thêm vào đó, hiện tuợng gia tăng nhiệt độ cả hành tinh đang làm tan chảy khối băng hai cực bắc nam nhanh hon và nhiều hơn dự đoán của các khoa học gia, sẽ làm dâng cao mức nuớc các đại duong, tràn ngập một diện tích đáng kể các đồng bằng phì nhiêu của các lục địa. Lại phải thu xếp di tản, tiếp cư và cứu trợ! Chưa nói đến tranh dành đất sinh sống sẽ gây nên xung đột võ trang ở cấp bộ quốc gia, không luờng truớc đuợc hậu quả.
.
Thứ Nhì là phát sinh nạn khủng bố, một tai họa có thể đột xuất bất cứ từ đâu, có thể gieo tai ương rộng lớn và khủng khiếp cho công chúng, khó lòng ngăn ngừa có bảo đảm, dù rất tốn kém công quỹ. Hậu quả của khủng bố là lủng đoạn kinh tế, xáo trộn xã hội cho bất cứ quốc gia văn minh tiền tiến nào. Nguy hại hơn nữa là nó thuờng lây lan ra bất cứ dân tộc cuồng tín nào, vì bất mãn hoặc bị các cuờng quốc đứng sau lưng xúi dục, có khi lại còn trang bị cho những loại vũ khí nguy hiểm độc hại có tầm sát hại rộng lớn. Tai họa khủng bố này bắt nguồn từ nạn cộng sản trên toàn thế giới trong thế kỷ truớc, vì khủng bố là một sách luợc lợi hại vốn là chiến luợc cốt tủy của cộng sản.
.
Mỗi khi nhắc đến họa cộng sản, thế giới không quên con số thống kê hơn một trăm triệu nạn nhân trên hoàn vũ đã chết thảm duới bàn tay cộng sản. Những thanh trừng, những hành quyết tập thể nằm trong chủ trương của Marx và Lenin, Stalin, quyết tâm thực hiện bạo lực chuyên chế đẩm máu một cách không thương tiếc, ngõ hầu đua các giai cấp vô sản lên ngôi vị thống trị thế giới. Nói là vô sản, kỳ thực kinh nghiệm suốt 90 năm qua cho thấy, quyền thống trị vô giới hạn chỉ nằm trong tay các bạo chúa “xã hội chủ nghĩa”, còn vô sản vẫn lại hoàn nô lệ cùng cực. Phần này sẽ đuợc triển khai sâu rộng hơn sau này, khi đề cập đến các đảng cộng sản chuyên nghiệp gọi là Bolshevik, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Nga và lân bang do Stalin, tại Trung Quốc do Mao Trạch Đông, và tại Việt Nam do Hồ Chí Minh.
.
Thứ Ba là họa suy đồi lương tri của con nguời, phát sinh nhiều tệ đoan mới trong xã hội, lây lan mọi tầng lớp dân chúng và tai hại hon hết là xuất hiện trong chủ truong của các nhà nuớc “xã hội chủ nghia” nầy lần luợt đuợc các cuờng quốc dân chủ lâu đời chấp nhận, có khi bao che cho vì lợi ích kinh tế nhất thời. Vì băng hoại lương tri nên loài nguời đa đánh mất nhân tính, đánh mất long hào hiệp và sự quan tâm bản tính xua nay đến cuong thuờng đạo lý. Đây là tai họa then chốt nhất, bởi vì nó là nguyên nhân của tất cả nguyên nhân gây ra rối loạn. Ở giờ phút mà nhân loại toàn thế giới đang đối đầu với bao tai họa kể trên mà khắp năm châu không tìm đâu ra đuợc những nhà lãnh đạo uyên bác, nhìn xa thấy rộng, đầy đủ khôn khéo và nhân cách để dìu dắt các dân tộc vuợt qua khủng hoảng.
.
Trong thế kỷ truớc, chúng ta đa từng có dịp nguỡng mộ những anh hùng cái thế đa cứu nhân loại ra khỏi thực dân, phát xít như Winston Churchill, Roosevelt, Eisenhower, Reagan, Ghandi…
.
Riêng ở Việt Nam thời xa xưa có các minh quân đời Lý, Trần, cận đại có Ngô Đinh Diệm, một tấm gương thanh liêm ái quốc không khiếp nhuợc truớc thế lực ngoại bang. Thay vào đó, chúng ta chỉ nhìn thấy trong hàng ngũ lãnh đạo khắp hoàn vũ ngày nay toàn những chính trị gia (home politique) thay vì chí sĩ (home d’état). Có khi là những chính trị gia hoạt đầu, bá đạo, dùng xảo ngôn để tuyên truyền kéo bè, kéo cánh trục lợi, ích kỹ cho phe nhóm. Họ khuynh đảo các nuớc nhược tiểu, cô thế như Tây Tạng, Nepal; bao che cho những bạo chúa độc tài như Việt Nam, Miến Điện, Cam Bốt, Bắc Hàn, bất cứ nơi nào có dồi dào khoáng sản dầu thô, khí đốt, quặng uranium, mỏ quý kim, v.v..là tìm đến bao che để kết thân thủ lợi.
.
Đây là phong trào đang thịnh hành ở Phi châu và Nam Mỹ. Thời sự nóng bỏng của những tháng ngày qua chứng tỏ truớc mắt chúng ta một chế độ bất nhân, bạo nguợc, tham nhung thối nát nhu cộng sản Việt nam mà gần đây đuợc các cuờng quốc văn minh dân chủ mở cửa, trọng vọng đón tiếp. Phải chăng chỉ vì những Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng ôm theo hang chục tỷ đô la đặt hàng mua Boeing của Mỹ, mua Airbus của Pháp. Do đâu mà khối luợng ngoại tệ của cộng sản Việt Nam từ 15 năm qua đa tăng vọt nhanh chóng nhu vậy trong lúc nền kinh tế Việt Nam chưa hẵn là đa cất cánh.
.
Tuởng cũng nên nhắc lại, một con số tuy là bán chính thức, nhưng là những thống kê và luợng định tiền tệ lưu hành của các ngân hàng cấp bộ thế giới, thì tổng số chuyển ngân do nguời Việt quốc gia ở hải ngoại, hoặc mang theo chi dụng trong lúc về thăm quê huong, đa lên đến tổng số 86 tỷ đô la (86 ngàn triệu Mỹ kim!). Số tiền khổng lồ trên đây mà cộng đồng của những chủ nhân của nó chưa bao giờ ngờ tới, cũng như không bao giờ nghĩ rằng hành động riêng rẽ của mỗi nguời, không cần suy nghĩ đã nghiễm nhiên giúp cho một chế độ bạo ngược như cộng sản Việt Nam dành đuợc một địa vị và một ưu thế trên truờng quốc tế, chưa nói đến việc họ đang có hoàn cảnh thuận tiện để xâm nhập vào xã hội Hoa Kỳ và dễ dàng khuynh đảo cộng đồng nguời Việt quốc gia. Lúc đó, chỉ còn biết than trách, chụp mũ lẫn nhau, rằng “ai đa gây nên nông nổi này!”
.
Thảm Họa Thế Kỷ Sau đây, chúng ta hãy cùng nhau bình tâm mổ xẻ cái Thảm Họa Thế Kỷ này, từ nguyên nhân sâu và xa của nó, để tránh lập lại những lỗi lầm lịch sử vì đa bỏ qua những bài học lịch sử. Cuốn “Hắc Thu Cộng Sản” (Le Livre Noir Du Communisme) do nhóm học giả siêu đẳng về chính trị xã hội học của Âu châu xuất bản vào nằm 1997 (Edition Robert Laffont) là một pho sử liệu uyên bác và vô tư, ghi lại rành mạch các tội ác tày trời của cộng sản khắp thế giới. Tai họa khủng khiếp này đa xãy đến cho loài nguời nhu một thiên tai tầm cỡ, khởi đi từ cuộc cách mạng Bolkshevik của Lenin ở Nga năm 1917, nhập cuộc với hoàn cảnh chiến tranh ly loạn và khủng hoảng trong hai thế chiến liên tiếp đa lan ra khắp địa cầu như một cơn đại hồng thủy, một nạn dịch khủng khiếp kéo dài ngót 70 năm, giết mất hơn một trăm triệu sinh linh trong những truờng hợp oan khiên, thê thảm tột cùng.
.
Mãi cho đến đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, thế giới mới thở phào nhẹ nhỏm, chứng kiến một chấn động dây chuyền làm tan rã toàn bộ Sô Viết toàn cầu. Cái kết cục chờ mong từ bao thập niên qua đa xãy ra một cách vừa ngoạn mục, vừa êm thấm nhờ vào bốn yếu tố sau đây:
.- Sự bất mãn, chán chuờng của mọi tầng lớp dân chúng Nga đối với một chế độ độc tôn toàn trị, đa biểu hiện bằng thái độ say sưa, nghiện ngập, không còn tham gia tích cực vào mọi chương trình của nhà nuớc. Nền nông nghiệp Nga phong phú từ thời Nga Hoàng đa xuất cảng lúa mì khắp Âu châu, nay lại phải nhập cảng từ Hoa Kỳ, Gia Nã Đại đến 8 tỷ đô la mỗi năm. Hậu quả trên đây gây ra khủng hoảng kinh tế, càng suy sụp vì không bắt kịp Hoa Kỳ trong cuộc thi đua võ trang (stars war), lại không còn sức viện trợ cho các nước chư hầu như Nga Sô nên ngày càng suy tàn uy thế. Hiệu lệnh Perestroika và Glasnost ban ra từ Điện Cẩm Linh đa châm ngòi cho cao trào “cởi mở” và “đổi mới”, tạo ra hiện tuợng nới lỏng, buông tay lái ở các cấp bộ thừa hành, dần dần thoát khỏi nanh vuốt của các chính trị bộ cộng sản địa phuong và trong lúc cao trào chống cộng ở các nuớc Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi ngày một sôi nổi, quyết liệt hon.
.
Sự xuất hiện đồng thời của hai vị lãnh tụ tối cao của thế giới luỡng cực, Mikhail Gorbachev của Nga, và Ronald Reagan của Hoa Kỳ (lãnh đạo thế giới tự do) đầy sáng suốt và khôn ngoan đã cùng nhau giảng hòa và chấm dứt chiến tranh lạnh, với mọi tương nhượng và lòng tương kính thỏa đáng, tránh cho các phe nhóm quá khích không kịp cuớp tay các loại vu khí tàn sát tập thể gây rủi ro đưa đến thế chiến thứ ba. Đây là co hội “ngàn năm một thuở” tạo điều kiện cho các dân tộc Đông Âu và Bắc Âu nhanh chóng chụp lấy co hội, đồng loạt quang phục lại thể chế dân chủ, tự do và nền văn minh truyền thống co hữu từ bao thế kỷ truớc. Nhân loại thoát đuợc ách cộng sản.
.
Thảm họa của thế kỷ 20 tuởng chừng như đã điểm giờ cáo chung. Nguời ta có quyền nguỡng vọng đến một thời đại thanh bình, thịnh trị cho cả hành tinh loài nguời. Thiên hạ uớc mo một thứ “trật tự mới” trên toàn thế giới mà ảnh hưởng của Hoa Kỳ, từng vang vọng một thời suốt Đệ Nhị Thế Chiến, sẽ chói sáng lý tuởng dân chủ, tự do cho mọi dân tộc. Từ năm 1989 đến 1991 là những năm vừa ngoạn mục vừa hồi hộp nhất trong lịch sử nhân loại thế giới. Giải truờng thành gọi là bức màn sắt ngăn chia hai cõi tự do và cộng sản đa đuợc triệt hạ. Bức tuờng Bá Linh cung bị ủi sập truớc sự reo hò của công chúng. Từ Bắc Âu giá lạnh cho đến miền Nam nắng ấm của Địa Trung Hải, nguời ta nhặt lại từng mãnh hạnh phúc đa mất truớc đây, kiên nhẫn làm lại cuộc đời, tự hứa với mình từ nay sẽ không bị cuốn hút vào những tội ác tập thể đề xuớng bởi bọn bạo chúa thống trị.
.
Nhân loại tuởng rằng hai cuộc thế chiến, ba tai họa Phát Xít, Quốc Xã và Cộng Sản đa quá đủ cho loài nguời làm bài học để chấm dứt từ đây mọi phiêu luu điên rồ vì mắc phải muu tuyên truyền của thế giới đại đồng và thiên đuờng vô sản. Vì Sao Việt Cộng Sợ Tự Do Như hai mặt của cuộc đời, Mặt Trời đa rọi sang Âu châu, nhưng phương Đông bóng tối vẫn mù mịt đêm dài. Những khác biệt về trình độ văn hóa, truyền thống dân tộc và yếu tố lịch sử đa khiến các dân tộc Tây phuong nhanh chóng vồ lấy cơ hội, tự giải phóng cho chính mình, ngay giờ phút cộng sản cáo chung. Trái lại trên lục địa Trung Hoa, Mao Trạch Đông đa lìa đời, để lại bao tang tóc, tàn phá đến sạt nghiệp cả nuớc, sau bao đợt “cách mạng văn hóa”. Những nguời thừa kế họ Mao bàng hoàng truớc trách nhiệm khủng lồ: cai trị dân số gần một ngàn triệu nhân khẩu! Chỉ còn một phuong pháp duy nhất là tiếp tục đuờng lối độc tài, toàn trị theo kinh nghiệm lịch sử ngàn xua. Nhưng chủ yếu là phải khôi phục lại chủ quyền tu hữu để vận dụng cho bộ máy nhân lực hăng say bắt tay vào công tác sản xuất tài nguyên. Khả năng trí tuệ của các khối Hoa Kiều hải ngoại đa góp tay sáng tạo cho Trung Quốc vuợt lên địa vị ngày nay.
.
Còn Việt Nam? Vào thời điểm 1991 thì Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam tự do đa bị thôn tính 16 năm truớc đó. Chế độ thực dân mới của cộng sản Bắc Việt đang say men chiến thắng, tung hoành một cõi. Miền Nam là chiến lợi phẩm tùy tiện của miền Bắc. Tính mạng, tài sản của nguời dân miền Nam nằm trọn vẹn trong quyền sinh sát của chế độ mới, một chế độ quân quản đang tung hoành, vơ vét, khủng bố, trả thù. Tất cả mọi cấp quân, cán, chính miền Nam bị lưu đay, học tập cải tạo, trừng giới, khổ sai hàng chục năm. Vợ con “ngụy” muốn yên thân phải làm nô lệ cho cán bộ miền Bắc. Tuởng mình là bá chủ thiên hạ, cộng sản Việt Nam, một công hai việc, động viên con cháu ngụy, bắt hy sinh qua đánh chiếm Cam Bốt. Phuong Bắc thì xung đột võ trang với đàn anh mà cũng là ân nhân Tàu cộng. Đến khi tỉnh giấc, nhìn quanh thế giới cộng sản đa không còn, mà nuớc nhà thì đang kiệt quệ, khốn cùng vì chính quyền chỉ quen bóc lột, cuớp phá nhân dân, tuởng như còn thời kỳ chiến tranh. Phá hoại thì dễ, mà ổn định đời sống và phát triển quốc gia thì là chuyện khác.
.
Lại vác mặt sang Bắc triều xin xá tội để tiếp tục làm chu hầu, đồng thời nhân nhuợng khuyến cáo Hoa Kỳ, buông thả quân cán chính miền Nam ra khỏi các trại cải tạo để đổi lấy việc tháo gở cấm vận của Hoa Kỳ. Tất cả vận dụng trên đây chỉ nhằm mụch đích ổn định tình thế cần thiết cho việc tiến hành chính sách của đảng, là hoàn chỉnh một chế độ độc tài toàn trị với Đảng ngồi trên tổ quốc, hoàn toàn chi phối cả ba thành phần Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp của nhà nuớc. Đảng lãnh đạo luôn Mặt Trận Tổ Quốc, một vòng rào ngoại vi của đảng, kiểm soát mọi sinh hoạt văn hoá, tín nguỡng hay khoa nghiệp rường cột của quốc gia. Mặc dầu nuớc nhà đã “độc lập, thống nhất”, không có nội loạn, ngoại xâm, mọi dân quyền và nhân quyền đều đuợc đảng coi là những thứ không cần thiết, khi đảng đã lo đầy đủ cho nhân dân rồi. Nếu một chế độ lỗi thời, phi nhân có làm thiệt thòi hay thương tổn cho quyền lợi quốc gia trên truờng quốc tế thì điều đó cũng không đáng kể bằng quyền uy tuyệt đối và không giới hạn của đảng cộng sản.
.
Tìm lại căn nguyên của thảm họa Để giải quyết cho vấn nạn về tổ chức cộng quyền tại Việt Nam ngày nay, chúng ta hãy trở lại từ nguồn gốc và các thủ đoạn của đảng cộng sản Bolshevik mà Lenin và Stalin đa tạo lập và thực thi, để tìm đuợc lời giải thích, vì sao cộng sản Việt Nam đa toàn thắng trong việc thôn tính cả nuớc, mà còn đang tâm hành xử bạo nguợc với nhân dân nhưvậy. Trực chỉ vào cốt tủy của vấn đề, căn nguyên của thảm họa Việt Nam hiện tại nằm trọn vẹn trong cái gọi là “tư tuởng Hồ Chí Minh”. Nó là một tư tuởng độc hại, truyền kiếp lâu đời cho loài nguời vì nó làm băng hoại luong tri và đánh đổ mọi giá trị luân lý và trật tự xã hội, vì nó thoát thai từ ý thức Bolshevik của Lenin. Nó là một binh thuyết của Lenin, xuất phát từ một quan niệm duy vật biện chứng của Marx và Engels (communist manifesto 1848) nhằm liên kết công nhân toàn thế giới, truất quyền tư hữu của giai cấp tư sản, với mục đích chia sẻ đồng đều mọi phương tiện sản xuất, ngõ hầu tăng gia sản xuất nhu yếu phẩm cho nhân loại.
.
Nhung đây chỉ là cái bánh vẽ chưa bao giờ hiện thực trong lịch sử nhân loại. Bởi vì Lenin đã nhanh tay cuớp lấy làm chiêu bài để kêu gọi thành lập nhiều hội kín cách mạng, tuyển mộ trong giới lưu manh tội phạm để đi cuớp của giết nguời mà chúng gọi một cách văn hoa là làm nghĩa vụ tuớc đoạt và thanh trừng tư sản để cho giai cấp vô sản thống trị toàn thế giới bằng bạo lực chuyên chính. Và trong thế kỷ qua, chưa hề thấy giai cấp công nhân đuợc quyền lợi gì, trái lại chỉ có bọn “bạo chúa thống trị” nhân danh công nhân để làm đế quốc Triều Đình Sao Đỏ, nhu ngày xua Stalin ở Nga, Mao Trạch Đông ở Tàu cộng và Hồ Chí Minh cùng đám cận thần ở Việt Nam.
.
Những phát hiện trên đây là căn cứ vào những tài liệu do nhà biên khảo Nguyễn Minh Cần sưu tầm tại các văn khố và thư viện ở Nga, là xứ sở mà ông sinh sống, lập gia đinh, và làm việc từ 40 năm qua sau khi bị trung ương đảng cộng sản Việt Nam khủng bố trong “vụ án xét lại chống Đảng”. Ông đuợc tị nạn chính trị ở Nga cho đến ngày Cộng Hòa Nga ra đời và Liên Bang Sô Viết cáo chung.
.
Sau nhiều năm tháng truy cứu, đã khám phá ra nhiều tài liệu phát hiện đuợc những mưu mô, đòn phép của Nguời sang lập ra đảng cộng sản Việt Nam. Ông Nguyễn Minh Cần là tác giả của cuốn “Đảng CSVN qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế”, (nhà xuất bản Tuổi Xanh, năm 2001, sách dày 230 trang.) Tài liệu phát xuất từ Điện Cẩm Linh ngày xua chứa đựng trong sách của ông Nguyễn Minh Cần đa dẫn chứng minh bạch cho câu hỏi Tại Sao của chúng ta. Làm sao một chủ nghĩa gọi là đại đồng, một lý tuởng huynh đệ toàn cầu mà lại đầu hôm sớm mai biến thành một bạo lực chuyên chế đẩm máu, dùng mánh khoé đấu tranh giai cấp để đoạt ngôi vị độc tài toàn trị trên toàn thể nhân loại! Những trại lưu đày, những chiến dịch đấu tố, thanh trừng, hành quyết tập thể ngợp trời đất đã đi qua, cuộc điều tra khắp thế giới chưa hoàn tất, mà cộng sản đã tiến hành bao chiến dịch tung hỏa mù, tiêu hủy hồ sơ, dấu nhẹm tin tức, đổ thừa cho nạn nhân, và cuối cùng chơi trò Đổi Tên. Vâng, hai chữ cộng sản trong thế kỷ 20 đa đồng nghia với khủng bố, cuớp của, giết nguời, thủ tiêu nhân chứng. Danh từ hoa mỹ “xã hội chủ nghia” rồi đây cung sẽ làm cho nguời nghe rùng mình, ớn gáy, nếu công an đuợc toàn quyền đánh đập khách qua đuờng, nếu y sĩ và y tá có thể thẳng tay sách nhiễu bệnh nhân trong các bệnh viện, nếu các nhà “lão thành cách mạng” còn nghiện ruợu mạnh ngâm gan tươi của thanh niên (điển hình trong chuyện Bà Cả Bổng) và dùng duy vật biện chứng để triệt tiêu tình mẫu tử. Cổ kim, Đông Tây chưa có xứ nào mẹ sinh con ra để đem đi bán, nhất là biết rằng bán rồi con mình sẽ bị hành hình chết thảm sau ít ngày bởi bàn tay bọn quỹ râu xanh.
.
Nguời đảng viên guong mẫu của cộng sản quốc tế, anh hùng Joseph Stalin Để minh họa cho mức độ bạo tàn và bất nhân của cộng sản quốc tế, nhất là thành phần Bolshevik của Lenin và Stalin, không kém gì bọn ZZ của Đức Quốc Xã, xin mời đọc giả duyệt qua một trang trong tuần bào Newsweek, số ra ngày 12-11-2007 vừa qua của Andrew Nagorski, trích đăng một đoạn trong sách “Portrait of the Tyrant as a young man” (Chân Dung một bạo chúa thuở thiếu thời) của Simon s. Montefiore, một biographer thời danh của Anh quốc. Nagorski ghi lại “Một trăm năm truớc tại thành phố Tiffi. Ngày 26-6-1907, một cỗ xe tứ mã đuợc bảo vệ hùng hậu bởi một đoàn thổ dân Cô Dắc, áp tải một kiện hàng lớn trị giá ba triệu Mỹ kim từ thời ấy cho ngân hàng bang Georgia đã rơi vào ở phục kích. Bọn cuớp rất đông, gồm cả 2 phụ nữ, vũ khí tận răng, đã xã hết hỏa lực vào mục tiêu. Đại liên và lựu đạn nổ vang rền trời đất. Ruột gan ngựa và nguời bay tung tóe cùng máu me lai láng một quảng truờng.” Đó là câu mở đầu của Simon Sebag Montefiore cho cuốn sách “Young Stalin” mà ông ta vừa cho xuất bản. Chủ muu của kịch bản đẫm máu đa làm toi mạng trên 40 nạn nhân hôm đó, là nguời mà sau này thế giới đều quen tên, biết mặt, chính là Joseph Stalin!
.
Đó là thời kỳ khởi đầu của một nhóm băng đảng có muu đồ phức tạp giữa Stalin và một bọn bất lương giang hồ để thực hiện một mục tiêu vô cùng mờ ám. Montefiore, tác giả của một thiên tiểu sử thời danh về tên bạo chúa Sô Viết đa đặt tiêu đề cho cuốn sách truớc đó là “Stalin: Triều Đinh Sao Đỏ” để nói về thời đại cầm quyền của Stalin. Trong lúc “Young Stalin” là cuốn chú trọng về thời niên thiếu của Stalin (niên thiếu ở đây có nghia là từ thời chú bé du côn cho đến cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917 thì hắn ta vừa tròn 40 tuổi). Một lần nữa, sa đuợc vào hầm tài liệu vừa đuợc giải mật từ Nga và Georgia, Montefiore nắn ra đuợc chân dung đích thực của nguời thanh niên vừa phức tạp vừa kỳ quặc đến nực cuời trong cái thời đại của khủng bố, và nó nhắc nhở cho thiên hạ sự phát xuất kinh hãi của những bọn cách mạng Bolshevik đang mở màn thảm trạng hành quyết tập thể tới một tầm cỡ vuợt ngoài sức tuởng tuợng.
.
Con của một anh thợ giày nghiện ngập và một bà mẹ chuyên quyền, Josef Djugashvili là tên khai sinh của thằng bé. Nó lớn khôn trong xung đột, xung đột trong gia đinh giữa vợ chồng anh thợ giày và rốt cuộc, đuờng ai nấy đi. Cha hắn, tục danh là “Crazy Beso” thuờng hay bạo hành vợ con, đánh đập con vô duyên cớ, biến thằng bé trở thành vô tâm và chai lỳ nhu bố (theo nhận định của một nguời bạn cùng thời). Bố nó muốn nó học nghề của cha cùng làm thợ giày. Nhung mẹ nó muốn nó đến truờng. Lịch sử nhân loại thế kỷ vừa qua có thể đã khác xa nếu cha nó thắng cuộc. Cha nó bỏ đi ra khởi đời nó, và đứa bé trở thành một học sinh nổi tiếng, vừa thông minh, vừa hung ác. Truớc hết, y vào truờng nhà dòng seminaire, nhưng đa nhanh chóng bỏ đạo và theo con đuờng cách mạng. Stalin thành công trên truờng chính trị nhờ sự hợp đồng lạ kỳ của học vấn với bạo hành ngoài phố phuờng. Stalin có khả năng làm thơ, có giọng hát cao và ấm. Thầy giáo của y cho hay rằng Josef chuyên học cách đánh lộn ngoài đuờng phố và chóng vánh gia nhập xã hội đen, du đảng và làm mật thám cho hoàng gia. Liên tục thay đổi phe nhóm do liên hệ quê quán, chính trị hay đánh thuê, hay là tất cả những thứ ấy-nguồn gốc Georgia lớn lên thành một tên cuớp khủng bố “terrorist ganster” từ ngữ của Montefiore. Stalin thuờng nhanh chóng cáo buộc những kẻ vô can là phản bội.
.
Trong thời gian mới phục vụ duới quyền Lenin, anh ta len lỏi, xui nguyên dục bị và có một khát vọng báo thù ghê gớm, cho đến khi cầm quyền thì những thanh trừng không còn biên giới. Liên tục đánh cuớp để gây quỹ cho Lenin mua vũ khí, y không ngần ngại đánh cuớp cả một chuyến xe lửa chở lương tháng cho thợ hầm mõ, là chính cái giai cấp mà y hô hào bảo vệ. Stalin có tài ngụy biện, xảo ngôn, biết cách nói chuyện với cả nguời giày lẫn kẻ nghèo, nhất là mê hoặc các kỹ nghệ gia trong vùng. Những ai khờ khạo, có cảm tình với cách mạng thuờng cúng tiền một cách thoải mái, để rồi vô hình chung giúp cho cách mạng triệt hạ sự nghiệp và sinh mạng mình một cách chóng vánh hon. Sau vài câu chuyện trao đổi với Stalin, những nguời giàu chợt hiểu rằng thế nào cũng phải đóng góp, ủng hộ ít nhất là ngang với số tiền mà y nói rằng có ai khác đã cúng. Nếu không thì bất cứ gì cũng có thể xã ra: bị mất trộm, bị hành hung, đốt nhà, hay con cái bị bắt cóc. Stalin bị phát giác dính líu đến nhiều mưu đồ, đa từng xữ dụng đến 160 bí danh trong các cuộc tổ chức đánh cuớp có vu khí, liên tục vào tù ra khám thời kỳ các Nga hoàng. Vuợt ngục và luu vong, y có mặt hầu khắp các chốn tội lỗi ở Âu châu nhu Cracow, Vienna, London để họp kín với Lenin và bọn Bolshevik.
.
Vậy mà anh ta cũng có thời giờ cuới vợ, sinh một con trai, cùng nhiều đứa con vô thừa nhận khác. Thuờng ăn ở với nhiều phụ nữ cả trong lẫn ngoài nhà tù, trong số đó có một bé gái vị thành niên (13 tuổi) tên là Lydia Pereprygina mà y gặp ở một xóm nhỏ trên vòng đai Bắc cực, nơi y bị lưu đày lúc 34 tuổi. Sự chung đụng này sinh một em bé không nuôi được, và một đứa khác sống sót nhưng sau này lang thang, chẳng bao giờ đuợc Stalin thừa nhận là con mình. Nếu Stalin đã đuợc gầy dựng lên trong bạo động và muu đồ tại vùng Caucase trong thời hoàng hôn của triều đại Nga hoàng, thì quãng đời ngắn ngủi y làm thợ săn một mình ở Siberia cũng góp phần tạo nên cá tính của một kẻ đầy tự tin, bén nhạy, lạnh lùng và cô đơn suốt cả những năm tháng trị vì trong điện Cẩm Linh sau này.
.
Rồi tác giả Montefiore kết luận “Và, như một cộng tác viên gần gủi nhất của y là Vyacheslav Molotov đã nhận xét, một chút Siberia nằm lại trong Stalin suốt cuộc đời còn lại của ông ta.” Từ những hợp phần của cuộc đời đầy sóng gió, Stalin, con nguời sắt thép xuất hiện. Montefiore, một văn bút thần tình, đa thành tựu tác phẩm vi đại, mô tả sống động cuộc hành trình kinh hoàng từng buớc chân đẫm máu của bạo chúa Stalin. Trích dẫn bài viết của Andrew Nagorski trong tuần báo Newsweek ra đây, nguời viết muốn phơi bày tuờng tận bản chất và hành tung của một tên côn đồ trở thành bạo chúa và cả thế giới giờ đây đa tràn đầy sử liệu. Nhưng kẻ đầu đảng sáng lập đảng cộng sản Việt Nam là Hồ Chí Minh đa tận trung tận hiếu tôn thờ y như một thánh sống cách mạng. Suốt từ thời phát động phong trào đấu tố cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1951-1956), Việt Minh cộng sản đã ra lệnh cho tất cả mọi nhà phải đưa lên bàn thờ tổ tiên bộ ba Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh để thờ phụng. Tâm sự với bọn đồng chí thân cận trong bộ chính trị, Hồ Chí Minh không tiếc lời ca tụng và tôn sùng những tên bạo chúa vừa kể trên. Lệnh đã ban cho tất cả đội ngũ văn nô miền Bắc đánh bóng cùng đề cao “đạo đức cách mạng vi đại của bộ ba Xít Mao Hồ”. Nguời Việt nào không nguợng ngùng cúi mặt khi đọc những vần tho Tố Hữu. Riêng Hồ Chí Minh lại còn lếu láo làm thơ niêm yết ở Đền Quan Thánh, xưng hô “bác bác, tôi tôi” với Đức Thánh Tổ Trần Hung Đạo: Bác bác, tôi tôi cũng anh hùng Hai ta cùng chung nghiệp kiếm cung Bác chống quân Nguyên đền nợ nuớc Tôi mang thế giới đến đại đồng Lãnh Tụ (!) Hồ Chí Minh Việt Nam cũng có một nhân vật đồng chí với Stalin, nhưng không có dáng điệu côn đồ như lãnh tụ cộng đảng Nga.
.
Trái lại, ông ta ma mãnh xuất hiện duới phong cách một nhà nho ái quốc, chỉ muốn tranh đấu cho độc lập nuớc nhà mà thôi. Đột nhiên, sau khi Mao Trạch Đông chiếm đuợc toàn cõi Trung Hoa lục địa năm 1949 và thiết lập nền thống trị vô sản chuyên chế, thì lập tức Hồ Chí Minh phóng tay phát động năm 1951 chiến dịch thanh trừng đẫm máu, lần luợt đấu tố giai cấp địa chủ, rồi đến trung phú nông trí thức, hành quyết nạn nhân một cách cực kỳ man rợ, bằng cách chôn sống hoặc đập vỡ đầu một trăm bảy muoi ba ngàn luong dân vô tội. Bao nhiêu oan khiên, tang tóc vang dậy cả đất trời miền Bắc suốt 6 năm liền. Nửa thế kỷ sau nhớ lại vẫn chua hết kinh hoàng. Mỉa mai hon nữa, thanh toán xong giai cấp này, Hồ chủ tịch đứng ra “xin lỗi” nhân dân, hứa hẹn sửa sai.. Mãi đến giờ này cộng sản còn áp dụng xảo thuật tuyên truyền bền bỉ, làm cho các thế hệ trung niên trên thế giới vẫn tin rằng Hồ Chí Minh chỉ là một nguời ái quốc, chẳng hề là đảng viên cộng sản. Qua đời đa mấy thập niên, các phân tách gia chính trị Tây phuong vẫn còn tranh cãi sôi nổi về bộ mặt thật của con nguời đa từng xử dụng đến 60 bí danh trong quá trình hoạt động chính trị của y. “For decades, there has been what amounted to a conspiracy to keep us from knowing the essential truth about the life of Ho Chi Minh…Nor was he of much help in his lifetime, throwing sand into the eyes of the world, and determinantly projecting a multifaceted image.” Douglas Pike, Associate Director, The Vietnam Center, Texas Tech University. Bao thập niên trôi qua vẫn còn một âm muu che dấu sự thật về cuộc đời của Hồ Chí Minh. Ngay bản thân ông ta, suốt đời ném cát vào mắt thế giới, và nhất quyết phơi bày ra một con nguời muôn mặt… Dù sao đi nữa, mọi tranh cãi đa lắng xuống, khi ông Hồ thảo di chúc để lại cho các đồng chí cộng sản quốc tế năm 1969, với câu nhập đề rất minh bạch rằng : “theo lời nguời xua, thất thập cổ lai hy! Rồi đây tôi có vinh biệt cõi đời để đi theo các cụ Các-Mác, Lê Nin…” thì thực sự lá bài tẩy đa đuợc lật ra. Chỉ khổ cho đảng cộng sản và dân tộc Việt Nam, phải lầm lủi, miệt mài, lê buớc theo con đuờng xã hội chủ nghia đui mù. Trong lúc cả nhân loại toàn thế giới đang hoan ca từ năm 1991, vứt bỏ cái lý thuyết lạc hậu và ngu xuẩn gọi là vô sản chuyên chế mà thực tế chỉ là một quỷ kế của Lenin, lập ra giai cấp thống trị mới của xã hội đen lưu manh mà Hồ Chí Minh đa trót đóng đinh làm tư tuởng hệ của mình.
.
Cả hoàn vũ hiện nay chỉ còn 4 nuớc cộng sản: Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Trung cộng thật sự còn có lý khi ôm cứng một chế độ độc tài toàn trị để kiểm soát một dân số một tỉ ba trăm triệu nguời, mà quá trình lịch sử bốn ngàn năm không mấy khi đuợc thống nhất. Trái lại, Việt Nam là một dân tộc thông minh, đất nuớc đầy tài nguyên thiên nhiên, địa lý nằm ngay trên ngã tư quốc tế qua lại, nắm đuợc mối liên hệ siêu cuờng, tự do và giao thuong mật thiết với các lân bang Á châu, sao lại cam chịu làm con tốt gác cửa cho Trung cộng? Định Mệnh Việt Nam Cốt tủy của tu tuởng hệ Hồ Chí Minh là quan niệm cộng sản Bolshevik chính thống của Lenin phát minh truớc khi đảo chính cuớp chính quyền nuớc Nga năm 1917.
.
Rút kinh nghiệm thành công ở Nga, thành lập ra những hội kín của những kẻ âm mưu thật bí mật, dùng bạo lực để cuớp chính quyền, cuớp xong trở thành một đảng nhà nuớc, bám chặt vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nuớc, của giai cấp thống trị mới gọi là giai cấp quan liêu (nomenklatura), cồng kềnh hằng triệu nguời (công an) đè nặng lên quảng đại quần chúng. Bằng bạo lực chuyên chế đẫm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng những mọi phản kháng, mọi ý đồ đối lập mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả mọi tư tuởng độc lập, mọi ý huớng dân chủ, mọi tư tuởng khác biệt, cả trong đảng lẫn ngoài xã hội. Lãnh tụ tối cao của đảng có quyền lực cá nhân không hạn chế. Đó là lộ đồ mà Nga sô thôn tính thế giới bằng hình thức chiến tranh giải phóng khắp các nước nhuợc tiểu để trở thành chư hầu Nga sô. Đúng nhu lời Lenin tuyên bố truớc đó rằng: “Hãy cho tôi một đảng của những nguời cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật nguợc cả nuớc Nga”. Còn sau cuộc đảo chính tháng 10 năm 1917, ông tuyên bố sẽ lật nguợc cả thế giới vì từ lúc đó là thời kỳ dẫy chết của các cuờng quốc tư bản. Hồ Chí Minh đa áp dụng thành công chính luợc này ở Việt Nam.
.
Nên nói rõ thêm ở đây là theo đúng mô thức của cán bộ cộng sản gương mẫu Stalin, hai danh từ tuớc đoạt và trừng trị, có nghĩa đen là cuớp của và giết nguời. Đó là cách thực thi quan niệm tiêu hao địch, bồi duỡng ta trong chiến tranh cách mạng để giải phóng, hiện rõ nét trên chiến truờng Việt Nam từ 1946 đến 1975.
.
.Nhìn lại quá trình hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam và nhà nuớc xã hội chủ nghia cai trị toàn cả nuớc từ 1975 đến nay, tất cả quan niệm chiến luợc và chính luợc trên đây đều đuợc thể hiện đầy đủ trong mọi chiến dịch tuớc đoạt và cải cách xã hội của đảng và nhà nước, gom góp quản chế mọi tổ chức thành phần xã hội và tôn giáo vào chung một Mặt Trận Tổ Quốc, là thành phần ngoại vị của đảng. Ảnh Huởng của Tư Tuởng Hồ Chí Minh Bền bỉ bám chặt vào tư tuởng Hồ Chí Minh, nghĩa là tư tuởng Bolshevik của Lenin, đảng cộng sản Việt Nam triệt để thi hành chính sách tuớc đoạt và thanh trừng ngay sau khi thôn tính miền Nam. Sau khi vơ vét hết công tư sản toàn cả nuớc, đảng đuợc thế, dòm ngó thành phần nguời Việt quốc gia ở năm châu hải ngoại, sau 30 năm xa xứ đa trở thành một thực lực kinh tế khoa nghiệp và trí tuệ có tầm vóc. Đảng lại phóng ra thêm một nghị quyết vô cùng thô bạo, coi thuờng mọi công uớc và quy uớc quốc tế, ngang nhiên tuyên bố rằng: “cộng đồng nguời Việt ở nuớc ngoài là một bộ phận không thể tách rời của tổ quốc Việt Nam, là duới quyền của đảng!” Chưa đủ. Tiếp theo đó đua ra một nghị định thu phế bỏ mọi điều lệ quốc tế về luật quốc tịch để ngang nhiên phủ nhận quyền từ bỏ quốc tịch của nguời Việt quốc gia, lại còn buớng bỉnh muốn đòi mọi trẻ sơ sinh của Việt kiều ở bất cứ noi nào trên thế giới cũng đều là quốc tịch Việt Nam cả. Đem luật rừng từ hang Pắc Bó áp dụng lên toàn thế giới, mà các nuớc tiên tiến trên thế giới cũng đành làm ngơ vì hai lẽ. Một là nguời Việt quốc gia ở năm châu hải ngoại từ 32 năm qua không hề là cùng một khối gắn bó. Chẳng những thế, mỗi năm còn đều đặn gởi về nuớc hằng sáu, bảy tỷ mỹ kim. Với số tiền ấy, nhà nuớc cộng sản Việt Nam đem triều cống và chạy chọt với các nuớc “dân chủ” tiền tiến, ở đâu cung đuợc trọng vọng tiếp đón. Bởi vậy cho nên, khi những điều phi lý, ngu xuẩn xãy ra trên thế giới ngày nay, kẻ đáng phỉ báng không chỉ là những kẻ làm bậy, mà phải khiển trách cả những kẻ chịu khuất phục hay a tòng với những kẻ làm bậy.
.
Những gì đang xãy ra trên quê hương Việt Nam Ôn lại những gì đa xãy ra trên quê hương Việt Nam kể từ quốc hận 30 tháng Tu 1975, chúng ta có thể nhận định rằng, một trăm phần trăm như ông Nguyễn Minh Cần đa cho thấy trong tác phẩm “Đảng cộng sản Viêt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế” minh xác rằng quan niệm cơ bản về đảng cộng sản Việt Nam thoát thai từ quan niệm của Lenin, khác với cách nhìn của Karl Marx. Lenin quan niệm đảng cộng sản Bolshevik gồm những nguời mà nghề nghiệp chính là hoạt động cách mạng, một hội kín của những kẻ âm muu. Quan điểm độc quyền này lộ ra trong lá thu Lenin gởi Kun Bela, lãnh tụ cộng đảng Hung năm 1919 sau khi Bela lập nuớc Cộng Hòa Sô Viết Hungary. Lenin nói rằng: “Hãy đàn áp không thương hại những thành phần xã hội chủ nghia khác cũng nhu bọn tiểu tu sản”. Lenin còn chỉ thị rõ rằng xử bắn. Lá thư tài liệu trên, trích từ sách của D. Volkogonov giải thích cho chúng ta hiểu rõ hon những hành động của Hồ Chí Minh, khi thủ tiêu, ám sát và tấn công nguời Việt Nam thuộc các đảng cách mạng có tinh thần dân tộc và cả những nguời theo cộng sản đệ tứ quốc tế. Thật ra khi chưa đọc sách của ông Nguyễn Minh Cần, nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam đa ngầm hiểu từ 1945, hay ít nhất cũng có linh tính, cho nên hai cuộc di cư 1954 và 1975, nhất là 1975 đã có non nửa triệu nguời bỏ mình ngoài biển đông trên đuờng vuợt biên.
.
Không những Lenin không muốn đảng cộng sản Bolshevik chia sẻ quyền lực với bất cứ ai, mà muốn rằng những ai nằm duới quyền cai trị của đảng cộng sản phải tuyệt đối khiếp đảm cho nên hai chữ đẩm máu đi theo danh từ thống trị có ý nghia của nó. Không những thế, nhiệm vụ thuờng trực, suốt đời của nguời đảng viên Bolshevik là tìm mọi cơ hội mở rộng phạm vi quyền lực của đảng trong mọi thời đại và trên mọi địa bàn. Do đó, nguời Việt quốc gia ở năm châu hải ngoại cần hiểu ý nghia của nghị quyết 36 của cộng sản Việt Nam. Và bất cứ xứ sở tự do nào trên hoàn vu này, chớ có khinh suất, khi để cho những tiểu tổ của Bolshevik này vào đóng chốt trong lãnh địa của mình thì một mai kia sẽ không kịp hối hận. Những gì đang xãy ra trên quê huong Trong quá trình chiến tranh truờng kỳ và chiến tranh cách mạng, cộng sản Việt Nam đa rút tỉa một số kinh nghiệm đáng chú ý. Chẳng hạn nhu: “chính sách sai, cán bộ giỏi, vẫn thành công”. Do đó có châm ngôn: “Cán bộ là vốn quý của đảng, cán bộ còn thì đảng còn”. Rồi từ đó đua đến một quan niệm và chỉ tiêu đai ngộ cán bộ, bày ra chỉ số thù lao dinh duỡng có đẳng cấp gọi là đại táo, tiểu táo v.v…The những nguời truớc đây thuờng ra vào cục “R” tức là chỉ huy sở của “Trung Uong Cục Miền Nam” kể lại, thì suốt thời kỳ những năm tháng truờng kỳ gian khổ trong bung biền, trong lúc cán binh hạ tầng khoai sắn qua ngày hay bám vào dân làng để độ nhật thì cán bộ xứ ủy, thành ủy, cấp miền đuợc chế độ dinh duỡng cung phụng vô cùng chu đáo. Nào là thuốc bổ, ruợu ngon nhập cảng, thuốc lá 555, hộ lý trẻ đẹp không bao giờ thiếu. Với cái đa này, khi chiếm đuợc miền Nam, toàn bộ hàng ngu cán binh đuợc đai ngộ ngàn lần hon, và các ủy ban hậu cần không cần chi tiền, hoặc là trả bằng “tiền cụ Hồ”, một thứ tiền nguời ta trao cho thì chỉ biết cầm lấy chứ chẳng biết nó có giá trị gì không! Đây là giai đoạn đắng cay nhất, khổ nhục nhất cho toàn dân miền Nam, chỉ biết mang xuống tuyền đai hay trầm theo sinh mạng duới lòng biển sâu. Trong lúc tại Saigon, các quan lớn cách mạng, đang tấp nập công xa đi tìm chiếm những biệt thự sang trọng nhất, chủ nhà cu chỉ mong thoát lấy thân, của cải để lại nguyên vẹn. Hàng ngàn công an viên kinh tế đuợc tung về Chợ Lớn, đổ ra các tỉnh đi lùng bắt, tra khảo vàng bạc châu báu, các đội thiếu nhi đuợc tuyển ngay làm “cháu ngoan bác Hồ” mang khăn quàng đỏ, hăng hái đi chỉ điểm kho chôn dấu của cải của cha mẹ hay xóm giềng. Phóng viên ngoại quốc quan sát hoạt động của chế độ quân quản, đã chứng kiến những đối xử lạ lùng, của những nguời cùng một giống nòi, một dân tộc, mà giờ đây đa thành hai giai cấp, một thống trị và một của bị trị. Y như những gì đa xãy ra thời Trung cổ. Chính sách nhà nuớc Mọi biện pháp đối trị toàn dân Việt Nam đã đuợc Trung Ương Đảng (viện tư tuởng) điều nghiên vô cùng chu đáo truớc khi phát động chiến dịch thôn tính miền Nam. Từ nội bộ ra đến ngoại vi, truớc hết là con bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thành phần thứ ba, những tổ chức nằm vùng, cán bộ ba muoi, ...

.(Xem tiếp Phần II)

No comments:

Post a Comment