BỐN MƯỚI NĂM NHÌN LẠI BIẾN CỐ LICH SỬ 30/4/75:
PHAN RANG,THÁP CHÀM TÌNH NINH THUẬN
*************
NHỮNG
BIẾN CỐ LỊCH SỬ
TỪ
1-16/4/1975
TẠI
PHAN RANG, NINH THUẬN
Hồ Đắc
Huân
ĐSNT: Trân trọng giới thiệu đôi
giòng về tác giả bài viết này : Ông Hồ Đắc Huân tốt nghiệp khóa 2 Nhân
Vị hiện dich đặc biệt Nha Trang. Từ TTHL/QG Vạn kiếp thuyên chuyển về Tiểu Khu
Ninh Thuận từ 1/9/71 đến 16/4/1975. Thiếu tá Trưởng toán Huấn luyện Lưu Động
Tiểu khu Ninh Thuận. Bị tù Cộng Sản " tập trung cải tạo" 7 năm tại trại
tù Kỷ Sơn,Tiên Lãnh Quảng Nam Đà Nẳng .Sang Hoa Kỳ ngày 22/10/1991 (HO9) -
Thành viên biên soạn Sách Lược Sử QLVNCH 2011 - Tác giả một số bài viết về
QLVNCH trước và sau 1975.
***
Vì quyền lợi, qua sự
sắp xếp của các cường quốc, căn cứ tình thế vô cùng thuận lợi cho Bắc Việt lúc
bấy giờ, Hà Nội đã mở một cuộc tổng tấn công vào Miền Nam Việt Nam để cưỡng
chiếm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trận chiến khởi đầu ngày 10/3/1975 tại Ban Mê
Thuột, kết thúc vào trưa ngày 30/4/1975 tại Thủ Đô Sàigòn.
Với thời gian 55 ngày, nhìn lại lịch sử qua
cuộc lui binh của Quân Lực VNCH (QLVNCH) trên quốc lộ 7 thuộc Quân Đoàn II và
từ Quảng Trị đến cửa Thuận An, Huế thuộc Quân Đoàn I. Ngoài ra, các đơn vị của
ta cứ tháo chạy tạo nên cảnh hỗn loạn vô cùng tang thương cho quân, dân chính
tại các thành phố, quận lỵ vừa di tản.
Sự rút bỏ các đơn vị của ta quá nhanh, địch
quân không kịp tiến vào tiếp quản.
Để chận đứng trận tổng công kích, QLVNCH có
hai nơi đã lập tuyến phòng thủ chận đánh địch, đã gây cho Cộng Sản Hà Nội một
sự bất ngờ và chịu tổn thất vô cùng nặng nề, đó là hai mặt trận Phan Rang và
Xuân Lộc.
Sau 1975, có một số chiến hữu từng là cấp chỉ
huy của các đơn vị tham chiến tại Phan Rang hoặc các nhà báo đã viết lại trận
Phan Rang. Nội dung các bài viết ghi lại sự diễn tiến hoạt động của Bộ Chỉ Huy
Tiền Phương Phan Rang là chính yếu. Các sự kiện lịch sử khác xảy ra tại Bộ Chỉ
Huy Tiểu Khu Ninh Thuận cùng thời điểm trên chưa ai biết rõ để viết lại.
Người viết là Sĩ Quan thuộc Bộ Chỉ Huy Tiểu
Khu tháp tùng Đại Tá Trần Văn Tự, Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận cùng
đoàn quân tự thoái vào Phan Thiết rồi về lại Phan Rang và góp phần hoạt động
tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu cho đến sáng ngày 16/4/1975 là ngày Cộng quân đã chọc
thủng tuyến phòng thủ Phan Rang.
Qua hồi ức, thêm tài liệu của những người
trong cuộc còn nhớ rõ, xin tổng hợp các chuyện rời để gom thành bài “Những biến
cố lịch sử từ 1-16/4/1975 tại Phan Rang-Ninh Thuận”.
Lược sử tỉnh Ninh Thuận.
Thành
Phố Phan Rang ngày xưa nhìn từ trên máy bay
Ninh Thuận là một tỉnh
nhỏ thuộc miền duyên hải ở phía Nam Trung Phần Việt Nam.
- Lịch
sử: Tỉnh
Ninh Thuận trước có tên là Phan Rang do tiếng Chàm Panduranga (Padarang) đọc
trại ra.
- Tỉnh
lỵ: Thành
phố Phan Rang, ở cây số 1.557.
- Vị
trí, ranh giới:
Đông giáp biển Đông Hải, Tây giáp tỉnh Tuyên Đức, Nam giáp tỉnh Bình Thuận, Bắc
giáp đặc khu Cam Ranh.
-
Khoảng cách từ Phan Rang: Về phía Đông sát bờ biển Đông Hải, cách Đà Lạt 107 cây số
về hướng Tây. Cách Phan Thiết 145 cây số về hướng Nam, cách Nha Trang 106 cây
số về hướng Bắc, cách Cam Ranh 50 cây số cùng về hướng Bắc.
-Diện
tích:
Toàn tỉnh vào năm 1961 là 3.500 cây số vuông.
- Các
Quận:
Tỉnh Ninh Thuận gồm có 5 quận: Thanh Hải, Bửu Sơn, An Phước, Du Long và Sông
Pha. Ninh Thuận thuộc miền Duyên Hải, Trung phần Việt Nam, trực thuộc Quân Đoàn
II, QK 2.
Những điềm báo trước,
vận nước suy vong
Trước ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ có hai
hiện tượng không lành về vận nước xảy ra tại quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận là
nơi sinh quán của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
a. Hòn đá Dao đối diện làng Tri Thủy ngã.
Chiều ngày 9/8/1974, trời mưa tầm tã, gió
lớn, sấm sét nổ chớp liên hồi suốt đêm. Sáng ra dân chúng Phan Rang được tin
chấn động là hòn đá Dao (hình thanh long đao) trước chùa Thánh, núi Cà Đú đã
ngã lúc 17 giờ hôm qua. Trên núi Đá Chồng năm 1972, cụ Ngô Khắc Kỉnh (thân sinh
ông Ngô Khắc Tỉnh, Bộ Trưởng Giáo Dục), Chủ Tịch Hội Khổng Học Ninh Thuận quyên
tiền xây dựng đền Khổng Tử. Trên núi Đá Chồng có hòn Đá Dao đối diện với bên
kia sông là làng Tri Thủy, quê hương Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có hòn đá mặt
quỷ nhìn qua đá Dao.
Dân
địa phương tin vào phong thủy nên có câu “thanh long đao trấn mặt quỷ”. Ngày
xưa có nhà địa lý nói tại đất này về sau phát vị vua. Khi đá Dao ngã quỷ sẽ
lộng hành, nhà vua sẽ sụp đổ. Ông Thiệu theo vợ đi đạo Công Giáo nhưng lại tin
vấn đề này.
Núi Đá
Chồng tại Ninh Thuận nơi
còn lưu
truyền về giai thoại ông Nguyễn Văn Thiệu trấn yểm hòn đá Dao.
Lúc
đó Tỉnh có ý định nhờ trực thăng câu tảng đá lên đặt lại vị trí cũ. Có lẽ vì
không có lệnh, phần khó khăn về kỹ thuật nên không thực hiện.
(Điểm đặc biệt đá Dao ngã trùng hợp thời gian Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon từ chức về vụ Watergate)
(Điểm đặc biệt đá Dao ngã trùng hợp thời gian Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon từ chức về vụ Watergate)
Hòn đá mặt quỷ.
b. Đoàn sâu màu xanh
di chuyển về hướng làng Tri Thủy:
Đêm 19/2/1975 tại đoạn đường Ba Tháp, Cà Rài,
gần cầu Lăng Ông có một đoàn sâu màu xanh, mỗi con bằng ngón tay út bò từ núi
phía Tây Bắc phi trường Phan Rang, sắp hàng di chuyển băng ngang qua quốc lộ số
1, chiều ngang độ 6 thước, không rõ phía đầu tới đâu và chiều đuôi dài bao xa.
Trong ngày đầu đoàn sâu xuất hiện, Đại Tá Trần Văn Tự -Tỉnh Trưởng, ông Ngô
Khắc Kỉnh, ông Biện Lý Lưu Hoàng, Trung Tá Trần Đình Giao (Không Quân Phan
Rang), Đốc Sự Lễ Tấn Nhiểu – Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh và ông Năm Tôn (anh rể
ông Thiệu) có mặt tại cầu Lăng Ông để quan sát. Sau khi nhìn đàn sâu, ông Ngô
Khắc Kỉnh lắc đầu rồi nói với mọi người “vận nước hết rồi!”. Quay qua Đại Tá Tự
ông nói Đại Tá giúp giải quyết việc này. Cứ 6 giờ di chuyển đến 18 giờ gom lại
từng cụm, sâu màu xanh di chuyển về núi Cà Đú hướng đến làng Tri Thủy, khu Đầm
Nại, đi đến đâu phá hoại mùa màng đến đó. Đại Tá Trần Văn Tự, chỉ thị Ty Nông Nghiệp
mang thuốc rầy xịt nhưng không hiệu quả. Sau đó Thiếu Tá Bùi Sơn Hải, Tham Mưu
Phó Tiếp Vận Tiểu Khu đem dầu gazoil đốt nhưng chỉ chết một ít. Cuối cùng phải
nhờ Không Quân ở phi trường Bửu Sơn dùng dầu cặn rải đốt, sâu chết rất nhiều,
hết đốt sâu tiếp tục bò đi. Qua ba ngày đêm tự nhiên biến mất. Ông Năm Tôn, anh
rể ông Thiệu lo sợ mời thầy về làm lễ cầu an nơi nhà thờ tổ đường ông Thiệu.
Hai sự kiện trên xảy ra trên quê hương của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Lúc bấy giờ báo chí phổ biến nhiều người biết.
Phải chăng đây là điềm báo trước sự sụp đổ của chế độ. Sự chết chóc về sau của
dân chúng hướng về biển cả đi tìm tự do. Dân chúng miền Nam nghe tin này hoang
mang vô cùng.
Máy bay hãng hàng không
Việt Nam bị không tặc cho nổ rớt trên không phận Phan Rang.
Vào lúc 14 giờ 12 ngày 15/9/1974, chiếc máy
bay Boeing 727-121C-XV-NJC mang tên Phượng Hoàng của hãng hàng không Việt Nam
chở khách từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Khi vào không phận Phan Rang, máy bay bị
không tặc cho nổ và rớt ngoài vòng đai phi trường Bửu Sơn. Trung Tá Nguyễn
Thanh Lịch (quê Bến Tranh, Mỹ Tho) làm phi công chính cùng 75 hành khách và phi
hành đoàn đều tử nạn. Đây là sự kiện đáng buồn đã xảy ra nơi địa phận Quận Bửu
Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
Đôi nét về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quê làng Tri Thủy
Toàn cảnh
làng Tri Thuỷ Phan Rang nhìn từ xa.
Ông
Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5/4/1923 tại làng Tri Thủy, xã Tân Hải, quận Thanh
Hải, tỉnh Ninh Thuận.
- Học sinh trường Nam
Tiểu Học Phan Rang.
- Học Trung Học
Pélérin Huế, Kỹ Thuật Lê Bá Cang Sài Gòn.
- Sinh viên trường
Hàng hải Thương Thuyền.
- Theo học Khóa 1 Bảo
Đại, về sau đổi Phan Bội Châu Trường Võ Bị Huế (tiền thân Trường Võ Bị Quốc Gia
Việt Nam).
- Tốt nghiệp mang cấp
hiệu Thiếu Úy Hiện Dịch Thực Thụ.
- Ngày 2/11/1963 vinh
thăng Thiếu Tướng.
- Ngày 1/1/1965 vinh
thăng Trung Tướng Nhiệm Chức.
- Ngày 19/6/1965, Chủ
Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
- Ngày 31/10/1967,
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm kỳ 1.
- Ngày 31/10/1971 đến
1975, Tổng Thống nhiệm kỳ 2.
Phu nhân của ông là
bà Nguyễn Thị Mai Anh, ái nữ của cụ Phạm Đình Thưởng, quê ở Mỹ Tho. Ông bà sinh
hạ được 4 người con gồm 2 trai và 2 gái. Ông từ trần hồi 10 giờ 20 ngày
29/9/2001 tại thành phố Boston, Massachusettes, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 78 tuổi.
Đêm,
ngày kinh hoàng nhất tại Phan Rang
Trong
đêm 31/3 bước sang ngày 1/4/1975 là đêm, ngày kinh hoàng nhất tại thị xã Phan
Rang. Thành phố Phan Rang tương đối hẹp, chỉ có đại lộ Thống Nhất nối với quốc
lộ 1 từ Bắc vào và trong Nam ra, chạy qua giữa thành phố. Tại Khu Tam Giác có
thêm ngã ba đường nối từ Đà Lạt xuống theo quốc lộ 11 ráp vào.
Vào những ngày cuối tháng 3-1975, trên quốc
lộ 1 có quá nhiều xe cộ từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Đình rồi Nha Trang...
xuôi Nam. Đủ loại xe cộ chất đầy đồ đạc. Các ông bà già, phụ nữ, trẻ con cùng
binh sĩ rã ngũ và công chức bỏ nhiệm sở. Đoàn xe nối đuôi nhau chạy qua thành
phố Phan Rang.
Ngày Nha Trang đã bỏ ngỏ, Trường Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam và các quân trường khác cùng dân chúng Đà Lạt cũng rút lui trong
đêm 31/3/1975 nên xảy ra sự ùn tắc tại đây. Từng đoàn xe cả quân lẫn dân sự
chật ních người tiếp nối nhau trong không khí chạy giặc. Tiếng súng nổ, tiếng
còi xe hòa lẫn tiếng người la lối, sợ hãi nghe inh ỏi. Về đêm đèn xe chiếu sáng
không khác ban ngày. Không khí ngạt thở bởi khói từ cả đoàn xe khựng lại buông
ra ngút trời. Nhìn đoàn người tôi bắt gặp đôi ba chiến hữu đã biết nhau từ
trước, trong số đó có Thiếu Tá Lâm Mỹ Phú Khóa 17 Nguyễn Thái Học Thủ Đức là
bạn học cùng khóa 4/74 Bộ Binh Cao Cấp tại Long Thành từ Đà Nẵng vào và Thiếu
Tá Nguyễn VănThành (râu) Khóa 19 Nguyễn Trãi Đà Lạt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn
11 Nhảy Dù (biết nhau khi ôn tập Tiểu Đoàn từ Vạn Kiếp). Tóm lại, nhìn cảnh
tượng của đêm 31/3 rạng ngày 1/4/1975 là đêm và ngày kinh hoàng nhất tại Phan
Rang.
Từ ngày này Phan Rang bắt đầu di tản, phố xá,
chợ búa đều đóng cửa. Bộ phận an ninh không sao kiểm soát được.
Chim
sắt cao nguyên xuống miền duyên hải.
Sư Đoàn 6 Không Quân VNCH gồm có 2 Không Đoàn
Chiến Thuật KĐ 72/CT cùng Bộ Tư Lệnh trấn đóng Pleiku, KĐ 82/CT đóng tại Phù Cát
. Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn.
Ngày 15/3/1975, toàn bộ Sư Đoàn di chuyển từ
Pleiku bằng không vận về Nha Trang, ngoại trừ một số phi cơ chờ sửa chữa đành
bỏ lại. Chiều hôm sau Trung Tá Lê Văn Bút, Không Đoàn Trưởng KĐ 72/CT hướng dẫn
các phi đội quay lại Pleiku đánh bom phá hủy máy bay, quân cụ và kho tàng còn
lại. Lưu lại Nha Trang vài hôm, Sư Đoàn chuyển vào phi trường Bửu Sơn thuộc Căn
cứ 20/CT Phan Rang, trong đó có Không Đoàn 92/CT được sáp nhập vào Sư Đoàn 6
Không Quân.
Thiên Thần Mũ Đỏ vào thủ Phan Rang
Chiều 31/3/1975, Tiểu Đoàn 5 và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Dù do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy sau khi rút khỏi Khánh Dương được lệnh chuyển về phi trường Bửu Sơn. Đoàn quân di chuyển từ Nha Trang vào. Đồng bào chạy loạn bám theo hai bên hông đoàn xe và phía sau đuôi. Đoàn xe Nhảy Dù đến đâu họ theo đến đó. Khi vào Phan Rang, Lữ Đoàn 3 Dù đánh lạc hướng đồng bào di tản bằng cách di chuyển về hướng Tấn Tài xuống biển để cắt rời đoàn người ra, sau đó mới chạy vòng lên phi trường Bửu Sơn. Gần đến Phan Rang trời tối đèn xe bật lên với lộ trình thật dài. Nhìn đoàn xe di chuyển với đội hình ánh sáng chiếu rực trời, với tâm trạng qua nét mặt mỗi người có thể xem đây là “Đêm hoa đăng bi thảm”.
Tướng
Phạm Văn Phú ngủ đêm tại Chiến Đoàn ĐPQ ở phi trường Bửu Sơn, Phan Rang
Ngày 31/3/1975, khoảng 20 giờ 30, Đại Tá Trần
Văn Tự, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận nhận được tin báo Tướng
Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Quân Khu 2 sẽ gặp Đại Tá Tự tại phi trường
Bửu Sơn, Phan Rang.
Đại Tá Tự, Trung Tá Ba Tham Mưu Trưởng và
Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Phương khóa 15 Cách mạng Thủ ĐứcTrưởng Phòng 3 Tiểu Khu
đón tiếp Tướng Phú và các sĩ quan tùy tùng đưa về Bộ Chỉ Huy nhẹ Tiểu Khu đặt
bản doanh tại Chiến Đoàn Địa Phương Quân phòng thủ phi trường của Thiếu Tá Ngô
Phùng Quang. Nơi phòng nghỉ Đại Tá Tự báo cáo tình hình an ninh tại địa phương.
Lúc này Tướng Phú hoàn toàn mệt mỏi. Ông luôn móc súng muốn tự sát nhưng các sĩ
quan tùy tùng kịp thời can gián và gìn giữ nên việc đó không xảy ra. Thời gian ở
đây ông không có lệnh gì cho Đại Tá Tự. Tướng
Phú thở dài và than người ông mệt quá bởi đêm hôm trước không sao chợp mắt
được, rồi ông đi nghỉ trên chiếc giường bố.
Sáng sớm ngày 1/4/1975, Đại Tá Tự tiễn Tướng
Phú ra trực thăng bay vào Phan Thiết. Cùng lúc trực thăng chở Đại Tá Lý Bá Phẩm
Tỉnh Trưởng Khánh Hòa đáp xuống lấy thêm nhiên liệu rồi bay đi ngay. Chia tay
Đại Tá Lý Bá Phẩm, Đại Tá Tự và Trung Tá Ba về lại Tiểu Khu. Lúc này thành phố
Phan Rang và Tháp Chàm vô cùng hỗn loạn.
Đại Tá
Trần Văn Tự, Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận và đoàn tùy tùng tự thoái vào Phan
Thiết.
Ngày 1/4/1975, khoảng 8 giờ, qua điện thoại
Thiếu Tá Bùi Sơn Hải Tham Mưu Phó Hành Chánh Tiếp Vận báo cho tôi vào Tiểu Khu
gấp. Tôi bảo anh em trong Toán Huấn Luyện Lưu Động do tôi chỉ huy tại Khu Tam
Giác chờ tin tôi báo về. Gặp Thiếu Tá Hải, ông nói ngay:
- Ông
Huân à! Đại Tá Tự quyết định chúng ta rời bỏ Phan Rang sáng nay. Ông báo tin
gia đình biết, chuẩn bị hành trang và cùng đi xe với tôi.
Tôi báo về anh em thuộc Toán Huấn Luyện,
trong đó có Trung Úy Nguyễn Khoa Khiêm, 8 Hạ Sĩ Quan và 4 binh sĩ. Có 3 Đại Úy
huấn luyện viên đã xin phép vắng mặt trong lúc này. Tôi nói anh em tự động giải
tán về lo cho gia đình. Tôi sắp rời Phan Rang cùng Đại Tá Tự đi vào Phan Thiết.
Chúc anh em luôn an lành. Tạm biệt các bạn.
Xin nói rõ thêm: Sở dĩ Toán Huấn Luyện của
chúng tôi sáng 1/4/1975 còn có mặt nhiều anh em trong Toán với lý do ngoài chức
vụ Trưởng Toán Huấn Luyện Tiểu Khu tôi còn được Tiểu Khu chỉ định làm Đặc Khu
Trưởng An Ninh Phòng Thủ Khu Tam Giác gồm có các đơn vị: Quân Trấn Nha Trang, Chi
Đội Cơ Giới
- Đại
Đội Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Khu, Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Phòng Quân
Tiếp Vụ, Chi Bưu Cục Phan Rang và Cư Xá Sĩ Quan cùng Trại Gia Binh nên anh em
có mặt để phụ giúp tôi.
Liền sau đó thấy Trung Tá Nguyễn Công Ba,
Tham Mưu Trưởng (thay Trung Tá Nguyễn Văn Tiến theo học khoá Chỉ
Huy Tham Mưu Cao Cấp (bảng cấp số mới Tiểu Khu trước hai tháng không có Tiểu
Khu Phó, trước đó ông Ba là Tiểu Khu Phó) và Đại Tá Tự từ phi trường về lại
Tiểu Khu. Cả hai vào Phòng 3 và Đại Tá Tự chỉ thị 20 phút nữa thì đi. Tôi liền
viết ít chữ nhờ người báo về gia đình là tôi sắp đi xa cùng Đại Tá Tự để gia
đình khỏi mong đợi.
Các sĩ quan Bộ Chỉ Huy
Tiểu Khu cùng theo Đại Tá Trần Văn Tự vào Phan Thiết
Sáng ngày 1/4/1975, các sĩ quan cấp Tá dưới
đây cùng Đại Tá Tự và Tiểu Đoàn 250 Thần Ưng vào Phan Thiết:
- Trung Tá Nguyễn Công Ba (1935-2010), (Khóa 4 Cương Quyết Đà Lạt).Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu
- Thiếu Tá Bùi Sơn Hải (1926-2014), (Khóa 10
Thành Tín Thủ Đức).Tham Mưu Phó HCTV Tiểu Khu
- Thiếu Tá Trần Lệ, (Khóa 3 Ấp Chiến Lược Nha
Trang).Trưởng Phòng Truyền Tin.
- Thiếu Tá Hồ Đắc Huân, (Khóa 2 Nhân Vị Nha
Trang).Trưởng Toán Huấn Luyện Lưu Động Tiểu Khu.
- Thiếu Tá Trần Văn Kia, (Khóa 14 Nhân Trí
Dũng Thủ Đức) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 250 ĐPQ Thần Ưng cùng khoảng 500 quân
của Tiểu Đoàn cùng đi theo.
Phái đoàn di chuyển bằng 7 xe jeep và 18 xe
GMC. Ngoài ra, trên xe jeep Thiếu Tá Hải và tôi lúc vào Phan Thiết còn có ông
Học (quên họ), Xã Trưởng Phước Sơn, quận Bửu Sơn xin quá giang.
Có lệnh cho Trung Tâm
Hành Quân không Thiếu Tá?
Sáng 1/4/75 thành phố hỗn loạn không tài nào
kiểm soát được. Các sĩ quan cùng quân nhân các Phòng, Ban đều vắng mặt.
Đoàn xe rời Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Xe jeep
Thiếu Tá Hải và tôi đi sau. Lúc này có viên Hạ Sĩ Quan thuộc Trung Tâm Hành
Quân Tiểu Khu chạy ra hỏi tôi:
- Thưa Thiếu Tá. Đại Tá đi rồi. Tôi phải
thông báo các đơn vị thế nào?
Tôi liền nói:
- Anh gọi máy báo đơn vị nào còn liên lạc
được là: Đại Tá Tiểu Khu Trưởng đã đi khỏi Tỉnh. Các đơn vị tự động giải tán về
lo cho gia đình. Trước khi giải tán phá hủy vũ khí, máy truyền tin, đốt các tài
liệu mật. Phần anh sau khi báo xong hủy toàn bộ máy truyền tin của Trung Tâm
Hành Quân và châm lửa đốt phòng lưu trữ hồ sơ cá nhân của phòng Tổng Quản Trị
rồi mới về.
(Sở dĩ tôi ra lệnh như trên vì lúc còn phục
vụ tại TTHL/QG Vạn Kiếp, tôi đặc trách huấn luyện các đề tài về Tham Mưu Chiến
Thuật như: Căn bản thế công, Căn bản thế thủ và Căn bản lui binh cho các sĩ
quan thuộc các Tiểu Đoàn Bộ Binh thuộc Quân Đoàn III, Quân Khu 3 và Lực Lượng
Tổng Trừ Bị: Nhảy Dù, TQLC về ôn tập. Trong đề tài “Lui binh”, trước khi rời bỏ
căn cứ mà địch sẽ chiếm, đơn vị lui binh phải phá hủy tất cả quân dụng mà không
mang theo được. Về các hồ sơ cá nhân, tài liệu mật phải đốt trước khi rời khỏi
nơi đóng quân).
Đến cổng Tiểu Khu tôi bảo anh em Tiểu Đội gác
cổng làm lễ hạ cờ rồi tự động giải tán về lo cho gia đình.
Đại Tá
Trần Văn Tự và phái đoàn hướng về bải biển Ninh Chữ rồi ngược về Phan Rang để
vào Phan Thiết
Khởi đầu đoàn xe di chuyển về biển Ninh Chữ.
Được biết nơi đây có một chiến hạm của Hải Quân VNCH từ miền Trung vào Nam đang
đậu tại đây để đón các đơn vị. Đoàn xe rời Tiểu Khu vào đại lộ Thống Nhất để ra
Khu Tam Giác trực chỉ Ninh Chữ. Thành phố Phan Rang lúc này đã lên cơn sốt vì
quá hỗn loạn. Tiếng súng xen kẽ tiếng ồn từ dân chúng la cướp. Bọn cướp tìm các
cửa hàng lớn nơi phố vào khiêng đồ. Dân chúng chạy tới lui như giặc tới. Xe cộ
từ hướng Bắc vào đông nghẹt trên xe. Trên bộ các quân nhân rã ngũ với đủ loại
sắc phục lộn xộn. Có người còn giữ vũ khí. Dọc đường phố quân phục, giày trận,
mũ sắt nằm lăn lóc bên đường.
Đoàn xe Đại Tá Tự có hộ tống trước sau thêm
còi hụ nên sự di chuyển đến Ninh Chữ dễ dàng. Đến Ninh Chữ thấy không còn chiến
hạm, Đại Tá Tự quyết định vào Phan Thiết bằng đường bộ cùng với Tiểu Đoàn 250.
Khi về lại đại lộ Thống Nhất, cảnh hỗn loạn càng tăng thêm. Lúc này có một Chi
đội thiết vận xa M113 từ miền Trung tạt vào Ty Ngân Khố Ninh Thuận phá kho bạc
bằng mìn để lấy tiền. Một số bạc bằng kim khí rơi rải rác trên đường. Ngang qua
khu vực thương mại thấy dân chúng kẻ khiêng máy may, người vác vải cây từ nhà
may Hòa Vang ra đi tự do. Thành phố Phan Rang hết khả năng kiểm soát trật tự,
không còn thấy bóng Cảnh Sát giao thông và Quân Cảnh tuần tiễu. Đủ loại xe từ
miền Trung chạy vào Nam tỵ nạn. Các xe nối đuôi sát nhau. Kẻ đứng níu tay bên
ngoài. Một số người ngồi trên mui xe. Trẻ con la khóc um sùm. Đến gần trưa đoàn
quân của Trường Võ Bị Đà Lạt cũng đến Phan Rang để di chuyển vào Nam.
Qua khỏi cầu Đạo Long đã sẵn có Tiểu Đoàn
250/ĐPQ từ Cầu Mống đang dừng quân tại đây kết hợp lại phái đoàn Đại Tá Tự tổ
chức mở đường tiến vào Phan Thiết.
Đường vào Phan Thiết.
Khoảng cách lộ trình Phan Rang - Phan Thiết
theo quốc lộ 1 là 145 cây số. Vào thời diểm này trên quốc lộ 1 có nhiều loại xe
chở người lánh nạn từ miền cao nguyên xuống, miền Trung vào nên tốc độ di
chuyển chậm.
Qua khỏi Cầu Đạo Long, An Phước, Cà Ná rồi
đến ranh giới Bình Thuận, các địa danh như: cầu Đại Hòa, Vĩnh Hảo, Tuy Phong,
Ngã Ba Thượng văn, ấp Lâm Lộc, Phan Rí Cửa (Cầu Nam), Hòa Đa, Phan Rí Chàm, Chợ
Lầu, Lương Sơn, Sông Lũy, Cây Táo, núi Tà Dôn, xã Phú Phong, cầu Phú Long, cầu
Sở Muối lần lượt khuất lại đằng sau để bắt đầu chạy vào thị xã Phan Thiết.
-Trên lộ trình di chuyển thường gặp các quân
nhân diện địa Tiểu Khu Bình Thuận, các chiến hữu ĐPQ-NQ. Họ trấn đóng, giữ an
ninh những cây cầu quan trọng hoặc các địa điểm trọng yếu. Họ giữ vững tay
súng, nhìn chúng tôi như huynh đệ, tươi cười vẫy tay chào làm cho đoàn người di
chuyển thêm ấm lòng và tin tưởng lộ trình di chuyển được an ninh.
Khoảng 17 giờ trong ngày 1/4/1975, chúng tôi
đến thành phố Phan Thiết. Sau khi nghỉ giải lao, phái đoàn Đại Tá Tự di chuyển
xuống lầu Ông Hoàng nghỉ lại, còn Tiểu Đoàn 250 Thần Ưng trú đóng nghỉ đêm tại
thị xã Phan Thiết.
Nguyên nhân đưa đến việc
Đại Tá Trần Văn Tự rời bỏ Phan Rang tự thoái vào Phan Thiết.
Sau trận tổng công kích của Cộng Sản Bắc Việt
vào Ban Mê Thuột 10/3/1975 rồi đến việc rút lui của Quân Đoàn II và I, kế đến
tuyến phòng thủ Khánh Dương và Huấn Khu Dục Mỹ bị chọc thủng. Trường Hạ Sĩ Quan
và 2 TTHL Hải Quân, Không Quân Nha Trang cùng thành phố Nha Trang bỏ ngỏ, các
trường quân sự tại Đà Lạt cũng rút về hướng Phan Rang.
Tình thế nguy ngập như trên, Đại Tá Tự nhận
thấy khả năng Tiểu Khu Ninh Thuận không thể đương đầu với các mũi tấn công của
quân Bắc Việt trong những ngày tới nên rút quân vào Phan Thiết với ý định:
1. Thành lập tuyến phòng thủ mới tại Cà Ná,
nổ mìn để hàn bít đường quốc lộ 1 chận đứng quân Bắc Việt. Nhờ hải pháo từ biển
yểm trợ quân ta và tạm dùng phi trường Sông Mao để tiếp xăng cho phi cơ các
loại.
2. Hoặc phối hợp lực lượng Tiểu Khu Bình
Thuận của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa lập tuyến phòng thủ mới ở Phan Thiết.
Tuy
nhiên những ý kiến trên không thành sau khi Đại Tá Tự tiếp xúc với Trung Tướng
Nguyễn Văn Toàn nhận lệnh .
Nội dung cuộc tiếp xúc giữa Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Đại Tá Trần Văn Tự tại lầu Ông Hoàng, Phan Thiết.
Nội dung cuộc tiếp xúc giữa Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Đại Tá Trần Văn Tự tại lầu Ông Hoàng, Phan Thiết.
Vào hồi 19 giờ ngày 1/4/1975, tại lầu Ông
Hoàng, Đại Tá Trần Văn Tự đã trình diện Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh
Quân Đoàn III, Quân Khu 3. Sau khi hai người bạn đồng khóa 5 Đà Lạt chào mừng
gặp nhau, Trung Tướng Toàn hỏi Đại Tá Tự:
- Phan Rang mất chưa mà “toi” chạy vô đây?
Đại Tá Tự trả lời chưa. Tướng Toàn liền ra
lệnh:
- Bây giờ hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận
trực thuộc Quân Đoàn III, Quân Khu 3 và sẽ có Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ra phi
trường Phan Rang. “Toi” phải trở về lại Phan Rang lập tức, sẽ có lực lượng tăng
cường để giữ tuyến Phan Rang.
(Những lời đối thoại trên đây chỉ có hai người là Tướng
Toàn và Đại Tá Tự. Mới đây Đại Tá Tự mới kể lại cho người viết nghe về câu chuyện
này).
Xin nói rõ: Tướng Toàn và Đại Tá Tự là hai
bạn đồng môn rồi đồng khóa thuộc trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. SVSQ Toàn theo
học Khóa 3 Trần Hưng Đạo, thụ huấn nửa chừng bị bệnh xin xuất trường chữa bệnh.
Về sau xin học tiếp Khóa 5 Hoàng Diệu cùng Khóa với SVSQ Tự. Cả hai là bạn đồng
Khóa.
Đoàn quân Ninh Thuận
quay ngược về Phan Rang
Ngày
2/4/1975, thi hành lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, từ 8 giờ các sĩ quan
thuộc đoàn quân Ninh Thuận tập họp nghe lệnh Đại Tá Tự quay ngược về lại Phan
Rang. Thiếu Tá Kia tập hợp sĩ quan Tiểu Đoàn ban hành lệnh hành quân mở đường
về lại Phan Rang.
Trên đường về trong phạm vi lãnh thổ thuộc
Bình Thuận hoàn toàn an ninh vì các đơn vị diện địa vẫn hoạt động bình thường.
Kể từ Cà Ná về lại Phan Rang, thành phần an ninh Ninh Thuận đã bỏ ngỏ từ hôm
trước nên có vài nơi Cộng quân đã xâm nhập xuất hiện nên từ đây Tiểu Đoàn 250
cho lục soát kỹ những nơi nghi ngờ, tìm hiểu tin tức qua dân chúng. Hành quân
theo chiến thuật vừa mở đường vừa di chuyển nên sự di chuyển rất chậm.
Đến 19 giờ cùng ngày đoàn xe mới đến cầu Đạo
Long để bắt đầu yểm trợ, lục soát tiến vào thành phố Phan Rang. Thị xã vắng
người, phố xá đóng cửa, chợ búa buồn thiu, thành phần đeo băng đỏ (Việt Cộng
30) canh gác thành phố. Tiểu Đoàn 250 phân công các thành phần vừa yểm trợ vừa
tiến quân lục soát. Tiếng nổ M16 cộng M72 thêm tiếng còi hụ. Dân chúng vui mừng
nghe tin Đại Tá Tự và Tiểu Đoàn 250 về lại. Những người đeo băng đỏ tháo băng,
vứt súng bỏ chạy. Một tên cướp có vũ khí chống cự lại liền bị hạ sát ngay trước
cửa chợ Phan Rang, giấy bạc từ trong người bay vung vãi quanh xác chết.
Vào lại Tiểu Khu, nhìn cảnh tượng điêu tàn
chỉ sau có một ngày rời bỏ nơi đây. Bọn cướp hôi của phá phách tan hoang. Bàn
ghế, tủ bàn xô ngã bừa bãi. Tài liệu, giấy tờ bay khắp nơi từ các phòng ra cả
sân cờ. Phòng lưu trữ hồ sơ cá nhân còn cháy âm ỉ. Đại Tá Tự nhìn cảnh điêu tàn
lắc đầu xong lệnh cho Thiếu Tá Kia phân công các đại đội lục soát chiếm giữ an
ninh Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, khu vực Tòa
Hành Chánh, nhà đèn, máy nước và các cơ sở trọng yếu trong thị xã. Ban lệnh
giới nghiêm trong thị xã từ 22 giờ đến 5 giờ sáng hôm sau. Sau đó Đại Tá Tự và
phái đoàn chạy vào phi trường Bửu Sơn nơi Bộ Chỉ Huy Tướng Phạm Ngọc Sang Tư
Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tại đây có mặt Tướng Sang, Trung Tá Lê Văn Phát, Lữ
Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Dù. Các sĩ quan tham mưu Sư Đoàn 6 Không Quân, Lữ Đoàn 3
Dù và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Các bên họp trao đổi tin tức bàn việc tái lập an ninh
phòng thủ lãnh thổ tỉnh Ninh Thuận kể từ sáng hôm sau.
Tiểu
Khu Ninh Thuận lo tái lập an ninh.
Đại Tá Tỉnh Trưởng rời bỏ Phan Rang ngày
1/4/1975 nên lực lượng quân sự, hành chánh tự động tan rã theo. Mọi người bỏ
đơn vị trở về lo cho gia đình.
Chiều ngày 2/4/1975, phái đoàn Tiểu Khu trở
về Phan Rang, tình hình tương đối yên tĩnh. Chỉ có kho bạc, kho gạo, cơ sở MACV
và cư xá sĩ quan Khu Tam Giác bị cướp phá.
Việc phục hồi an ninh bắt đầu sáng 3/4/1975.
Lần hồi Đại Tá Tự cho lập lại an ninh trật tự thị xã Phan Rang, Tháp Chàm và
phát thanh từ máy bay xuống các khu dân cư lời kêu gọi của Tỉnh Trưởng để ổn
định an ninh trật tự.
Lữ Đoàn 3 Dù tăng phái cho Tiểu Khu một Trung Đội có Trung Úy Nguyễn Văn Lập, sĩ quan liên lạc Pháo Binh từ Lữ Đoàn đi theo để săn nhặt phụ tùng súng pháo binh song không có kết quả. Người viết lúc bấy giờ là một trong 5 sĩ quan cấp Tá thuộc Ban Tham Mưu Tiểu Khu đã sắp xếp Trung Đội Dù lên hai xe GMC có máy phóng thanh chạy vòng các đường phố Phan Rang và ngoại thành, mục đích thông báo lời kêu gọi của Đại Tá Tỉnh Trưởng đã trở về, yêu cầu quân nhân, công chức về trình diện đơn vị cùng nhiệm sở cũ.
Trật tự được vãn hồi, có Cảnh Sát và Quân
Cảnh làm việc lại, đồng bào an tâm. Đã có Không Quân và Nhảy Dù tăng cường
phòng thủ. Đồng bào mang nộp vũ khí giữ bất hợp pháp tại Tiểu Khu. Thiết lập
lại hệ thống liên lạc, đưa một số đơn vị đến hoạt động tại các Chi Khu, Phân
Chi Khu. Tập trung binh sĩ rã ngũ từ các nơi về để tiếp tục hoạt động.
Trung Tâm Yểm Trợ Hành Chánh Tiếp Vận hoạt
động trở lại tại khu vườn dinh Tỉnh Trưởng do Thiếu Tá Huỳnh Trung Trước,Khóa 9
Đoàn Kết Thủ Đức Chỉ Huy Phó điều hành.
Chợ Phan Rang bắt đầu nhóm họp lại. Dân chúng
đi lại bình thường nhưng tâm tư mỗi người chưa hết lo âu.
Một số Việt Cộng nằm vùng nổi dậy các ngày
trước đều bị bắt hoặc trốn thoát.
Một số binh sĩ rã ngũ từ Trung vào trình diện
nhưng lần hồi cũng bỏ đi.
Vào buổi trưa cùng ngày, Thiếu Tá Trương
Khương, Liên Đoàn Trưởng Phòng Thủ Phi Trường báo có một Tiểu Đoàn ĐPQ Tuyên
Đức băng rừng xuống nơi cầu Tân Mỹ. Tôi liên lạc được, Thiếu Tá Phong, Tiểu
Đoàn Trưởng cho biết quân số còn chừng 200, xin Tiểu Khu cho phương tiện di
chuyển về Phan Rang. Tôi liền cho 7 xe GMC lên đón về Tiểu Khu. Về đến nơi cơm
nước xong Thiếu Tá Phương và tôi đề nghị Thiếu Tá Phong giữ đơn vị lại Ninh
Thuận để hoạt động. Thấy người ông mệt mỏi lại không cho chúng tôi biết ở hay
đi. Đến chiều số quân nhân Tiểu Đoàn Thiếu Tá Phong lần hồi bỏ ra phố Phan Rang
để tìm phương tiện về Sàigòn.
Cũng trong ngày này được tin Thiếu Tá Nguyên
Văn Mạnh, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Khu Ninh Thuận đi ghe vào
Vũng Tàu, ghe chìm, do không biết bơi nên ông mất tích.
Trung Tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi đến Phan Rang.
Ngày 4/4/1975, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
chính thức đến Phan Rang để nhận chức vụ Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân
Đoàn III tại mặt trận Phan Rang. Tháp tùng Trung Tướng còn có các sĩ quan tùy
tùng và toán chuyên viên Truyền Tin.
Khoảng 11 giờ cùng ngày, người viết có mặt
tại Phòng 3 Tiểu Khu thấy có xe Quân Cảnh, 5 xe jeep và 2 xe GMC chở khoảng 1
Trung Đội nhảy dù chạy vào Tiểu Khu để ra phía sau nơi gần bờ sông đón Tướng
Nghi đáp trực thăng tại đây để đưa về phi trường. Lúc xe chạy ra thấy có Tướng
Nghi. Ông không ghé Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu mà về thẳng phi trường Bửu Sơn.
Các đơn vị tham dự lá
chắn Phan Rang.
Sau khi Cộng quân chiếm trọn Quân Đoàn I và
II, ngoại trừ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, thừa thắng xông lên, Bắc Việt
đã đưa quân ồ ạt tiến sâu vào phía Nam. Nhằm cầm chân địch, củng cố lại các lực
lượng thuộc Quân Đoàn III và IV, Phan Rang cũng là quê hương của Tổng Thống
Thiệu nên ông quyết định sáp nhập hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận vào Quân
Đoàn III và thành lập tuyến phòng thủ Phan Rang. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh tình nguyện làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III và Tư
Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III tại mặt trận Phan Rang. Bộ Chỉ Huy đóng trong
phi trường Bửu Sơn.
Lực lượng thuộc quyền Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
Tư Lệnh mặt trận Phan Rang gồm có:
- Sư Đoàn 6 Không Quân, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc
Sang làm Tư Lệnh. Sư Đoàn gồm có 3 Phi
Đoàn A-37: 524, 534, 548, 1 Phi Đội A-1, 2 Phi Đội tản thương 259B và 259C, 2
Phi Đoàn trực thăng 229 và 235.
- Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Lê Văn Phát Lữ Đoàn
Trưởng gồm có Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và Tiểu Đoàn 5 (-), rút về Sàigòn ngày
13/4/1975 và thay thế bằng Liên Đoàn 3/BĐQ.
- Lữ Đoàn 2 Dù (do Đại Tá Nguyên Thu Lương,
Lữ Đoàn Trưởng ra thay) gồm 3 Tiểu Đoàn 3, 7 và 11. 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh, các
Đại Đội Trinh Sát Công Binh, Quân Y, Truyền Tin, yểm trợ tiếp vận.
- Trung Đoàn 4, 5 (-) Sư Đoàn 2 Bộ Binh do
Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt làm Tư Lệnh.
- Liên Đoàn 3 BĐQ với 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và
52 do Đại Tá Nguyễn Văn Biết, Liên Đoàn Trưởng.
- Tiểu Khu Ninh Thuận với các Chiến Đoàn,
Tiểu Đoàn ĐPQ, các Đại Đội biệt lập, NQ Pháo Binh Diện Địa, Chi Đội Cơ Giới
Nhân Dân Tự Vệ và Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia do Đại Tá Trần Văn Tự, Tỉnh
Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng chỉ huy. Đến ngày 9/4/1975, do Đại Tá Trương Đăng
Liêm thay thế.
Lực
lượng Hải Quân gồm có: Duyên Đoàn 27 Hải Quân tại Ninh Chữ, 2 khu trục hạm, 1
giang pháo hạm, 1 hải vận hạm và một số tàu yểm trợ.
Sư Đoàn 2 Bộ Binh ra
Phan Rang
Ngày 7/4/1975, Trung Đoàn 4 (-) thuộc Sư Đoàn
2 Bộ Binh do Đại Tá Trương Đăng Liêm Trung Đoàn Trưởng di chuyển từ Bình Tuy ra
Phan Rang. Đoàn quân di chuyển với 100 quân xa đủ loại. Có 6 chiến xa M41, 8
thiết vận xa M.113. Pháo Binh có 6 khẩu 155 ly và 8 khẩu 105 ly. Trên lộ trình
có đoạn mất an ninh nên phải mở đường lục soát, đến 17 giờ hôm sau mới đến Phan
Rang. Trung Đoàn vừa được tái tổ chức và trang bị lại nên từ quân phục, vũ khí,
quân xa, quân dụng đều mới toanh.
Đến Phan Rang, Đại Tá Liêm được đề cử chức vụ
mới là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận thay Đại Tá Trần Văn Tự đi
nhận nhiệm vụ mới là Phụ Tá Lãnh Thổ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III tại
mặt trận Phan Rang.
Ngay chiều ngày 8/4/1975, Trung Tá Chế Quang
Thảo (Khóa 2 Nhân Vị Hiện Dịch Nha Trang), Trung Đoàn Phó được cử làm Trung
Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 thay Đại Tá Liêm.
Ngày 13/4/1975, Đại Tá Hoàng Tích Thông, Tư
Lệnh Phó Sư Đoàn 2 BB cùng Trung Đoàn 5 (-) di chuyển ra Phan Rang.
Ngày 14/4/1975, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư
Lệnh Sư Đoàn đi cùng số còn lại của Trung Đoàn 5 ra Phan Rang.
Bắt sống 7 xe tiếp tế
của Cộng quân tại đèo Du Long
Ngày 8/4/1975, Tiểu Đoàn 11 dù đã bắt sống 7
xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần của địch cùng một số quân lính Việt cộng tại đèo
Du Long. Chúng cứ ngỡ là Phan Rang chúng đã chiếm nên cứ ngang nhiên di chuyển
vào.
Lễ bàn
giao Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận
Sau khi từ Phan Thiết về lại Phan Rang, Đại
Tá Tự kêu gọi anh em thuộc lực lượng diện địa Tiểu Khu trình diện để tổ chức
phối trí lại các đơn vị. Song số anh em nặng gánh gia đình nên chỉ trình diện
lác đác trong khi Sư Đoàn 2/BB đã có quân số tương đối đông. Từ đó Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi yêu cầu Tướng Nhựt cử một Đại Tá để giữ chức vụ Tỉnh Trưởng Ninh
Thuận để có quân dễ dàng hoạt động. tướng Nhựt đã cử Đại Tá Trương Đăng Liêm
đảm nhiệm chức vụ này.
Lễ bàn giao chức vụ Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu
Trưởng diễn ra tại văn phòng Hội Đồng
Tỉnh Ninh Thuận ngày 9/4/1975 dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
cùng sự hiện diện của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang với một số ít đại diện Quân,
Cán Chính, Nghị Viên Hội Đồng Tỉnh và Nhân Sĩ tỉnh Ninh Thuận.
Vài hàng tiểu sử và 8
ngày phục vụ của Đại Tá Tân Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Ninh Thuận
ĐạiTá Trương Đăng Liêm sinh tháng 7 năm 1932, tại Thừa Thiên Huế. Động viên theo học kbhóa 3 Đống Đa Trường Sĩ Quajn Trừ bị Thủ Đức.; Trung Đoàn Trưởng Turng Đoàn 4 Sư Doàn 2 Bộ Binh. Từ Bình Tuy di chuyển Trung Đoàn ra tăng cường mặt trận Phan Rang. Đại Tá Liêm được đề cử giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ninh Thuận.
Lễ bàn giao tỉnh trưởng, Tiểu khu trưởng vào trưa ngày 9/4/1975, lúc bấy giờ tình hình an ninh của Tiểu Khu vừa được tái lập. Quân Nhân và công chức lần luợt trở về đơn vị và nhiệm sở củ.
ĐạiTá Trương Đăng Liêm sinh tháng 7 năm 1932, tại Thừa Thiên Huế. Động viên theo học kbhóa 3 Đống Đa Trường Sĩ Quajn Trừ bị Thủ Đức.; Trung Đoàn Trưởng Turng Đoàn 4 Sư Doàn 2 Bộ Binh. Từ Bình Tuy di chuyển Trung Đoàn ra tăng cường mặt trận Phan Rang. Đại Tá Liêm được đề cử giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ninh Thuận.
Lễ bàn giao tỉnh trưởng, Tiểu khu trưởng vào trưa ngày 9/4/1975, lúc bấy giờ tình hình an ninh của Tiểu Khu vừa được tái lập. Quân Nhân và công chức lần luợt trở về đơn vị và nhiệm sở củ.
Từ trái Đại Tá Trương Đăng Liêm, Tân Tỉnh Trưởng Ninh Thuận và tác giả.
Đại Tá Liêm hàng ngày làm việc tại Trung Tâm
Hành Quân dưới hầm dinh Tỉnh và thường liên lạc song song với Bộ Chỉ Huy Trung
Đoàn 4 để theo sát tình hình chiến sự. Trong 8 ngày, Đại Tá Liêm chỉ lo củng cố
và tổ chức lại các đơn vị ĐPQ, NQ trực thuộc để bình định lãnh thổ, viếng thăm
và chỉ thị các Chi Khu lo phục hồi an ninh, chưa có thì giờ để trông coi về
hành chánh.
Vào đêm 15/4/1975, tại thôn Phương Cựu, quận
Thanh Hải, Việt Cộng xâm nhập nổ súng gây cho số ít Nghĩa Quân thương vong.
Được tin, sáng 16/4 Đại Tá Liêm đến nơi thị sát. Liền sau đó qua tin báo, Cộng
quân đã vào thị xã Phan Rang nên Đại Tá Liêm lên tàu Hải Quân của Duyên đoàn
27. Đến sáng 16/4/1975, Cộng quân dốc toàn lực chọc thùng phòng tuyến, thị xã
Phan Rang thất thủ.
Đại Tá Liêm lên được chiến hạm Whec. Tại đây
gặp cả Tướng Nhựt, Thiếu Tá Trần Văn Kia và một số quân nhân của Tiểu Đoàn
250/ĐPQ Thần Ưng
Sự hoạt động trong chức
vụ mới của Đại Tá Trần Văn Tự.
Sau khi bàn giao chức vụ Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu
Trưởng Ninh Thuận, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đã đưa Đại Tá Tự vào căn cứ Sư
Đoàn 6 Không Quân tại phi trường Bửu Sơn và đề cử Đại Tá Tự giữ chức vụ Phụ Tá
Lãnh Thổ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III tại mặt trận Phan Rang.
Thiếu tá Trần
Văn Kia
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 250/ĐPQ Thần Ưng.
Đại Tá Tự và Chuẩn Tướng Sang có sự hiểu lầm
nhỏ nên Đại Tá Tự không được đón tiếp niềm nở như một thành viên của Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương.
Trong những ngày ở phi trường, Đại Tá Tự sống
với những gì mang theo để dùng hàng ngày cùng một tài xế và một xe jeep ở gần
Bộ Chỉ Huy. Thỉnh thoảng Đại Tá Tự được mời tham dự cuộc họp ở Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương nhưng phần nhiều những ý kiến đóng góp của ông ít được Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương chú ý.
Ông Lewis, chuyên viên
Truyền Tin Tòa Đại Sứ Mỹ đến Phan Rang.
Ngày 13/4/1975, Tướng Times của Tòa Đại Sứ
Hoa Kỳ từ Sàigòn bay đến Phan Rang dẫn theo ông Lewis, chuyên viên Truyền Tin
đến ở cùng Bộ Tư Lệnh Tiền Phương với nhiệm vụ chuyển mọi tin tức qua các biến
chuyển mới nhất của mặt trận về Tòa Đại Sứ. Ông rất tích cực làm việc, vô cùng
bình tĩnh, nhất là lúc địch dồn dập tấn công.
Trung
Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân
Đoàn III thị sát mặt trận Phan Rang.
Ngày 15/4/1975, khoảng 14 giờ, có phái đoàn
của Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng và
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III đến thị sát mặt trận và ủy
lạo các đơn vị.
Sau khi viếng thăm thị xã Phan Rang, nghe
Tướng Nghi thuyết trình về tình hình và một số đề nghị. Trung Tướng Đôn chú
trọng đặc biệt đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy
đủ mọi trang thiết bị cho nhu cầu chiến sự. Sau đó Tướng Đôn và Tướng Toàn ủy
lạo một số hiện kim cho các đơn vị cùng tưởng thưởng huy chương cho một số chiến
sĩ đạt nhiều chiến công xuất sắc tại mặt trận. Tiếc thay đã quá trễ vì lúc này
tại Cam Ranh và Tuyên Đức Cộng quân đã
ém quân và chuẩn bị sẵn 2 Sư Đoàn 3 và 325 cùng lực lượng 968 dốc toàn lực tấn
công vào đêm 15 rạng 16 để chọc thủng tuyến phòng thủ Phan Rang.
Giáo xứ
Hộ Diêm là nơi phòng thủ an toàn nhất của Tỉnh Ninh Thuận.
Trong các thôn, xã của Tỉnh Ninh Thuận trong
thời gian trước ngày 16/4/1975, nơi an toàn nhất phải kể là giáo xứ Hộ Diêm.
Nơi đây được lực lượng Nhân Dân Tự Vệ phối hợp với giáo dân qua sự góp ý của
Linh Mục chánh xứ và Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Phương đã tổ chức phòng thủ chặt chẽ,
nếu có kẻ lạ mặt vào trong giáo xứ giáo dân sẽ phát hiện ngay nên không có sự
xâm nhập nào của du kích vào giáo xứ. Mãi đến sáng 16/4 Cộng quân mới tiến vào
được để kiểm soát.
Phan
Rang và trận chiến quyết định.
Sau khi tổng hợp tin tức, Tướng Nghi nhận
định tình hình sớm muộn Cộng quân cũng tấn công Phan Rang bằng hai mũi từ Nha
Trang theo Quốc Lộ 1 vào và từ đèo Ngoạn Mục theo quốc lộ 11 xuống nên Tướng Nghi
đã lập kế hoạch phối trí các lực lượng:
- Hướng Du Long giao
cho lực lượng Dù đảm trách, về sau Liên Đoàn 3/BĐQ thay thế, rải quân từ Du
Long đến Phan Rang.
- Từ cầu Tân Mỹ đến
Tháp Chàm do Trung Đoàn 4 (-) Sư Đoàn 2/BB bố trí.
- Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
2 và khu vực Tháp Chàm do Trung Đoàn 5 (-) phụ trách.
- Các Tiểu Đoàn, Đại
Đội ĐPQ cùng Nghĩa Quân Ninh Thuận sau khi họp chỉnh trang lại được phối trí
phòng thủ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Ninh Thuận, thị xã Phan Rang, các Chi Khu cùng
các thôn xã kế cận.
- Sư Đoàn 6 Không
Quân yểm trợ tổng quát về hỏa lực, chuyển vận, quan sát và tản thương.
Cộng quân đã thực
hiện ý đồ như Tướng Nghi dự đoán, chia hai cánh đánh vào Phan Rang và phi
trường Bửu Sơn cách Phan Rang 7 cây số.
Lực lượng của Cộng
quân gồm Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 3 cùng đơn vị 968 có chiến xa và pháo binh yểm
trợ, theo hướng quốc lộ 1 đánh vào thị xã Phan Rang, cắt đứt đường rút lui của
quân trú phòng ra hướng biển, cánh 2 theo quốc lộ 11 đánh xuống phi trường.
-
Ngày 13/4/1975, Lữ Đoàn 2 Dù được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho Liên
Đoàn 3 BĐQ. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn cùng Tiểu Đoàn 7 Dù chờ không vận về Sàigòn.
Tiểu Đoàn 11 Dù đã bàn giao xong và 3 Đại Đội đóng quân tại núi Cà Đú. Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn cùng Đại Đội chỉ huy và một Đại Đội tác chiến về đóng ở phi
trường
.
.
- Ngày 14/4/1975,
được tin BĐQ thay thế Dù từ Du Long, Cộng quân tấn công thăm dò. Tuy biết nhiệm
vụ song Tiểu Đoàn 11 Dù phải đánh trả tức khắc lúc địch quân vượt qua tiền đồn
báo động trước cổng số 2 phi trường. Đơn vị Dù chống trả quyết liệt bằng lựu
đạn, cận chiến với lưỡi lê. Kết thúc trận đánh địch quân bỏ lại chừng 100 xác
chết, tịch thu 80 vũ khí các loại trong số có 2 súng cối 82 ly và 2 đại bác 75
ly. Phía Dù có 6 binh sĩ hy sinh và một trong hai chiến xa yểm trợ Dù bị cháy.
- Chiều 15/4/1975,
phi cơ quan sát Sư Đoàn 6 Không Quân phát hiện Cộng quân ngụy trang lá cây. Các
đơn vị bộ binh, pháo binh cùng chiến xa di chuyển ven theo các triền núi về
phía Tây Bắc phi trường và phía Bắc Du Long nơi rừng dừa Hiệp Mỹ. Cánh quân từ
đèo Ngoạn Mục cũng tiến lần về hướng Tân Mỹ, nơi Trung Đoàn 4 án ngữ.
Tướng Nghi lệnh cho Sư Đoàn 6 Không Quân cho
các phi đội A37 từ Bửu Sơn cất cánh và từ Phan Thiết ra đánh bom suốt chiều
tối, đánh sập các cầu tại Ba Ngòi. Lúc này chiến xa địch xuất hiện bò từng đoàn
bị không quân ta đánh bom tiêu diệt cả buổi chiều lẫn đêm. Các Pháo Đội 105 và
155 ly bắn vào những hỏa tập phát hiện địch. Phi cơ hỏa long soi sáng suốt đêm,
đến gần sáng bị phòng không địch bắn rơi.
Cộng quân mở những trận đánh thăm dò vào các
ngày trước đụng phải Thiên Thần Mũ Đỏ của ta bẻ gãy kịp thời. Bắc Việt tung
thêm vào mặt trận Sư Đoàn 325 và nhiều chiến xa T54 để tăng cường cho Sư Đoàn
3.
- Ngày 16/4/1975, sáng sớm, một số lớn phi cơ
rời phi đạo bay lên ngập trời, ngay sau đó Cộng quân đã mưa pháo vào phi trường
với cường độ ác liệt làm mọi hoạt động tại phi trường ngưng trệ. Các đơn vị trú
phòng phản công dữ dội nhưng không kháng cự nổi với quân số địch đông gấp nhiều
lần hơn ta. Hệ thống phòng không của địch rất mạnh nên việc yểm trợ của Không
Quân có phần kém hiệu quả mặc dù Bộ Tư Lệnh Không Quân đã điều động các Phi
Đoàn A37 từ Biên Hòa và Phan Thiết ra. Có một số A37 và trực thăng bị bắn rơi
làm đau lòng một số phi công tài ba của ta đã anh dũng hy sinh đền nợ nước.
Kho bom đạn phi trường bị địch chiếm ngay từ
đầu. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 Dù đã anh dung hy sinh trong
lúc chỉ huy đơn vị bảo vệ đài kiểm soát không lưu.
Về hướng Bắc, lực lượng Dù và BĐQ phải tháo
lui sau khi bắn cháy nhiều chiến xa cũng như triệt hạ đơn vị bộ binh địch tại
Gò Đền. Các cao điểm quanh phi trường lần lượt rơi vào tay địch.
Trung Đoàn 4 và 5 Sư Đoàn 2/BB cùng đánh trả
địch quân ác liệt từ hướng Tân Mỹ, Tháp Chàm cũng không kém tuyến phòng thủ Dù.
Với chiến thuật tiền pháo hậu xung, có chiến xa và bộ binh tùng thiết ồ ạt tấn
công nên các Trung Đoàn 4 và 5 của ta cho lệnh phân tán rút về hướng Cà Ná,
trong đó có Đại Tá Lê Thương, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 2, gặp xe ôm ông
đón về nhà thờ Phan Rang. Về sau triệt thoái về Phan Rí Cửa. Tại đây Trung Tá
Chế Quang Thảo và quân số còn khoảng 4 Đại Đội. Hai Đại Đội được tàu Hải Quân
vớt đưa ra đảo Phú Quý để về đến Vũng Tàu sáng 19/4/1975. Hai Đại Đội còn lại
không di chuyển kịp bị địch bao vây bắt giữ.
Trong phi trường các công binh Dù cắt kẽm gai
để hai tướng Nghi và Sang cùng Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, Sư Đoàn 6 Không Quân
cùng một số đơn vị cùng gia đình binh sĩ khoảng 700 người rút lui về hướng Cà
Đú. Tiểu Đoàn 11 Dù đi đầu, sau cùng là Công Binh và Đại Đội Trinh Sát Dù. Vừa
di chuyển, quan sát và mở đường để bảo vệ đoàn quân rút lui.
Chiều 16/4/1975, Quân Đoàn II định đưa trực
thăng bốc đoàn quân rút lui. Tướng Nghi từ chối với hy vọng đi bộ thoát về Ninh
Chữ nhưng địch quân đoán được ý định nên chận đường phục kích.
Tướng Trần Văn Nhựt thoát
ra biển bằng trực thăng.
Vào sáng 16/4/1975, chiếc trực thăng cuối
cùng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương khi cất cánh, Đại Tá Tự tưởng hai Tướng Nghi và
Sang đi. Sau này rõ lại là Tướng Trần Văn Nhựt Tư Lệnh Sư Đoàn 2/BB lấy trực
thăng đi thị sát mặt trận. Khi cất cánh bị đạn phòng không của địch bắn lên rất
gần nhưng may thoát khỏi. Khi trực thăng ra biển được chiến hạm Whec thả phao
vớt lên. Còn Đại Tá Nguyễn Khoa Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 2 và Đại Úy Danh
vì không biết bơi nên còn ở trên trực thăng. Khi lên tàu Tướng Nhựt thấy có Đại
Tá Trương Đăng Liêm, Tỉnh Trưởng Ninh Thuận đã có mặt từ trước. Tướng Nhựt dùng
hệ thống liên lạc chiến hạm gọi thẳng về Bộ Tư Lệnh Hải Quân và nhờ chuyển về
Bộ Tổng Tham Mưu cho biết Phan Rang bị thất thủ.
Ngày 29/4/1975, lúc 13 giờ 30, Tướng Nhựt
cùng Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Xuất thân khóa 4 Hải Quân Nha Trang) tại Vũng
Tàu dùng trực thăng cơ hữu HU1 bay ra biển để đến căn cứ hải Quân Hoa Kỳ tại Phi Luật
Tân.
Tướng Nhựt xuất thân Khóa 10 Trần Bình Trọng
Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Ông mãn phần ngày 5/1/2015 tại thành phố Santa
Ana, California, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 80 tuổi.
Các Tướng bị bắt khi bị
phục kích
Vào hồi 21 giờ ngày 16/4/1975, dưới sự hướng
dẫn của Đại Tá Nguyễn Thu Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Dù, đoàn người bắt
đầu rời thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì lọt ổ phục kích của địch.
Khi đoàn quân lọt vào khu vực phục kích, lệnh
khai hỏa bắt đầu. Hỏa lực nổ rền vang. Ánh sáng hỏa châu sáng rõ như ban ngày.
Tiếng la hét xung phong “hàng sống, chống chết” của địch quân vang dậy một vùng
trời. Tàn trận, một số địch cũng như ta bị thương vong.” Hai Tướng Nghi, Sang
và ông Lewis cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn hai Tướng Nghi, Sang
và ông Lewis ngược ra Suối Dầu, Nha Trang sáng hôm sau. “Trên đường Tướng sang
thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường và từng nhóm đồng bào ngơ
ngác, thất thểu, lang thang đi ngược trở về. Tướng Sang bỗng cảm nhận rất có
tội đối với đồng bào vì làm Tướng mà không giữ được thành. Ở tại đồn điền
Yersin 2 ngày, địch đưa 3 người ra Đà Nẵng bằng đường bộ. Tại đây, ngày
22/4/1975, địch đem phi cơ chở 3 vị ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây, nơi từng
giam giữ tù binh Mỹ .Chúng thả ông Lewis vào tháng 8/1975, Trung Tướng Nghi năm
1988 và Tướng Sang 1992”.(theo tài liệu Tướng Sang)..
Đến
ngày 22/2/1993, Tướng Sang cùng gia đình sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông mãn
phần ngày 30/11/2002 tại thành phố Garden Grove, California, Hoa Kỳ. Hưởng thọ
71 tuổi.
Tướng Nghi xuất thân Khóa 5 Hoàng Diệu Trường
Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Tướng Sang xuất thân Khóa 1 Lê Văn Duyệt Trường Sĩ Quan
Trù Bị Thủ Đức.
Một số khác trong
đoàn quân rút lui chạy thoát được, trong đó có Trung Tá Lê Văn Bút Không Đoàn
Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật.
Trục
tiến quân của địch vào thị xã Phan Rang
Một số đơn vị ĐPQ chống trả theo chiến thuật
tác chiến trong thành phố yếu ớt vì phía địch dùng toàn chiến xa T54 lại có bộ
binh tùng thiết nên hướng tiến quân của địch vào thị xã dễ dàng. Địch tiếp tục
qua cầu Đạo Long để vào An Phước.
Một số chiến xa lọt vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
Quân trú phòng báo động chạy ra phía sau Tiểu Khu kế cận bờ sông. Một số quân
nhân trốn vào nhà dân thay quần áo dân sự chạy thoát, trong số thoát được có
Thiếu Tá Bùi Sơn Hải. Riêng Trung Tá Nguyễn Công Ba và Thiếu Tá Trương Minh Lữ
(Khóa 1 Nha Trang), Trưởng Phòng 4 Tiểu Khu bị bắt khi chúng lục soát tìm được
hai vị này trốn trong cánh đổng mía.
Đến gần trưa, một chiến xa của Cộng quân vào
án ngữ tại ngã ba nhà máy dệt, một chiếc
đậu tại cây xăng Khu Tam Giác, một chiến xa đậu tại trụ sở quận Thanh Hải, một
chiến xa khác đậu tại cầu Đạo Long.
Riêng tôi, lúc 8 giờ lái xe ra kiểm soát việc
phòng thủ tại Khu Tam Giác. Lúc ra khỏi cổng Tiểu Khu được đồng bào đang tất
bật chạy tới và báo tin Việt cộng đã vào đến Khu Tam Giác đầu thị xã nên tôi
chạy về nhà nơi gia đình tạm trú để theo dõi tình hình. Đó là giây phút đau
buồn nhất đã kết thúc cuộc đời bình nghiệp của tôi qua gần 20 năm phục vụ Tổ
Quốc.
Bệnh
viện dân quân y Phan Rang cứu chữa quá nhiều thương binh
Trận chiến tại mặt trận Phan Rang xảy ra rất
khốc liệt, từ đêm 15 rạng ngày 16/4/1975 gây cho một số quân nhân của QLVNCH và
bộ đội Bắc Việt bị thương rất nhiều. Ngày 16/4/1975, Cộng quân chiếm thị xã
Phan Rang nên số thương binh của ta lẫn địch được đưa vào bệnh viện dân quân y Phan
Rang cứu chữa. Trong các ngày 16, 17 và 18/4/1975 là những ngày toàn bộ bác sĩ
và y tá của bệnh viện này do Bác Sĩ Đoàn Trình, Giám Đốc đã làm việt cật lực
liên tục.
Các sĩ quan cấp Tá chạy thoát khỏi Cộng Sản
tại phi trường Phan Rang, di chuyển đường bộ sau nhiều ngày mới về đến Sàigòn.
Trong có Đại Tá Lương bị VC bắt lại.
Sáng ngày 116/4/.Cộng sàn tấn công vào phi trường Phan rang.Trong số Sĩ quan chạy thoát được có 3 sĩ quan cvấp tá dưới đây cải trang dân sự len lỏi di chuyển đường bộ qua nhiều ngày gian khổ mới về về đến Sài gòn;
Sáng ngày 116/4/.Cộng sàn tấn công vào phi trường Phan rang.Trong số Sĩ quan chạy thoát được có 3 sĩ quan cvấp tá dưới đây cải trang dân sự len lỏi di chuyển đường bộ qua nhiều ngày gian khổ mới về về đến Sài gòn;
- Đại
Tá Trần Văn Tự, Phụ Tá Lãnh Thổ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương mặt trận Phan Rang.
Như đã đề cập ở phần trước là những ý kiến của Đại Tá Tự ít được Bộ Tư Lệnh chú
ý. Vì lý do đó nên sáng 16/4 địch tràn ngập phi trường, Đại Tá Tự chạy đằng
ông, các vị Bộ Tư Lệnh chạy theo đằng họ nên bị địch bắt sống trong đêm đó khi
lọt ổ phục kích. Đại Tá Tự quyết định chạy bộ sau khi chiếc trực thăng cuối
cùng cất cánh và Quân Cảnh Nhảy Dù tan hàng. Trên đường di tản bộ từng đoạn một,
nhiều khi bị các chốt du kích địa phương giữ lại, Đại Tá Tự lẻn trốn được, nhờ
cải trang thường dân trà trộn trong số dân chạy loạn và lính tan hàng. Ngày
30/4/1975 ở Hố Nai nghe đài phát thanh qua lời kêu gọi của Đại Tướng Dương Văn
Minh buông súng. Đến 15 giờ Đại Tá Tự về tới nhà ở chung cư Đô Thành đường Hòa
Hảo.
- Đại
Tá Nguyễn Thu Lương xuất thân Khóa 4 Cương Quyết Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Đại Tá đã nhanh chân thoát được trong
trận Việt Cộng phục kích tại Mỹ Đức. Sau đó ông không liên lạc tìm được Tướng
Nghi và Sang nên ông đành vượt qua Quốc Lộ 1 để tìm đường trốn ra biển, không
may gặp một quân nhân đang là tù binh biết mặt và nhìn thấy Đại Tá Lương rồi
điềm chỉ cho Cộng quân bắt giữ. Ông bị vào tù tập trung của Cộng Sản đến 13
năm.
- Đại
Tá Lê Thương, xuất thân Khóa 5 Vì Dân Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Chỉ
Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 2 BB. Phi trường Phan Rang bị chọc thủng, Đại Tá Thương
và một số quân nhân chạy về hướng quận An Phước bị địch phát hiện nổ súng. Đại
Tá và 2 thuộc cấp chạy vào Cà Ná, gặp xe ôm đi ngược về nhà thờ Phan Rang. Trú
ngụ tại đây qua đêm, sáng ra ông cùng theo xe bà con giáo dân đi Lạc Thiện. Lần
hồi ông tìm phương tiện về Di Linh, Bảo Lộc rồi đi từng chặng đến Định Quán,
lần về Gia Kiệm, rừng chuối rồi đến Bảo Hàm. Qua 8 ngày phiêu bạt, sau cùng gặp
một số đơn vị trong có Đại Tá Lê Văn Trang Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn
III và Trung Tá Phan Văn Phúc nguyên CHT/PB/Sư Đoàn 4 BB, nhờ ông Phúc chở về
Sàigòn đoàn tụ gia đình trong ngày 26/4/1975. Cuộc vượt thoát của Đại Tá Thương
vô cùng đói khát và cực khổ.
- Trung
Tá Lê Văn Bút, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật. Trong khi đoàn
quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương lọt phục kích, Trung Tá Bút và một số quân nhân
tách khỏi đoàn quân rút lui trốn vào các bụi rậm. Ông Bút và một Thiếu Úy Không
Quân chạy về hướng Ninh Chữ tìm ghe ra biển nhưng không có. Trong túi áo còn
200 ngàn, tiền Tướng Đôn ủy lạo cho Không Quân do Tướng Sang giao từ hôm trước.
Nhờ có tiền, hai thầy trò di chuyển đường bộ bằng xe đò, xe ôm, có lúc phải
băng rừng, vượt đồi núi. Đến 8 ngày sau mới về đến Trảng Bom. Kể lại chuyến
vượt thoát vô cùng khổ sở của một Trung Tá Không Đoàn Trưởng, lúc bình thường
trong Không Đoàn có rất nhiều phi cơ các loại.
Ít dòng
tiểu sử và nguyên nhân Đại Tá Trần Văn Tự xuất thân vào cửa Phật
Từ trái : Tác giả Hồ Đắc Huân - Đại Tá Trần Văn Tự - Tỉnh Trương Nình Thuận
Nay là Tỳ Kheo Thích Không Chiếu.
Đại Tá Trần Văn Tự sinh tháng 2/1927 tại
Pháp.” Thân sinh của ông là Giáo Sư Trần Văn Thạch, sinh trưởng tại Phú Lâm,
Chợ Lớn, Nam Phần. Ông du học tại Toulouse (Pháp) và đã viết báo “Le Journal
des Etudiants Annamites” bày tỏ chí hướng và nguyện vọng thiết tha của người
thanh niên Việt Nam mong muốn nước nhà được độc lập. Ông hoạt động trong nhóm
Đệ Tứ của ông Tạ Thu Thâu. Về nước ông tích cực hoạt động chính trị và dùng cơ
quan ngôn luận là tờ báo “La Lutte” làm lợi khí nêu rõ lập trường tranh đấu của
ông. Năm 1937 ông được đắc cử vào Hội Đồng Thành Phố Sàigòn. Sau đó ông bị nhà
cầm quyền Pháp ký giấy tống giam vì những bài báo ông đả kích chính sách cai
trị của người Pháp tại Việt Nam. Năm 1945 ông bị thủ tiêu lúc 40 tuổi. Ông được
đặt tên đường Trần Văn Thạch thay tên cũ là Vassoigne bên hông chợ Tân Định.”
Đại Tá Tự lúc còn Trung Tá ông là Tham Mưu
Trưởng Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Được cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp
tại Trường Đại Học Quân Sự Đà Lạt. Năm 1969 ông nhận chức Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu
Trưởng Ninh Thuận.
Sau khi Miền Nam bị bức tử, Đại Tá Tự đã
trình diện Ủy Ban Quân Quản Sàigòn, bị tù tập trung “cải tạo” của Cộng Sản từ
Nam ra Bắc 12 năm, 3 tháng, được về nhà năm 1987 nhân lễ 2/9 của Việt Cộng.
Đại Tá Tự sang Hoa Kỳ vào cuối tháng 2/1992
theo chương trình tị nạn qua danh sách HO.10. Nhân dịp tiếp xúc với Đại Tá,
người viết mong biết được quyết định xuất gia vào chùa của Đại Tá thì ông cho
biết: Có 3 lý do để ông xuất gia:
1. Không muốn làm con
cờ trên bàn cờ quốc tế nữa.
2. Sám hối những tội
lỗi vì không giữ được Miền Nam.
. 3. Trong khi vượt thoát khỏi mặt trận Phan Rang và trong thời gian tù
đày hơn 12 năm, ông nhờ Phật pháp mà vượt qua nhiều khổ nạn và tỉnh ngộ rằng
“mọi việc do tâm”.
Đại Tá Trần Văn Tự
xuất gia cuối tháng 12/1999, thọ giới Sa Di (10 giới), pháp hiệu là Tỳ Kheo
Thích Không Chiếu.
LỜI KẾT.
Bài viết này là tài liệu tổng hợp qua các sự
kiện xảy ra tại Tiểu Khu Ninh Thuận và Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Phan Rang. Loạt
bài nhằm giúp bạn đọc hình dung để nhận thấy rõ trách nhiệm của mọi quân nhân
thuộc các Quân Binh Chủng QLVNCH tham gia vào trận chiến.
Trước hết là Sư Đoàn 6 Không Quân của Quân
Chủng Không Quân là những con chim sắt từ Pleiku với phương châm Tổ Quốc và Không Gian về trấn đóng tại
Bửu Sơn.
Quân Chủng Hải Quân cùng góp mặt như Duyên
Đoàn 27, 2 Khu Trục Hạm, 1 Giang Pháo Hạm, 1 Hải Vận Hạm và một số tàu yểm trợ
để làm nhiệm vụ Tổ Quốc Đại Dương.
Về Quân Chủng Lục Quân thì có các binh chủng
như: các chiến sĩ Thiên Thần Sát Địch
của Lữ Đoàn 2 và 3 Nhảy Dù luôn cố gắng làm tròn trách nhiệm giao phó. Sư Đoàn
2 BB đã từ vùng 1 vào Bình Tuy, tái tổ chức và trang bị rồi ra Phan Rang với kỳ
vọng đem lại sự Chiến Thắng Vinh Quang.
Các chiến sĩ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ vừa tham
dự các trận đánh tại Quân Đoàn III nhưng Vì
Dân Quyết Chiến cũng được điều động ra Phan Rang tăng cường cho Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương.
Còn có đon vị Thám sát Nha Kỹ Thuật để hoàn
thành Bóng Đêm và Sứ Mạng.
Trong số các đơn vị trên cũng cần kể đến các
Pháo Thủ Sắm Sét,các chiến sĩ Thiết Giáp Kỵ
Binh MAU
MẠNH nằm trong hệ thống yễm trợ các đon
vị.
Sau cùng là lực lượng diện địa Ninh Thuận gồm DPQ-NQ là đơn vị Bào Quốc An Dân, trong đó có Pháo binh và cơ giới.Bên cạnh còn lực
lượng CSQG,Nhân Dân Tự Vệ,Xây Dựng Nông Thôn và Cơ Cấu hành chánh tỉnh nhà Ninh
Thuận cũng góp phần không nhỏ.
Từ vận nước, các đơn vị trên tuy không giữ được
tuyến phòng thủ Phan Rang song họ cũng góp phần xương máu rất đáng kể tại đây.
Loạt bài được hoàn thành như một nén nhang
gởi muộn đến các chiến sĩ tham gia mặt trận Phan Rang đã hy sinh tại trận hoặc
mãn phần sau này.
Sau cùng, người viết xin trân trọng cám ơn:
- Hai vị Tướng Phạm Ngọc Sang và Trần Văn
Nhựt (cả hai đã mãn phần).
- Các Đại Tá Trần Văn Tự, Trương Đăng Liêm và
Lê Thương.
- Các Trung Tá Nguyễn Công Ba (mãn phần), Lê
Văn Bút và Chế Quang Thảo.
- Các Thiếu Tá Bùi Sơn Hải (mãn phần), Nguyễn
Ngọc Phương, Trần Văn Kia và Trương Khương.
- Đốc Sự Lê Tấn Nhiểu, Phó Tỉnh Trưởng Hành
Chánh tỉnh Ninh Thuận.
Ngoài ra người viết còn tham khảo sách “Lược
Sử QL/VNCH” của Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy 2011.
Các quý vị không những đóng góp tài liệu mà
còn khuyến khích tôi biên soạn bài này từ nhiều năm trước.
Bài viết hoàn thành xin kính tặng đến bạn
đọc. Đặc biệt những quý vị đã cung cấp tài liệu tin tức cho tôi, quý vị đồng
hương Ninh Thuận, trong và ngoài nước, kể cả em Lan và các bạn trong nhóm Ngũ Quỷ ngày xưa của Trường Trung
Học Duy Tân Phan Rang.
Qua tài liệu cùng ký
ức, tôi đã ghi lại những sự kiện xảy ra hơn bốn thập niên trước, dù cố gắng
viết chính xác song chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, mong bạn đọc vui lòng
thông cảm.
Orange County, tháng
11/2015
Hồ Đắc
Huân