Friday, April 30, 2010

PHIEM DAM ONLINE


Kiều Phải Sống!
09/11/2007
Views : 312


Trong tuần qua, Bồ Đào tôi nhận được bài luận văn của một học sinh tại một trường trung học ở Việt Nam do huynh trưởng Paul Tuân sao lục từ Internet và gửi qua điện thư. Đậy là bài “kiểm tra kiến thức văn học” cuối năm với đề tài "Bằng kiến thức đã học và kinh nghiệm thực tế, em hãy phân tích hình tượng nhân vật Thúy Kiều và liên hệ với hoàn cảnh hiện đại" Trong điện thư, huynh trưởng cũng hỏi Bồ Đào tôi cho em học sinh này bao nhiêu điểm. Có vẻ như huynh truởng rất “ấn tượng” với kiến thức và lập luận của em học sinh.
Bài kiểm tra của em học sinh mang tựa đề “Kiều Phải Sống!” và có nguyên văn như sau:

"Nguyễn Du là một đại văn hào của đất nước, và tác phẩm Kiều là một kiệt tác bất hủ của văn học Việt Nam đã liên tục nhiều thế kỷ lọt vào top ten những tiểu thuyết được yêu thích nhất trong tuần của MTV. Chỉ tính riêng trong tháng mười một, nhân vật Kiều cũng như Sở Khanh đã được lên trang bìa và trang giữa của nhiều báo với số lượng hơn hẳn các diễn viên Hàn Quốc trong phim “Anh em nhà bác sỹ.” Hằng ngày hiện nay Kim Trong, Mã Giám Sinh, Từ Hải và Thúy Vân... đều dành hết thời gian trả lời thư ái mộ của bạn đọc mà cũng không đủ. Riêng các áo in hình Vương ông và Hoạn thư trong dịp Noel vừa qua đã bán được với số lượng kỷ lục với giá rất nhiều dollars, có khuyến mãi cho người mua số lượng lớn.

Bản thân em rất quý mến Kiều vì cô ấy dễ thương, sinh ra trong một gia đình hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống gặp nhiều éo le, trắc trở, nhưng Kiều vẫn phấn đấu vươn lên. Chỉ tiếc khi Kiều bán mình chuộc cha không chịu coi kỹ giá cả, đúng vào lúc thị trường nhiều biến động nên bị lừa đảo, tư thương ép giá quá trời.

Riêng về vấn đề Kiều nhảy xuống sống tìm đường tự vẫn thì đó là một hành động nông nổi, thiếu suy nghĩ và cũng chứng tỏ thời kỳ này còn lạc hậu về kỹ thuật, không có nhiều phương án để chọn như chọn số điện thoại di động trong đợt giảm giá vừa qua. Với kinh nghiệm thực tế của em, vào lúc này nếu có xảy ra chuyện gì thì Kiều vẫn phải sống bởi các lý do chủ quan và khách quan như sau:

1- Nhảy xuống sông thì hiện nay nước ngập, lòng đường hoặc vỉa hè sau cơn mưa cũng có thể thành sông, nhưng độ sâu rất thất thường, Kiều mà không biết chỗ (mà làm gì có ai biết) nhảy bừa vào chỗ cạn thì có thể sứt trán hoặc trầy đầu gối chứ chết đuối là rất khó khăn.

2- Tất nhiên là Kiều có thể nhảy lầu.. Nhưng hiện nay dưới các lầu đều có dây điện thoại hoặc dây phơi quần áo chằng chịt. Kiều gieo mình xuống mắc vào những sợi dây này sẽ bị phơi nắng, dẫn tới việc phải mua kem dưỡng da chứ không thể chết được. Đã có trường hợp nhảy lầu mười ngày sau mới tới đất.

3- Sau đó Kiều có thể chọn cách lao vào ô tô đang chạy. Cách này có lợi là có thể bẹp dí như bánh tráng trong thời hạn rất nhanh, không sợ bị cứu chữa ngoài ý muốn, và hình như Kiều đã áp dụng thí điểm ở một số ngã tư. Nhưng ôi chao, Kiều cứ thử chỗ nào thì chỗ ấy lại kẹt xe cả ngày trời.

4- Có cách tự vẫn hiện đại nhất là cho điện giật, nhưng Kiều bị lừa đảo đúng vào mùa khô, mực nước sông đều cạn kiệt ngoài dự đoán của Sở Điện lực nên Kiều cứ dùng dây điện châm vào người mấy lần mà điện vẫn bị cúp hoặc tệ hơn nữa, điện yếu khiến Kiều bị giật tê tê chứ toàn thân vẫn nguyên vẹn "rõ ràng trong ngọc trắng ngà".

5- Cuối cùng, Kiều áp dụng phương pháp phổ biến và rẻ tiền nhất là uống thuốc trừ sâu. Nhưng số Kiều quả là lận đận, nàng đã cẩn thận uống đến mười chai mà vẫn phây phây tăng trọng lượng. Về sau mới biết đó là loại thuốc trừ sâu dởm pha bằng nước đường.

Kết luận là trong bất kỳ hoàn cảnh nào em thấy Kiều cũng cần phải sống.. Sống để nhìn thẳng vào sự thật, để lạc quan yêu đời và để xem cho hết các bộ phim nhiều tập rất hay đang được chiếu trên tivi. Kiều cũng cần bắt chước Củng Lợi, phải sống, phải sống và phải sống!"

***

Sau đây là điện thư Bồ Đào tôi trả lời huynh trưởng Paul Tuân:

Paul Tuân huynh đài nhã giám,

Nếu là thầy giáo em này, tôi nhất định phải cho em 100 điểm cộng thêm năm điểm thưởng (bonus) nữa. Em đã sử dụng chủ nghĩa duy vật Mác Lê như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ Truyện Kiều, rồi phân tích đề tài một cách logic, có hệ thống và biện chứng:

Rằng: Hay thì thật là hay,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!

Tuy nhiên, theo đệ, em học sinh đã quên đề cập đến một biến cố trọng đại trong đời Kiều. Ấy là chuyện nàng từng bị bán sang Đài Loan, Tân Gia Ba, Trung Quốc, rồi Hàn Quốc; tiếng là làm vợ ngoại nhân nhưng trong thực tế, chỉ là nô lệ tình dục. Chuyện này đã được cụ Nguyễn Du ghi rõ trong tác phẩm:

Thoắt buôn về thoắt bán đi,

Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!

Tại những nơi này, chốc chốc nàng lại phải cắn răng mà chịu đựng:

Một cơn mưa gió nặng nề,

Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.

Là nô lệ tình dục, Kiều phải làm việc nhiều lắm, “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ”. Nói nôm na là nàng bị chúng xoay, chúng vần đến nơi đến chốn:

Hồng quân với khách hồng quần,

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.

Đau đớn, khổ não, và tủi nhục quá, đã vài lần Kiều đi trốn nhưng đều bị bắt lại. Mỗi lần như vậy, chúng đánh nàng thừa sống thiếu chết.

Có khi chúng dùng tay chân mà đấm đá:

Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,

Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời.

Có khi chúng lấy gậy mà quật:

Trúc côn ra sức đập vào,

Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.

Tuy nhiên, may mắn thay, Kiều không đến nỗi bị tử vong như cô dâu Trần Thị Thu An, quê ở Cần Thơ, bị chồng Hàn Quốc đánh chết tại Daegu, gần thủ đô Hán Thành, ngày 25 tháng 4 năm 2007 vừa qua.

Khi thương tich chưa lành hẳn, Kiều lại bị chúng xoay, chúng vần. Chẳng bao lâu, nàng bị nhiễm bệnh SIDA, tức bệnh AIDS, coi như hết thuốc chữa:

Bấy chầy gió táp mưa sa,

Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.

Còn chi là cái hồng nhan,

Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?

Đến lúc ấy, chúng mới buông tha cho Kiều. Không một đồng dính túi, nàng phải làm “ô sin” cả năm trời tại xứ người để lấy tiền mua vé tầu bay trở về quê quán. Cụ Nguyễn Du đã thuật lại hoàn cảnh “ô sin” của Kiều qua những câu như “ra vào theo lũ thanh y, dãi dầu tóc rối da chì quản bao” và “sớm khuya khăn mặt lược đầu, phận con hầu giữ con hầu dám sai.”

Khi về đến quê nhà, vì không có hộ khẩu, Kiều bị các quan chức địa phương hạch sách để vòi tiền. Điều này cũng được cụ Nguyễn Du ghi rõ trong truyện:

Một ngày lạ thói sai nha,

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.

Ôi thôi, đến nỗi này thi sống làm chi nữa, tự tử quách cho xong một đời, Kiều đã nhủ với lòng như thế:

Thôi thì một thác cho rồi,

Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!

Viết đến đây, em học sinh mới nên kể đến chuyện Kiều nghĩ cách tự tử sao cho hiệu quả như đã trình bầy trong bài luận kiểm tra “Kiều Phải Sống” đăng ở trên. Tự tử mãi mà không chết vì đảng đã bố trí sẵn hồ cạn trên đường phố, dây điện chằng chịt ngang trời, xe cộ kẹt suốt ngày, điện lực thì bữa đực bữa cái, còn thuốc trừ sâu thì mười lọ đến chín rưỡi là thuốc rởm.

Cuối cùng, sau khi khẳng định Kiều cần phải sống, phải sống, và phải sống, em học sinh có thể chấm dứt bài bằng hai câu dưới đây để nội dung bài thêm phần “ấn tượng”:

Số còn nặng nghiệp má đào,

Người dù muốn quyết... Đảng nào đã cho!!!

Khi đọc hai câu trên, ắt hẳn các cụ tự nhận thông thạo Truyện Kiều sẽ nhăn mặt mà rằng “nói bậy, nguyên văn câu này là ‘người dù muốn quyết Trời nào đã cho’ chứ làm gì có Đảng vào đây.” Các cụ nói thế là chỉ biết một chứ không biết hai. Kể từ ngày xô cả nuớc tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, các bậc đỉnh cao trí tuệ đã dõng dạc tuyên bố:

Lão Trời hãy xích một bên,

Đảng nay nhất trí đứng lên làm Trời!

Vì thế, tại Việt Nam hiện nay, người dân phải hiểu Đảng Là Trời và Trời là Đảng mới gọi là giác ngộ Mác-Lê chủ nghĩa. Cụ Nguyễn Du có sống lại cũng phải sửa thơ như trên mà thôi.

Ôi, phải chi em học sinh, tác giả bài kiểm tra, viết rõ ràng về đời Kiều như thế! Dù vậy, thưa Paul Tuân huynh truởng, đệ vẫn nhất quyết cho em 105 điểm. Hiểu tâm lý Kiều như đã viết trong bài, mấy ai bằng được em.

Và hiểu Kiều như thế, nhất định em phải là phụ nữ. Phải chăng em đã mơ hồ thấy mình đang bước vào con đường định mệnh của Kiều thuở truớc, như hàng trăm ngàn chị em hiện sống ở Đài Loan, Tân Gia Ba, Trung Quốc, và Hàn Quốc:

Âu đành quả kiếp nhân duyên,

Cũng người một hội một thuyền đâu xa!

và:

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Cuối cùng, hiểu Kiều đến thế thì chắc chắn em học sinh ấy phải đẹp như Kiều.

Paul Tuân huynh truởng ơi, đệ nhất quyết rồi đấy. Đệ mong huynh cho đệ “giật nóng” tạm vài cây (vàng) để về Việt Nam nhờ mai mối nạp sính lễ hỏi cưới em tác giả bài kiểm tra. Gớm, chắc huynh đang cau mày mà mắng đệ rằng nó còn là học sinh, dính vào vị thành niên thì chỉ có tù mọt gông. Huynh nói thế là huynh còn ngây thơ lắm. Sống trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tiền mua tiên cũng được, huống hồ là mua mấy em gái nhỏ. Chẳng tin huynh cứ hỏi các quan chức lãnh đạo nhà nước là biết liền. Quan nào mà chẳng có ít ra là một em hộ lý. Lắm quan lại có thói quen cứ gặp hên thì mua (trinh) các em để ăn mừng, còn gặp xui thì cũng mua (trinh) các em để xả.

Chắc huynh trưởng còn nhớ, khi thuật chuyện người ta mua đứt Kiều, cụ Nguyễn Du đã viết: “cò kè bớt một thêm hai, giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.” Ấy là cụ nói khoác để giữ thể diện dân tộc. Thật ra, giá Kiều thời xã hội chủ nghĩa chỉ vài cây là cùng. Rẻ lắm huynh ạ!

Vậng, đệ nhất quyết rồi đấy:

Định ngày nạp thái vu quy

Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!

It ra là về với đệ, đời em vị thành niên ấy còn may mắn hơn Kiều rất nhiều. Đệ vốn bản chất tao nhã, có mua em cũng chỉ để cùng em vui thú cầm kỳ thi tửu: “khi gió gác khi trăng sân, bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ, khi hương sớm khi trà trưa, bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn”, chứ chẳng thuộc hạng dâm ô và thô lỗ như những đứa Đài Loan, Tân Gia Ba, Trung Quốc, Hàn Quốc chuyên sang nuớc ta lùng mua phụ nữ (còn trinh) đâu.

Bán mình cho lũ ngoại nhân ấy không những chỉ khổ đến thân mà còn nhục quốc thể lắm huynh ạ. Chẳng hiểu tại sao đảng ta đỉnh cao trí tuệ như thế mà lại khuyến khích trò này? Ngay cả đại vương Nguyễn Minh Triết, khi sang bệ kiến hoàng đế Bút vào tháng 6 năm nay, đã công khai dụ dỗ các doanh gia xứ Cờ Hoa rằng con gái Việt Nam đẹp lắm, hấp dẫn lắm (mại vô, mại vô!!!).

Có dư luận cho rằng những phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan, Tân Gia Ba, Trung Quốc, và Hàn Quốc đều là những người vô sản chuyên chính, thành phần cốt cán của xã hội chủ nghĩa, nên được Đảng và nhà nước bố trí cho kết hôn với ngoại nhân. Khi theo chồng về nước, những cốt cán này sẽ bắt rễ, xâu chuỗi giới vô sản ở xứ người để chuẩn bị cho một cuộc cách mạng tiến lên thế giới đại đồng mà đảng ta sẽ phát động trong tương lai. Ôi, chẳng biết đâu mà lần!

Paul Tuân huynh ơi, huynh mà không cho đệ giật nóng vài cây là có khi chúng ta sẽ phải ân hận “xót nàng chút phận thuyền quyên, cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn” đấy. Vì an nguy của đời nàng và vì sĩ diện của dân tộc, xin huynh đồng ý, nhé huynh!!!

Bồ Đào Công Tử
Đọc xong bài Phiếm đàm, tôi cho đây là những đièu châm biếm về thực trang của nước nhà VN/dưới chế độ CS Chủ Nghĩa Ưu Việt, nên post tiếp lên đây để độc giả của Bloger đọc trong lúc nhàn rỗi.


Tuesday, April 27, 2010

CẢM TẠ CHA PHANXICO TRƯƠNG BỬU DIỆP

Kính Lạy Đức Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp
Con lạy cha PHANXICO TRƯƠNG BỬU DIỆP .
Ngài là bậc thánh ở cạnh Đấng Cứu thế đầy quyền năng.
Nay gia đình chúng con là Nguyễn Nghiêm
xin cảm tạ ơn cha đã nhận lời cầu khẩn , đã cho vợ con là
BỒ THỊ HOÀN vượt qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo.
Gia đình chúng con vô cùng đội ơn cha Phanxicô Trương Bửu Diệp
đã ban ơn theo lời chúng con cầu xin..
Gia Đình Chúng con :
Nguyễn Nghiêm và Bồ Thị Hoàn
LỜI GIỚI THIỆU
(Nguồn Truyền Thông Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp)
của Linh Mục Phan Phát Huồn,Dòng Chúa Cứu Thế VN Hải Ngoại tại Long Beach, California
Cách đây hơn chín tháng, tại hải ngoại mà nhất là tại Hoa Kỳ, người Việt Nam chúng ta ít biết đến Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, ngoại trừ một số đồng hương của chúng ta từ Việt Nam đến, đi theo diện HO hoặc ODP, có nghe nói về linh mục này, còn đa số đều đã phải đặt câu hỏi: "Phanxicô Trương Bửu Diệp, ông là ai ?" Ông là ai mà báo chí không ngớt nói đến ông, đến những sự kiện mà họ thành kính gọi là " phép lạ", mà ông đã làm để giúp đỡ người này kẻ khác đang lúc họ lâm vào những cảnh huống khó khăn của cuộc đời.

Trong mục đích thông tin và thông tin đầy đủ về những sự kiện xảy ra xung quanh ngài, một trong anh em biên tập của Nguyệt san Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ông Võ-Hửu-Hạnh đã thu thập, nghiên cứu các tài liệu và đã viết thành một tác phẩm.

Nội dung của tác phẩm đã được trình bày trong những tháng qua trên Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp và đã được các độc giả khắp nơi trên thế giới, (không những tại Mỹ châu mà còn ở Âu Châu, Ú�c châu) theo dõi bàn tán sôi nổi.

Tại quê nhà đồng bào lén lút chuyền tay nhau Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp để biết được những ân lành mà Chuá đã ban qua tay Cha Diệp. Lúc viết lại những sự kiện trên, tác giả chỉ có mục đích thông tin, sự việc xảy ra thế nào, tác giả viết lại như vậy, tuy nhiên ở đây cũng thế, cũng có người cho là hoang đường, trái lại cũng có người với tất cả sự khôn ngoan và dè dặt coi đó là một việc bất bình thường, một ơn lạ. Về phần chúng tôi, chúng tôi không dám nói những việc xảy ra như thế là hoang đường hay phép lạ. Chúng tôi xin lập lại một lần nữa : điều đó thuộc phạm vi của giáo quyền .

Chúng tôi mong rằng tác phẩm khiêm tốn này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về cuộc đời của một linh mục đã sống cho Chuá, cho con chiên và dân tộc.
L.M. Phan Phát Huồn, CSsR


TRUYỀN THÔNG ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP




CÂY THẬP GIÁ TRÊN NGÔI MỘ ÐẦY HƯƠNG HOA CHA PHANXICÔ TRƯƠNG BỬU DIỆP(1897-1946)
Bài của Linh Mục HỒNG PHÚC CSsR


Càng về cuối muà chay, vào tuần khổ nạn, bước vào Ðại Lễ Phục Sinh , Phụng vụ trình diển cho chúng ta cảnh tượng một cây thập giá ẩn hiện trên một đỉnh đồi. Cây Thập Giá là biểu hiện tình thương vô bờ bến đối với nhân loại. Cây Thập Giá cũng là mức độ đo lường tình yêu của chúng ta đối với THIÊN CHÚA và đối với tha nhân.


Trên đỉnh đồi GOLGOTHA ,GIOAN là môn đệ duy nhất đã đứng dưới cây Thập Giá, bên cạnh Ðức Mẹ, để chứng kiến cuộc hiến tế của Thầy, để nhìn tận mắt Thầy bị treo trên cây Thập Giá, chết vất vưởng giửa trời và đất. Từ các thương tích, máu hồng không ngớt nhỏ giọt, giọt nầy lướt qua giọt khác theo đà thập giá, rỉ rã chảy xuống nền đất, rồi biến thành những tia đỏ sậm lan dần đến tận cùng trái đất. Tục truyền rằng, sau khi Chuá GIÊSU vừa tắt thở thì "đất động" và một trận mưa rào đổ xuống, máu đào của con THIÊN CHÚA loang lổ trên nền đất theo giòng nước lũ chảy bốn phương như một cuộc rửa tội cho thế giới tội lỗi.


GIOAN con người chứng kiến cảnh tượng đã ghi sâu vào ký ức và sau nầy, lúc về già gần 100 tuổi, viết cuốn Phúc Âm thứ tư, còn ghi nhớ cảnh tượng trên đỉnh đồi GOLGOTHA. Người nhớ lại lời Thầy đã tiên báo trong cuộc đàm đạo với NICÔÐÊMÔ giữa bóng đêm hôm ấy.(Gio.3,14-18)

THẬP GIÁ TRÊN ÐỈNH ÐỒI BIỂU TƯỢNG TÌNH YÊU VÔ BIÊN.

Gioan viết; Ðức Giêsu nói với Nicođêmô: "Như Moisê giương cao con rắn trong sa mạc . Con Người cũng bị giương cao như vậy, nhõ hầu kẻ nào tin thì nhờ Ngài mà được sống đời đời" (Gio.3,14-15).
Chuá ám chỉ một biến cố sảy ra sau khi ISRAEN ra khỏi Aicập và lưu lạc trong sa mạc. Họ kêu trách Chuá ,"đem con bỏ chợ". Chuá trừng phạt. Từng đoàn rắn độc bò ra giết hại nhiều người. Moisê trong một cử chỉ tiền báo, treo lên cây gổ một con rắn đồng, ai nhìn lên biểu tượng thì được sống(Số 21,6-9). Ðấng Khôn ngoan giải thích : "Ai ngước mắt nhìn lên con rắn, được cứu thoát, không phải vật được nhìn thấy mà vì Ngài là Chuá chúng tôi hết thảy "(kh.ng.16,7). Như vậy, con rắn là biểu tượng một cuộc trở lại, một cuộc phó thác cho tình yêu Thiên Chuá. Cha Charles de Foucauld nói : "Từ ngày tôi biết có THIÊN CHUÁ, tôi hiểu rằng đời tôi phải sống chỉ vì Người."


Biểu tượng đưa đến sự thật. Vì thế, Chuá Kitô phán tiếp: "Thiên Chuá đã yêu thế gian đến nổi đã ban Con một mình, để nhũng ai tin CON NGÀI thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời (Gio.3,16). Ngài đã chết để cứu rổi chúng ta, "bị treo" trên thập giá. Hình ảnh thật linh động. Khi người tử tôi bị đóng đinh, việc đầu tiên lý hình làm là trồng thân cây thập giá, rồi ở dưới đất họ đóng đinh hai tay nạn nhân vào thanh ngang, kéo đến chân cột đã dựng sẳn và "treo" người tử tội lên, hình thành cây thập giá. Một tài liệu cổ xưa nói đến cuôc "vũ khúc xoay mình trên không khí", để ám chỉ cái chết trên thập gía của nạn nhân, (xem LA PASSION DE J.C. selon le Chirurgien của PIERRE BARBRET)


Chuá đã chịu chết trên cây Thập Giá. Chuá. Chuá đã sống lại, để đền tội chúng ta và để cho chúng ta được sự sống vĩnh cửu.

CÂY THẬP GIÁ BIỂU TƯỢNGÐỨC BÁC ÁI HY SINH

Dưới cây thập giá, Tình yê�u của Thiên Chúa lôi kéo dun dủi chúng ta. Chuá phán: "Ðã đến giờ con người được tôn vinh. Ta bảo thật các ngươi, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều hoa quả ( Gio 12,23-24)" . Lời ấy, dưới cây thập giá in bóng trên nền trời, Chuá cũng nói với mổi người trong chúng ta "Muốn cứu rổi mình thì
hãy bắt chước Chuá, biết vác thập giá của mình và giúp kẻ khác vác thập giá của họ, như một bà mẹ kia, mang bệnh tật trên thân xác, nhưng mặt vẫn bình tỉnh hy sinh cho chồng cho con, như một bác sĩ nọ chỉ biết hy sinh cho bệnh nhân nghèo khó, như "NHÓM TỰ NGUYỆN CHỊU ÐAU KHỔ " do Ðức Cha NOVASERE sáng lập, hàng năm đến hành hương ở Lộ Ðức, dâng lên Mẹ những bó hoa đỏ, tiêu biểu chia sẻ sự đau khổ của kẻ khác "Khi Ta phải treo lên Thập Giá, Ta sẽ lôi kéo mọi người đến với Ta."


CÂY THẬP GIÁ TRÊN MỘT NGÔI MỘ KHỔNG LỒ

1945...Thế chiến thứ hai kết liểu ở Âu Châu. Ðức quốc xả đầu hàng khi nhà độc tài HITLER và vợ tự sát trong khi khói lửa ngợp trời bao phủ thủ đô BERLIN. Quân Ðồng Minh tiến lên như vũ bảo, hàng hàng lớp lớp chia cắt miến đất thành bốn mảnh. Khi quân đội Ðồng Minh tiến vào một trại giam tù nhân cuả Ðức Quốc xả, họ khựng lại trước một cảnh ghê sợ. Trước mặt họ là một quả núi đen sì đứng sừng sửng, quả núi hình thành do tro tàn của hàng vạn tù nhân đã bị thiêu sinh, tro tàn để làm phân bón nhưng chưa kịp phân tán đi. Bên cạnh là những dãy nhà chất đầy ...tóc phụ nữ để dùng trong các công xưởng đóng tàu. Không biết bao nhiêu người chết ở đó, phần đông là người Do thái. Người ta ước lượng có sáu triệu người Do thái đã bị hy-sinh trong các trại giam.


Trước cảnh tượng ghê sợ ấy, Ðồng Minh quyết định lấy cỏ đấp lên quả núi tro tàn và dựng lên trên, một cây THÁNH GIÁ LỚN, để nói cho hậu thế biết, khi người ta không nhìn nhận THIÊN CHÚA (ở ngoài cổng vào trại giam lại có một tấm bảng ghi : "Ở đây không có Thiên Chúa ") thì người ta đối xử với đồng loại tàn tệ hơn súc vật.
-LUPUS LUPIOR ! Một nạn nhân trong trại giam AUSCHWITZ gần biên giới BALAN là một vị Anh Hùng đã đi vào lịch sử là Thánh Maximilian Kolbe. (1894-1941). Ngài là một cha dòng PHANXICÔ, một tông đồ nhiệt thành của Ðức mẹ Vô Nhiễm, với một ước nguyện "Trở nên bụi đất " để xây dựng nước Chuá nhờ Ðức Mẹ Vô Nhiễm"..thì Chúa đã thực hiện ước vọng theo đúng nét chữ.. Ngài đã chết tử đạo vì Bác Ái. xác bị hỏa thiêu...!
Ngài là tù nhân mang số 16.670. Mặc dầu bị canh chừng rất cẩn mật, một số tù nhân vẩn trốn được, nên ban "quản huấn" ra nghiêm lệnh: một người trốn, mười người khác chết thay. Tuy nhiên, đêm hôm ấy, một tù nhân trốn được và sáng hôm sau, nghi lệnh sắp được thi hành. Một sĩ quan chứng giám cuộc rút thăm. Ðến người thứ năm là trung sĩ GAJOWRDIEZEK bị gọi. Ông thất vọng bước ra và kêu lớn: "Ôi vợ con tôi, tôi không bao giờ gặp lại nưã !" Cuộc chỉ điểm kết thúc thì tù nhân mang số 16-670, râu ria sồm sàm, bước ra khỏi hàng ngũ, tiến thẳng đến trước vị giám quản. Vị sĩ quan rút súng và nói: "Con chó BALAN, ngươi muốn gì? Tù nhân nói: "Tôi già rồi và vô dụng..đời tôi không có ích gì .Tôi xin tình nguyện chết thay cho người mới la lên..để ông được về với vợ con." Ông là ai ?". "Linh Mục Công Giáo ".
Ngày 14 tháng 8 năm 1941, sau 10 ngày biệt giam với các bạn tù xấu số, bị bỏ đói, Cha bị chích một mũi thuốc độc, miệng kêu: Ave Maria, rồi tắt thở. Ngày hôm sau, đúng vào ngày Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên Trời. Xác Ngài bị Hỏa Thiêu để xây dựng nước Chúa nhờ Ðức Mẹ. Ngài được Ðức Phaolồ VI phong Chân Phước ngày 17-10-1971 và được tôn phong Hiển Thánh ngày 10-10-1982 do một người đồng hương là Ðức Gioan Phaolồ II. Trong cuộc tôn phong, hai vợ chồng GAJOWRDIEJEK tóc bạc phơ có mặt và khóc nức nở, vì cảm nghiệm lời Chuá đã phán: " Không gì tỏ tình thương cho bằng chịu chết vì bạn hữu". Lời ấy Chuá Kitô đã nói và đã làm. Theo gương của Chuá, Cha Maximilian Kolbe, người Balan đã làm, và một linh mục Việt Nam, Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp (1897-1946), cha sở họ đạo Tắc Sậy tỉnh Minh Hải (CàMau) thuộc giáo phận Cần Thơ cũng đã làm như sẽ nói sau đây.

CÂY THẬP GIÁ TRÊNNGÔI MỘ ÐẦY" HƯƠNG HOA"

Ai đi về CàMau, hãy ghé qua họ Tắc Sậy kính viếng ngôi mộ "đầy hương hoa" của linh mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, trong giáo phận Cần Thơ.
Về phương diện hành chánh, xưa kia Cần Thơ gồm toàn trấn, Hà-tiên, một xứ u minh, rừng rú, ao vũng rất ít dân cư, người Miên và người Việt, ở thành từng xóm rải rác. Trước năm 1708, một người Trung Hoa tên là Mạc Cữu từ QUẢNG ÐÔNG đến, với sự thỏa thuận của Triều Nguyển, khai khẩn vùng Hà Tiên mà người Hoa gọi là Căn Cao. Ông thiết lập 7 khu định cư như Rạch Giá, Phú Quốc, Bải Xàu, Ca �Mau...và chiêu mộ dân về lập nghiệp. Ông được Chuá Nguyễn phong làm Tống Binh. Năm 1775, ông Mạc Cữu dâng cho Ðức Cha Bá-đa-Lộc một khu đất lập trường học. Một số họ đạo thành hình.
Về mặt tôn giáo, vùng CàMau thuộc điạ phận Ðàng Trong. Năm 1863, Cao Miên nhận quyền Bảo Hộ của Pháp, rất nhiều người Việt di dân sang Miên sinh sống, trong số có khỏan 40 ngàn công giáo. Năm 1850, Giáo phận Nam Vang được thiết lập, gồm cả hai tỉnh Việt Nam là Hà Tiên và An giang. (Xem Việt Nam Giáo sử của Cha Phan phát Huồn CSsR II trang 334-335 ).
Trong bối cảnh chính trị và tôn giáo ấy, chúng ta hiểu lý lịch và đời sống của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp mà ngôi mộ ngày nay đã trở nên nơi thu hút nhiều khách hành hương.
Cha Trương Bửu Diệp là ai ? Trương Bửu Diệp, tên thánh là Phanxicô Xaviê, sinh ngày 1-1-1897, tại Cồn Phước, tỉnh An giang, Việt Nam. Ngài tu học tại Chủng viện
Nam Vang và đưọc thụ phong linh mục năm 1924, được bổ nhiệm coi nhiều địa sở, nhất là họ đạo Tắc Sậy, ngày nay thuộc tỉnh Minh Hải, giáo phận Cần Thơ.
Năm 1945,toàn dân vùng dậy chống Pháp đuổi thực dân.Người Công Giáo nhiệt liệt hưởng ứng.Hồ Chí Minh,để lấy lòng Công Giáo,nhất định chọn ngày lể các Thánh Tử Ðạo Việt Nam làm ngày Quốc Lể.
Ngày 3-9-1945, một cuộc biểu tình khổng lồ qui tụ nhiều người Công Giáo cũng như Giáo Sĩ để ăn mừng ngày "Ðộc Lập" vả tin tưởng vào sự lảnh đạo của đảng Việt Minh. Giám mục Nguyển Bá Tòng thay mặt các Giám Mục Việt Nam gửi văn thư xin Ðức Giáo Hoàng ban phép lành và cầu nguyện cho nền dộc lập Việt Nam. Ngờ đâu, Việt Minh dã để lộ chân tướng, (...) ở trên chớp bu xem ra có sự cộng tác thành thực, nhưng ở hạ tầng dân chúng thì bắt đầu chính sách hà khắc, hăm doạ, bắt bớ,nhất là ở những nơi thôn quê hẻo lánh.Họ đạo Tắc Sậy ở nơi đèo heo hút gió đang rơi vào tình cảnh ấy.Cha sở là Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp rất thương mến Giáo dân đang bị những lực lượng quá khích chống Công Giáo đòi làm cỏ.Giáo dân bị vây hãm và đe doạ thiêu sống tất cả.
Vì thương mến giáo dân,Cha Phanxicô xin tự nguyện nộp mình chịu chết,để cho Giáo dân được tha.Ngài đã bị chúng mời lên trụ sở hai lần và lần thứ ba thì bị chúng chặt đầu và quăng xuống ao .Ngài đã chết tử vì đạo ngày 12 tháng 3 năm 1946 nhằm ngày mồng 9 tháng 2 năm Bính Tuất.Xác Thánh của Ngài được chôn cất tại họ đạo Tắc Sậy tỉnh Minh Hải, giáo phận Cần Thơ. Và ngày nay,ngôi mộ của Ngài là một cao điểm hành hương,không nhũng cho người Công Giáo mà cho cả đồng bào bên lương.Người ta" được nhiều phép lạ" chữa bệnh tật.Trên phần mộ, dưới bóng cây Thập Giá, người ta đem nhiều lể vật đến tạ ơn biến thành "NGÔI MỘ ÐẦY HƯƠNG HOA". Họ đạo Tắc Sậy ngày nay đã trở nên trung tâm hành hương với một ngôi thánh đường bằng gạch khang trang.
Người trong họ đạo kể rằng: Sau khi chúng chặt đầu Người quẳng xuống ao..vị tử đạo về báo mộng cho ông trùm biết nơi quăng xác và giáo dân đem về chôn cất tử tế.Họ đạo nghèo thế mà ngày nay có một ngôi Nhà Thờ bằng gạch khang trang. Ðó cũng là công ơn của Cha Sở Họ Ðạo. Số là một ngày kia,ông chủ lò gạch địa phương,ngoại giáo,cho chở đến cho Cha Sở mới rất nhiều xe gạch,nói là để xây cất Nhà Thờ.Cha Sở ngạc nhiên cho biết họ đạo nghèo làm sao thanh toán được số tiền. Ông chủ lò gạch nhìn lên di ảnh Cha Trương Bửu Diệp treo trên vách tường và nói:Ông Cha nầy đã trả tiền mua gạch rồi. Nhà Thờ bằng gạch được xây lên khang trang nhờ công ơn vị tử đạo năm 1946 đã hy sinh mạng sống VÌ ÐOÀN CHIÊN.
Ngày nay, mổi tuần có từng đoàn người hành hương đổ về họ Tắc Sậy để kính viếng "NGÔI MỘ ÐẦY HƯƠNG HOA" của vị tử đạo. Báo Lao Ðộng là cơ quan ngôn luận của Ðảng, trong số ra ngày 28-11-93, nơi trang nhất, tựa đề lớn loan tin : "Ở Nhà Thờ Tắc Sậy, Gia-Rai, tỉnh Minh Hải có Cha xứ chữa bệnh bằng nước.. Hàng ngàn người từ Bảo Lộc đi Cà Mau cầu thuốc Thánh". Chúng ta biết báo chí Cộng sản ít khi trịnh trọng gọi các linh mục là Cha xứ mà chỉ gọi là ông linh mục .Phải chăng,để tránh trách nhiệm, họ tung tin Cha Trương Bửu Diệp bị Nhật Bản giết tại Nhà Thờ Tắc Sậy, huyện Gia rai, tỉnh Minh Hải năm 1945. Sự thật là Cha bị giết Tử Ðạo ngày 12 tháng 3 năm 1946, là năm Việt Minh đang làm bá chủ, bộ đội Nhật bị Ðồng Minh tước khí giới ra đi từ lâu rồi (Việt Nam 45-72 của Jacques Suant-Arthaud )
Chúng tôi ghi lại câu chuyện vị Anh Hùng với tư cách Truyền Thông và hoàn toàn vâng theo quyền thẩm xét tối hậu của Giáo Hội.
Trong trang sử đẩm máu Giáo Hội Việt Nam còn thêm một vị anh hùng :
Linh Mục Trương Bửu Diệp
Xiềng xích gông cùm coi thật nhẹMáu đào đòn vọt kể bằng không,Sử sách tụng ca giòng Tử ÐạoViệt Nam đất nước của anh hùng,"... ( X.L.B. )Xin hộ phù Ðất Nước và Giáo Hội Việt Nam.

Thánh Lễ Di Hài Cốt Cha Trương Bửu Diệp Tới Nơi An Nghỉ Mới (4/3/2010)
Thứ Năm, Ngày 4 tháng 3-2010
Vào lúc 9g00 sáng ngày 4/3/2010 Đức Cha Stephanô Tri bửu Thiên đã chủ sự Thánh Lễ đồng tế với các cha hạt Cà-mau thuộc giáo phận Cần Thơ di hài cốt cha Phanxico Trương bửu Diệp dến nơi an nghỉ mới, tọa lạc trong khuôn viên nhà thờ Tắc Sậy. (Minh tường trình)





Tiểu sử Linh Mục
Phanxicô TRƯƠNG BỬU DIỆP

(Tiểu sử này do cha Nguyển Ngọc Tỏ viết, ngài hiện là cha sở họ Tắc Sậy, nơi có mộ cha Phanxicô Trương Bửu Diệp)

Linh Mục Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, được Cha Giuse Sớm rưả tội ngày 2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Ðức, nay thuộc ấp MỸ LỢI, xã Mỹ Luông, Chợ Mới, Tỉnh An-Giang

Cha ngài là MICAE TRƯƠNG VĂN ÐẶNG (1860-1935).

Mẹ ngài là LUCIA LÊ-THỊ-THANH.
Gia-đình sinh sống tại họ đạo CỒN PHƯỚC.

Năm 1904,lúc ngài lên 7 tuổi thì mẹ mất. Theo cha, gia đình dời lên BẮCTAMBANG CAMPUCHIA, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Tại đây, thân phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyển thị Phước, sinh năm 1890, quê quán họ Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẩu đã sinh cho ngài người em gái tên là Trương thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến dinh, xã Tân Hoà, huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp.

Năm 1909, cha Phêrô Lê Huỳng Tiền cho ngài vào tiểu chủng viện Cù lao Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ Mới An Giang. Mãn tiểu chủng viện, ngài lên Ðại chủng viện Nam Vang ,Campuchia ( lúc đó các họ đạo khu vực Ðồng bằng sông Cửu Long trực thuộc giáo phận Pnom Penh, Campuchia).

Năm 1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong Linh mục tại Nam Vang, thời Ðức Cha Gioan Bí tích Chabalier. Lể vinh quy và mở tay được tổ chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.

Năm 1924-1927, được bề trên bổ nhiệm làm cha phó họ đạo Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Campuchia.

Năm 1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao giêng.

Tháng 3 năm 1930, ngài về nhậm họ đạo Tắc Sậy. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ�, thành lập nhiều họ đạo vùng phụ cận như: Bà Ðốc ,Cam Bô, An Hải, Ðầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Ðồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con nhân dân di tản, Cha Bề

Trên điạ phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả người Pháp cũng gọi ngài lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì trở về họ đạo, nhưng ngài trả lời: "Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết."

Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm luá của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung. ( 2 )

Ngài mất trong khi thi hành nhiệm vụ chủ chăn. Xác ngài được vớt lên từ một cái ao của ông giáo Sự, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chuá Giêsu trên thập giá.

Thi hài ngài được chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo. Ðến năm 1969, hài cốt ngài được di dời về nhà thờ Tắc Sậy, nhiệm sở của ngài thi hành chức vụ chủ chăn trong 16 năm. Ngôi nhà mồ của ngài hiện nay, được trùng tu và khánh thành ngày 4-6-1989. Ngài là Cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy.

Lời Ðức kitô đã dạy: Người mục tử tốt lành hiến mạng sống vì đoàn chiên. Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã thực hiện lời Ðức kitô trong cuộc sống, ngài đã hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chuá, ngài đã hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên. Chúng ta có thể tóm tắt cuộc đời của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là:

TẬN HIẾN CUỘC ÐỜI CHO THIÊN CHUÁ,
HY SINH KIẾP SỐNG GIÚP CON NGƯỜI.

SỐNG HIẾN THÂN PHÓ THÁC,
CHẾT NÊU GƯƠNG SÁNG NGỜI
để
MỘT ÐỜI DÂNG HIẾN,
TRỌN KIẾP VINH QUANG.

Hàng ngàn người lương giáo, gần xa đã đến Tắc Sậy với cha Phanxicô để nguyện cầu, để khấn xin, để trút những nổi lo, gánh nặng vật chất, tinh thần để ngài chuyển lên Thiên Chúa và Thiên Chuá đã chấp nhận chúc phúc cho những khấn ước, nguyện xin. Xin cảm tạ hồng ân Thiên Chuá đã vinh quang qua Cha Phanxicô.
Nhiều người đã đến, đã ở lại, đã trở về, để còn nhớ:

Ra về còn nhớ Tắc Sậy,
Xứ đạo nhỏ bé sình lầy đường xa,
Hồng Ân Thiên Chuá ban ra,
Ðoàn con lương giáo gần xa viếng Người
Những ai đau khổ đôi phần,
Nguyện xin Cha thánh đỡ� đần ủi an,
Những ai gặp bước gian nan,
Nguyện xin Cha thánh lo toan mọi bề,
Những ai đau khổ đường về,
Cậy trông Cha thánh tràn trề hồng ân.

Linh Mục Nguyển Ngọc Tỏ.

Friday, April 23, 2010

Việt Nam 35 năm nhìn lại
Quỳnh Như, phóng viên RFA2010-04-12

Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc cách nay 35 năm nhưng đối với một thành phần đông đảo người Việt Nam, cả trong lẫn ngoài nước, vẫn còn nhiều điều cần phải bàn cãi và làm sáng tỏ.
Photo: RFA
Buổi Hội thảo "Việt Nam 35 năm nhìn lại" tại Hoa Thịnh Đốn ngày 9 tháng 4, 2010
Đó là chủ đề một cuộc hội thảo quy tụ gần 50 nhân vật gồm những cựu tướng lãnh Hoa Kỳ và những nhà nghiên cứu quân sự, nghiên cứu sử học của Mỹ, cùng với môt số nhà nghiên cứu, cựu viên chức cao cấp Việt Nam Cộng Hoà trong thành phần diễn giả và tham dự lên đến gần 200 người, trong hội trường U.S. Army and Navy Club tại Washington.

Dư luận không thể là bằng chứng

Vai trò và tinh thần chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà trong trận chiến 20 năm tại Việt Nam kết thúc cách nay đã 35 năm vẫn chưa được nhiều người trong hai thành phần tham chiến đánh giá đúng đắn. Dư luận Mỹ nay đã nhìn lại đôi phần từ khi có đông đảo người Việt sang tị nạn, nhưng cũng còn sót lại những khuynh hướng đổ lỗi cho sự thất bại của phe đồng minh ở Việt Nam là do sự yếu kém trong sức chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Phía đảng Cộng Sản Việt Nam thì luôn luôn nhấn mạnh đến vai trò của quân đội Hoa Kỳ, coi thành tích chiến đấu của quân đội miền Nam chỉ là thứ yếu, kém cỏi, tuy vẫn mạnh tiếng tố cáo quân đội này đã gây ra những tổn thất lớn lao cho lực lượng Cộng Sản từ những ngày nổi dậy ở miền Nam cho đến những trận tổng tấn công 1968, 1972 và 1975 của quân đội miền Bắc.

Dư luận Mỹ nay đã nhìn lại đôi phần từ khi có đông đảo người Việt sang tị nạn, nhưng cũng còn sót lại những khuynh hướng đổ lỗi cho sự thất bại của phe đồng minh ở Việt Nam là do sự yếu kém trong sức chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà
Cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Washington, ông Bùi Diễm phát biểu lời khai mạc tại cuộc hội thảo "Việt Nam 35 năm nhìn lại" tại Hoa Thịnh Đốn. (April 4, 2010)

Sự thật lịch sử rất quan trọng đối với người Hoa Kỳ trong thế hệ ngày nay đang điều hành chính sách với Việt Nam , cũng như đối với những thế hệ đi sau của của những người chiến sĩ và viên chức Việt Nam Cộng Hoà. Những thế hệ hậu duệ đó nay đang chiếm giữ ngày càng nhiều những vị thế quan trọng trong nhiều lĩnh vực ở nhiều nước bên ngoài Việt Nam, cũng là thành phần không kém quan trọng đối với tương lai chính trị, kinh tế, xã hội của nước Việt Nam sau này.

Nhìn lại lịch sử sau 35 năm chiến tranh về vai trò chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, do đó, là chủ đề cuộc hội thảo tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ, do cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Washington, ông Bùi Diễm, và những người có tâm huyết với những người Việt quốc gia trong và ngoài nước tổ chức hôm thứ sáu mùng 9 tháng 4 năm 2010.

Sự thật bị bóp méo

Một trong những nhân vật đã từng chứng kiến những giờ phút quan trọng của lịch sử là cựu Đại sứ Bùi Diễm - ông từng là thành viên trong phái đoàn của chính phủ quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hoà tham gia Hội nghị Geneve 1954, Hội nghị Paris năm 1973, từng nắm giữ các chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Đại sứ lưu động của Việt Nam Cộng Hoà phát biểu lời khai mạc: Đại sứ Bùi Diễm:

"... Hôm nay chúng tôi muốn chứng minh đã có sự bóp méo lịch sử, xuyên tạc những gì đã xảy ra ở miền Nam Việt Nam trước đây, và phản bác những định kiến sai lầm về vai trò, cũng như sức chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.

Trong thập niên 1960, trên báo chí Mỹ, chẳng hạn như tờ Newsweek, đã có những tin tức, những bài báo với hàng tít: “Kẻ địch như hổ, còn chúng ta chỉ là những chú thỏ đế”. Dưới mắt những nhà báo có lối nhìn thiên lệch này, những “con hổ” được dùng để chỉ quân Cộng Sản , còn Hoa Kỳ và phía Việt Nam Cộng hoà bị ám chỉ là “những chú thỏ đế” một biểu tượng của sự hèn nhát. Sự thật thế nào. Ông Bùi Diễm cho biết: Đại sứ Bùi Diễm:“Trên thực tế, những “con thỏ” đó đã chiến đấu rất dũng mãnh. Trong số các diễn giả tham dự hội thảo này, có những người đã từng chiến đấu hồi Tết Mậu Thân ở Huế, trong đợt phản công hồi “Mùa hè Đỏ lửa” năm 1972 để giải vây An Lộc và tái chiếm Quảng Trị. Những nhân chứng từng tận mắt chứng kiến những gì đã diễn ra sẽ chứng thực sự dũng cảm và kể về những chiến công của Quân lựcViệt Nam Cộng hoà trong muôn vàn khó khăn. Dựa vào những kinh nghiệm mà họ đã từng trải qua trong cuộc chiến sôi động lúc đó. Các nhân vật này sẽ trình bày với chúng ta về sự thật đích thực”.

Trong khi báo giới Mỹ ca ngợi sự dũng cảm của quân nhân Hoa kỳ ở Khe Sanh thì những chiến công của quân đội Việt Nam Cộng Hoà trên chiến trường An Lộc, Quảng Trị hay trước

Thảm sát tại Huế năm 1968 vào Tết Mậu Thân của cộng sản VN
. Courtesy NgoTheLinh (VN special forces website)

đó là trong trận phản công hồi Tết Mậu Thân lại không được báo giới Mỹ nhắc đến. Tuy nhiên có những sự thật không ai có thể chối bỏ.
Cuộc thảm sát ở Huế: bằng chứng cụ thể
Năm 1968, Việt cộng mở một cuộc Tổng tấn công ở hầu hết các thành phố khắp Miền Nam như: Saigon, Huế, Đà Nẵng, Biên Hoà, Ban Mê Thuột,... Trong các trận đánh ấy, cuộc thảm sát ở Huế là sự kinh hoàng khó quên đối với dân chúng. Đại tá Trần Minh Công thuộc Lực lượng Cảnh sát Quốc gia Nam Việt Nam, cho biết, có khoảng 5,200 người vô tội, hầu hết là thường dân, trong đó có cả những nhà truyền giáo và giáo sư ngoại quốc được Viện Đại học Huế thỉnh giảng đã bị Việt cộng giết hoặc chôn sống. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người từng đảm trách chức vụ Giám đốc Phòng Thông tin, Đại sứ quán Việt Nam tại Washington trong thời gian này nhận định, một trong những lý do khiến cuộc tấn công của Việt cộng vào Huế trở thành đẩm máu và kinh hoàng nhất là vì:Nguyễn Ngọc Bích: “Nếu như cuộc tiến công hồi Mậu Thân vào Saigon là sự kết hợp của lực lượng quân giải phóng ở miền Nam dưới sự chỉ huy của Trần Văn Trà, Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng, cộng với các đơn vị chính quy miền Bắc do Lê Đức Anh và Mai Chí Thọ lãnh đạo thì lực lượng tấn công Huế chỉ có quân chính quy Bắc Việt và kết quả của mặt trận Huế sẽ mang lại uy danh cho lực lượng này. Đây chính là điểm quan trọng nhất để quy trách nhiệm đối với những kẻ đã gây nên các cuộc thảm sát ở Huế năm 1968”.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân còn cho thấy, Bắc Việt đã có sự thay đổi về chiến lược, từ chiến tranh du kích sang chiến tranh chính quy. Cựu Đại tá Cảnh sát Trần Minh Công cho biết:Trần Minh Công: “Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân Cộng Sản đã bất ngờ tấn công miền Nam nhưng đã bị quân đội Việt Nam Cộng Hoà và lực lượng Cảnh sát kết hợp phản công tức thời. Vì thế âm mưu của Bắc Việt đã thất bại nhanh chóng. Kết quả là tổn thất về phía lực lượng Cộng Sản ở miền Nam rất cao và sau thất bại này, hầu hết các cơ sở nội thành và các chi bộ cộng sản được xây dựng từ lâu đã bị lực lượng Cảnh sát phá vỡ. Hai năm sau cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân, Cộng Sản Việt Nam không thể tập hợp lực lượng để mở một trận đánh lớn nào vào quân đội Việt Nam Cộng hoà cho đến mùa hè 1972”.

Sức mạnh thực sự của QĐVNCH tại An Lộc và Quảng Trị

Sang năm 1972, Bắc Việt nghĩ rằng có thể sẽ giành được những chiến thắng quyết định trên chiến trường. Với chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, lúc này, Quân lực Việt Nam Cộng hoà, có sự yểm trợ hoả lực của Mỹ tự lực chiến đấu với quân đội Bắc Việt được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ, trợ giúp súng đạn tối tân.Đầu tháng Tư năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt mở một trận đánh lớn vào An Lộc, một thị trấn nằm trên quốc lộ 13, nối liền Saigon với vùng biên giới Campuchia thuộc tỉnh Bình Long, với âm mưu biến khu vực này thành bàn đạp, tiến chiếm Saigon,. Bắc Việt đã huy động một lực lượng hùng hậu, quân số gấp bốn lần quân trú phòng, tấn công mãnh liệt với sự yểm trợ của xe tăng và đại pháo. Sau 7 đợt tấn công, kéo dài gần hai tháng, mất hàng chục ngàn quân, chưa kể hàng chục ngàn lính bị thương, cuối tháng 5 năm 1972, Bắc Việt phải tháo lui.

" Tại An Lộc. sau 7 đợt tấn công, kéo dài gần hai tháng, mất hàng chục ngàn quân, chưa kể hàng chục ngàn lính bị thương, cuối tháng 5 năm 1972, Bắc Việt phải tháo lui..."

Trong mùa hè năm 1972, người miền Nam quen gọi là “Mùa hè đỏ lửa”, Bắc Việt xua quân tràn qua biên giới Việt – Lào và khu phi quân sự ở vĩ tuyến 17 chia cắt hai miền, để tấn công Quảng Trị-Hụế. Sư đoàn 3 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn quân miền Bắc và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại. Đến tháng 5 năm 1972 thì quân Bắc Việt chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công. Đầu tháng 7 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa phản công để tái chiếm Quảng Trị- Đông hà.
Tái chiếm thành Quảng Trị. Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Cuộc chiến 81 ngày giành lại thị xã và thành cổ Quảng Trị trở thành trận đánh ác liệt nhất trong “Mùa hè đỏ lửa”. Hai sư đoàn dũng mãnh nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà là Nhảy dù và thuỷ quân lục chiến làm lực lượng tấn công chính.

Một Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù Việt Nam Cộng hoà từng tham chiến tại Quảng Trị thuật trận đánh Cổ Thành đầu tiên, nổi bật tinh thần chiến đấu của đoàn quân Mũ đỏ. Ông thuật lại: tiểu đoàn của ông đi vòng lên hướng đông bắc, (xử dụng lối đánh vào ban đêm) bí mật nhổ hết chốt địch dọc đường, bất ngờ đánh vào làng Tri Bưu, và áp sát cửa Tả của cổ thành sau 18 ngày tấn kích liên tục qua những biển chốt phòng thủ của quân Bắc Việt.

Ông nói tiếp: "Các đại đội nhảy dù không sao vượt qua được bức tường toà thành cổ kiên cố. Một toán chiến binh cảm tử 8 người tính nguyện, với nhiệm vụ đột nhập vào thành, dựng lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà và lập đầu cầu cho lực lượng tấn công nhập thành. 1 giờ sáng 27 tháng 5, toán cảm tử xuất phát, do Hạ sỉ TrầnTâm chỉ huy, binh nhất Hồ Khang dẫn đầu, vì anh là người sinh trưởng tại Tri Bưu. 4 giờ sáng, những người chiến binh ở tuyến đầu đột nhiên nghe tiếng hô: "Việt Nam Cộng Hoà muôn năm, Nhảy dù cố gắng", bóng cờ nổi chập chờn trên bức tường thành trong ánh lửa đạn của đủ loại súng... rồi không gian yên tĩnh trở lại...

Toán cảm tử bị tiêu diệt ngay trên mặt thành ...chỉ còn hai người sống sót thoát ra với thương tích đầy mình"

Ông nói tiếp lúc quân Việt Nam tràn qua bức tường thành:

Quảng Trị, cuộc chiến 81 ngày giành lại thị xã và thành cổ Quảng Trị trở thành trận đánh ác liệt nhất trong “Mùa hè đỏ lửa”. Hai sư đoàn dũng mãnh nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà là Nhảy dù và thuỷ quân lục chiến làm lực lượng tấn công chính.

“Bất ngờ trái bom tinh khôn nổ vang trời, rung chuyển cả mặt đất, một lỗ hổng đường kính 2m đột nhiên lộ ra trên bức tường thành, đất đá đổ xuống lấp cái hào rộng 20m như một phép lạ, đại đội 51 tràn qua,theo lỗ hổng đó tràn vào bên trong… Tiếng súng M-16, M-60, M-79 nghe rõ mồn một. Đại đội 52 lập tức xông vào. Binh sĩ nhảy dù đang ruợt bắn địch quân trên tường thành. Mọi thứ diễn ra y như kế hoạch đã định. Chiếc máy bay A-37 đánh 2 trái bom trúng ngay cột cờ, nhưng chiếc Phantom đánh theo màn khói bom vừa bị gío tạt ngang, trúng ngay quân bạn, thế là hai đại đội nhảy dù đang xung phong đã bị tổn thất nặng nề, mất hết sức chiến đấu...

Cuối cùng, các chiến sĩ mũ xanh thuỷ quân lục chiến của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã làm nên lịch sử. Họ đã dựng lại lá cờ vàng của miền Nam Việt Nam trên cổ thành vốn đã đẫm máu của vô số chiến sĩ hy sinh vì chính nghiã tự do và dân chủ cho quê hương của họ.”

Đó là lời của một cựu sĩ quan, thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù, một đơn vị tham gia chiến dịch phản công ở Quảng Trị.

Tất cả những chiến công đó là một phần của lịch sử mà không ai có thể xóa bỏ bởi nó đã được xây dựng bằng xương máu của những người lính Việt Nam Cộng hoà, trong hoàn cảnh hết sức cam go, cả trong lúc có sự tham dự trực tiếp của lực lượng Hoa Kỳ, lẫn khi không còn lực lượng này hỗ trợ.
Tuy nhiên, sang năm 1973, tình hình chiến trường Việt Nam có nhiều thay đổi bất lợi cho phía Việt Nam Cộng hoà. Việt Hà sẽ gởi đến quý thính giả những diễn biến từ năm 1973 đến năm 1975 trên mặt trận quân sự và ngoại giao. Mời quý vị theo dõi trong buổi phát thanh tới.

Quỳnh Như tường trình từ Hoa Thịnh Đốn.

Nguulao@yahoo. com
35 NĂM NHÌN LẠI
CUỘC THẤT TRẬN VÀ PHẢN BỘI ĐỒNG MINH

Luật sư Nguyễn Hữu Thống

10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn "No More Vietnams" xuất bản năm 1985, Tổng Thống Richard Nixon tự phán: "Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đã thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã thua trong hòa bình (We won the war in Vietnam, but we lost the peace)".

Đây là lời nói khôn ngoan nhưng không phản ảnh sự thật.



Đúng lý Nixon phải nói: Chúng ta thắng về quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị, và đã gieo tai họa vô lường cho các quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hãn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v...v....

Do đó Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 chỉ đem lại hòa bình của những nấm mồ (peace of the grave).



Ngày nay mọi người thấy rõ: Kiến trúc sư của thảm cảnh này không phải là ai khác mà là Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của Nixon.

Do những quyền lợi riêng tư cũng như do những cuộc mật đàm, mật ước và hiểu ngầm với Lê Đức Thọ, Kissinger đã đẩy tới việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 với bất cứ giá nào. Đối với ông, Chiến Trường Đông Nam Á đã thu dọn xong với sự tiếp tay của Bắc Kinh. Từ đây đối tượng của ông là Chiến Trường Trung Đông đang cần tiếp viện quân sự và kinh tế. Sau 1975, giới am hiểu cho biết ngân khoản viện trợ hàng năm cho Do Thái (với 4 triệu dân) khoảng 2 tỉ Mỹ kim ngang với số ngân khoản viện trợ cho Việt Nam trước 1973.



Cho tới tháng 1-1973, khi bối thự hiệp ước, bằng xuyên tạc, đe dọa và hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, Kissinger đã thúc đẩy Nixon buộc Miền Nam phải ký Hiệp Định Paris. Cho Hoa Kỳ có lý do rút quân để đòi phóng thích tù binh sau khi đầu hàng trong danh dự. Còn việc quân đội Bắc Việt có triệt thoái khỏi Miền Nam hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc. Về việc này, một mặt Kissinger tin vào những mật ước và cam kết ngầm của Thọ.

Mặt khác còn có lời cam kết của Nixon theo đó Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt, nếu Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, và sẽ sử dụng hỏa lực mạnh nhất như trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Miền Nam, và những vụ oanh tạc Bắc Việt bằng B52 trong cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận Mùa Giáng Sinh 1972.

Sự việc đã không diễn ra như vậy. Ba tháng sau Hiệp Định Paris vụ Watergate bùng nổ. Sau đó Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành Luật ngày 30-6-1973 cấm các lực lượng quân sự Hoa Kỳ không được yểm trợ những cuộc chiến đấu võ trang tại Việt-Miên-Lào. Và tháng 10-1973 Luật về Quyền Lực Chiến Tranh (War Powers Act) đã trói tay vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và buộc Tổng Thống phải tham vấn Quốc Hội trước khi sử dụng quân đội vào những vụ tranh chấp võ trang.

Điều kiện hạn chế này chưa bao giờ lập pháp đặt ra trong thời chiến. Do đó, vì không có toàn quyền hành động và không có ngân khoản, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội không thể phản công kịp thời các bộ đội Bắc Việt xâm nhập quy mô vào Miền Nam, và cũng không thể trả đũa bằng cách tái oanh tạc Bắc Việt như trong mùa Giáng Sinh 1972.

Như vậy, 10 tháng sau Hiệp Định Paris, từ tháng 11-1973 quân xâm lăng Bắc Việt được tự do xâm nhập Miền Nam với sự trợ giúp võ khí đầy đủ của phe Quốc Tế Cộng Sản Trung Sô (1.7 tỷ Mỹ kim năm 1974, gấp đôi thời tiền Hiệp Định Paris.)

Và từ sau vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Liên Sô đã 4 lần viện trợ cho Bắc Việt). Và những lời cam kết của Chu Ân Lai và Brezhnev hứa hẹn sẽ kiềm chế Hà Nội, chỉ là câu đãi bôi, hay đúng hơn một chiến thuật để dối gạt Hoa Kỳ.

Thêm một sự kiện đáng lưu ý: Một năm sau Hiệp Định Paris, vào ngày 11-1-1974, khi Kissinger vừa rời Bắc Kinh, đột nhiên một lần nữa, Trung Quốc công bố chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và một tuần sau, ngày 19-1-1974, họ đem quân xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam.

Về mặt Quốc Tế Công Pháp, Hiệp Định Geneva 1954 đã xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo Điều 4 Hiệp Định, giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc kéo dài từ thềm lục địa "ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam giới tuyến" (Vỹ Tuyến 17). Quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17-15 Bắc (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi), và quần đảo Trường Sa ở phía Nam tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 12-7 Bắc (từ Cam Ranh xuống Cà Mâu). Do đó cả hai quần đảo này đã được Hiệp Ước Quốc Tế nhìn nhận thuộc hải phận của Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Bắc Việt và Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng.



Chiếu Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ là quốc gia chủ xướng, đã triệu tập Hội Nghị, đã ký Hiệp Định, và đã cùng 10 quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, đứng ra bảo lãnh sự thi hành nghiêm chỉnh hiệp định này. Như vậy Hoa Kỳ có nghĩa vụ tiên khởi phải bảo vệ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam chống mọi xâm lăng võ trang bất cứ từ đâu tới.

Vậy mà, ngày 19-1-1974, dầu có mặt tại vùng Biển Hoàng Sa, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đã án binh bất động, không yểm trợ, không can thiệp, không điều giải, và cũng không làm hành vi nhân đạo nào để cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam mắc nạn trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, do Trung Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy, đã bị bắn chìm.

Có lẽ Hải Quân Hoa Kỳ nghĩ rằng họ không có trách nhiệm phải cứu vớt những người sắp chết đuối, kể cả vì lý do nhân đạo. Vì mãi tới tháng 11-1974 Liên Hiệp Quốc mới ban hành Công Ước về việc Cứu Vớt các Nạn Nhân bị Đắm Tàu Trên Mặt Biển. Hơn nữa, từ tháng 6-1973, Quốc Hội Hoa Kỳ đã ban hành đạo luật cấm quân lực Hoa Kỳ không được tham gia hay yểm trợ bất cứ cuộc chiến đấu quân sự nào trên bộ, trên không và trên biển tại bán đảo Đông Dương. Trong thời gian này, từ tháng 4-1973, báo chí phản chiến và phe đối lập đa số tại Quốc Hội đã triệt để khai thác vụ nghe lén Watergate, dẫn đến việc Nixon từ chức vào tháng 8-1974.

Năm 1974, theo 3 ngả tiến quân, từ vùng Phi Quân Sự phía Bắc, Ai Lao và Cao Miên phía Tây, Bắc Việt kéo đại quân xâm nhập Miền Nam. Và tháng 1-1975 đã tiến chiếm nguyên một tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa là Phước Long.

Cuộc tiến chiếm này nhằm trắc nghiệm phản ứng của Hoa Kỳ. Lúc này, từ Tổng Thống chỉ định Gerald Ford, chẳng ai còn nhớ những lời cam kết long trọng của Tổng Thống dân cử Nixon trong hơn 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong những văn thư này, vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ hứa sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, đồng thời phản công tức thời các lực lượng võ trang Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, bằng những võ khí mạnh nhất như Không Đoàn B52.

Sau vụ Phước Long, trong một phiên họp của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản, Lê Duẩn đã giơ hai tay reo lên: "Nó bỏ rồi!"

Và 3 tháng sau, các chiến xa Liên Xô vượt qua hàng rào Dinh Độc Lập báo hiệu sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này, bất chấp Hiệp Định Paris, Bắc Việt đã kéo thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để yểm trợ số hơn 100 ngàn quân đã xâm nhập từ Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. T

ừ đó Hiệp Định Hòa Bình Paris chỉ còn là tờ giấy lộn. Và những điều khoản cam kết hành sử quyền dân tộc tự quyết bằng đường lối hòa bình chỉ là những bánh vẽ do phe chủ chiến Lê Đức Thọ ban phát cho kẻ chủ bại Kissinger.

Chẳng hạn như Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris: "Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do hai Miền Nam, Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận (theo nguyên tắc nhất trí)!"



MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI ĐỂ CÓ MỘT KHOẢNG CÁCH HỢP LÝ



Cuộc "Đại Thắng Mùa Xuân 1975" khó có thể có nếu Hoa Kỳ không nhất định bỏ Miền Nam Việt Nam.



Trong cuộc mật đàm giữa Thủ Tướng Chu Ân Lai và Henry Kissinger ở Đại Sảnh Nhân Dân Bắc Kinh nhân dịp Tổng Thống Richard Nixon công du Trung Quốc và gặp Mao Trạch Đông ngày 21-2-1972, Kissinger nói thẳng với Chu Ân Lai: "Chúng tôi không quan tâm đến việc hủy diệt (Cộng Sản Việt Nam), và ngay cả việc đánh bại nó".

Mỹ đã thỏa thuận với Trung Quốc để Cộng Sản Việt Nam chiếm Miền Nam sau khi Mỹ rút quân một thời gian. Kissinger xác nhận với Chu Ân Lai rằng Mỹ có thể chấp nhận Cộng Sản Miền Bắc chiếm Miền Nam bằng vũ lực, nếu việc này xẩy ra sau khi Mỹ rút quân khỏi đây một thời gian đủ dài để có một khoảng cách hợp lý (decent interval): "Nếu Bắc Việt nghiêm túc đàm phán với Miền Nam, và nếu sau một thời gian đủ dài sau khi chúng tôi đã hoàn toàn không còn dính líu gì (với Miền Nam) nữa, theo suy đoán riêng, tôi tin rằng khó có thể chúng tôi quay trở lại và khó có khả năng việc ấy sẽ xẩy ra".

Kissinger nói rõ hơn: "Nếu chúng tôi có thể chung sống với Chính Phủ Cộng Sản tại Trung Quốc, thì chúng tôi cũng có khả năng chấp nhận một chính quyền Cộng Sản ở Đông Dương". Kissinger trắng trợn nói thẳng: "Hà Nội đã làm gì đến nỗi chúng tôi không thể, trong vòng 10 năm, thiết lập bang giao mới" (The White House, Memorandum of Conversation- Top secret / sensitive-Exclusive eyes only, p.p. 27-29: Cao Thế Dung: Đảng Cộng Sản Việt Nam 2007).



7 tháng trước, trong hai ngày 9 và 10 tháng 7-1971, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai, Kissinger tiết lộ:

"Hoa Kỳ sẽ triệt thoái toàn thể quân lực ra khỏi Việt Nam và sẽ không bao giờ trở lại nếu có những điều khoản về ngừng bắn và trao trả tù binh trong Hiệp Định Paris. Lập trường của Hoa Kỳ là không nhất thiết duy trì một chính phủ đặc biệt nào (như Việt Nam Cộng Hòa) tại Miền Nam Việt Nam. Nếu có một giải pháp chính trị hợp lý phản ánh những tương quan lực lượng chính trị tại Miền Nam thì chúng tôi sẽ tôn trọng giải pháp đó. Nhưng chúng tôi cũng cần có một thời gian hợp lý cho giải pháp này (decent interval solution). Hôm qua Thủ Tướng có đề cập đến việc Bắc Việt sẵn sàng hy sinh hàng triệu người cho công cuộc này. Tôi xin thưa với Thủ Tướng rằng Bắc Việt không cần phải hy sinh thêm 1 triệu người nữa đâu..." (Jeffrey Kimball: The Vietnam War Files, 2004).



MẬT ĐÀM VÀ MẬT ƯỚC



Để chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại Việt Nam, ngày 27-1-1973, các bên tham gia Hội Nghị Paris đã ký một thỏa ước mệnh danh là "Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam". Để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định này, ngoài 4 bên kết ước là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, còn có sự tham dự và bảo lãnh của tứ cường Anh, Nga, Pháp, Hoa và của 4 nước trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát là Ba Lan, Canada, Hung-Gia-Lợi và Nam Dương.

Trong bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam ngày 2-3-1973, ngoài các đại diện của 12 "nước" nói trên, còn có sự hiện diện và chứng minh của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.

Đọc kỹ Hiệp Định Paris 1973, chúng ta sẽ tìm thấy những nguyên nhân sâu xa và tiềm ẩn đưa tới việc Bắc Việt thôn tính Miền Nam 2 năm sau khi Hiệp Định Paris vừa ráo mực. Đây hiển nhiên là một vi phạm cực kỳ thô bạo. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bằng luật rừng xanh.

Nghịch lý cơ sở thứ nhất là việc Hoa Kỳ chấp nhận cho phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tham dự hội nghị và ký tên trong Hiệp Định bằng vai phải vế với Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ, dưới danh nghĩa đại diện "Chính Phủ" Cách Mạng Lâm Thời của "Nước" Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, cũng như các Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng Dân Chủ, Đảng Xã Hội v...v... đã được Đảng Cộng Sản Đông Dương khai sanh vì lý do thời cuộc từ thập niên 1940.

Từ sau 1975, khi Đảng Cộng Sản công khai xuất hiện để lãnh đạo Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các tổ chức ngoại vi nói trên như Đảng Dân Chủ của Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Hoàng Minh Giám, Nghiêm Xuân Yêm, và Đảng Xã Hội của Nguyễn Xiển đã bị giải thể sau khi hoàn thành sứ mạng bày cảnh đa đảng cho Bắc Việt.

Trước đó cùng chung số phận, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ và Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ của Trịnh Đình Thảo cũng đã bị giải thể từ tháng 11-1975 sau khi hoàn thành sứ mạng gây ảo tượng Chiến Tranh Miền Nam là một cuộc nội chiến do chính người Miền Nam phát động, chứ không phải do Bắc Việt đẩy tới. Ngay cả quân lực Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng đã được sát nhập và "thống nhất" với quân lực Bắc Việt từ sau 30-4-1975.

Cho đến tháng 1-1973 khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội vẫn ngoan cố phủ nhận sự tham gia của các binh sĩ Bắc Việt tại chiến trường Miền Nam. Cho đây chỉ là cuộc nội chiến nên không có vấn đề quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam. (North Vietnam refused to withdraw their forces from South Vietnam. They asserted that the conflict was a civil war and refused to acknowledge explicitly that they had any troops in the South. Hanoi therefore rejected our repeated demands for their withdrawal on the grounds that they were not involved in the war: Richard Nixon, sách đã dẫn).



Ngày nay sự thật lịch sử đã chứng minh ngược lại. Từ sau 1975, cũng như các cây kiểng Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội tại Miền Bắc, hai cái bóng ma Mặt Trận Giải Phóng và Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ tại Miền Nam cũng đã bị khai tử và an táng trong Bãi Tha Ma của Lịch Sử với bao oan nghiệt gây ra do những kẻ rước voi về giầy mồ các bậc Tổ Phụ trong Nghĩa Trang Dân Tộc.



Trở lại Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai (1955-1975), tới tháng 12-1972, do cuộc Tập Kích Chiến Lược Mùa Giáng Sinh, Hoa Kỳ đã thắng trong chiến tranh. Nhưng, chỉ một tháng sau, từ tháng 1-1973 với Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ đã thua trong hòa bình. Do những điều kiện khắc nghiệt của tình thế, như áp lực của phe phản chiến, của dân chúng chán ghét chiến tranh, của các cơ quan truyền thông bị dân cố tình sao chép những điều dối trá, bóp méo sự thật do phe Quốc Tế Cộng Sản cung cấp, và của đảng đối lập đa số tại Quốc Hội Hoa Kỳ.



Theo sách lược cố hữu của Cộng Sản, ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước mà chỉ nhằm đạt được những mục tiêu chính trị giai đoạn.

Thủ thuật này đã được áp dụng hữu hiệu trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất (1946-1954) và Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai (1955-1975):

1) Năm 1946, Cộng Sản ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny, nhờ Pháp tống xuất quân đội Trung Hoa để thừa cơ thanh toán các đảng phái quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc như Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v.... Sau đó lại phát động Chiến Tranh Chống Pháp tháng 12 năm đó.

2) Năm 1954, Cộng Sản ký Hiệp Định Đình Chiến Geneva để tống xuất quân đội Pháp và nắm chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động Chiến Tranh Thôn Tính Miền Nam.

3) Năm 1973, Cộng Sản ký Hiệp Định Hòa Bình Paris để tống xuất quân đội Hoa Kỳ. Để sau một khoảng "thời gian hợp lý", lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam, bất chấp lời cam kết chỉ "thực hiện thống nhất Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận, không cưỡng ép, không thôn tính, thời gian thống nhất sẽ do hai Miền đồng thỏa thuận".

Khi xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, Cộng Sản đã hạ nhục hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa và 8 quốc gia khác đã cùng ký Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam ngày 2-3-1973 để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định. Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc hiện diện và chứng minh bản Định Ước cũng mất mặt. Vì Liên Hiệp Quốc đã bị Cộng Sản dùng làm bung sung trong sách lược ru ngủ dư luận quốc tế để tạo thời cơ xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bằng võ lực. Nếu Hoa Kỳ có trách nhiệm pháp lý và đạo lý thì Liên Hiệp Quốc cũng có trách nhiệm tinh thần, vì đã không góp phần vào việc duy trì hòa bình tại Việt Nam và Đông Nam Á.

Và bẽ bàng hơn cả là Ban Tổ Chức Giải Hòa Bình Nobel đã trao giải này cho Lê Đức Thọ là kẻ lưu manh phát động chiến tranh xâm lược và Kissinger là kẻ trí trá đem lại hòa bình của những nấm mồ. Hơn 3 triệu người đã bị sát hại sau 1975 tại Việt Nam và Cam Bốt, và hàng chục triệu người khác đã bị kìm kẹp trong guồng máy độc tài phi nhân, trái với quyền dân tộc tự quyết được quy định trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành.



ĐỀ NGHỊ 10 ĐIỂM CỦA BẮC VIỆT



Ngày 8-5-1969 Tổng Thống Nixon đưa ra Bản Đề Nghị 8 Điểm của Hoa Kỳ nhằm giải quyết Chiến Tranh Việt Nam bằng thương nghị. Ngày hôm sau, 9-5-1969, để giành chính nghĩa, Bắc Việt cũng đưa ra bản đề nghị trong cái gọi là "Kế Hoạch Hòa Bình 10 Điểm". 4 năm sau, ngày 27- 1-1973 khi Hội Nghị Paris kết thúc, toàn bộ kế hoạch của Bắc Việt đã được Hoa Kỳ chấp nhận.



- Điểm 1: Tôn trọng những quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, như độc lập, thống nhất, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, như Hiệp Định Geneva năm 1954 đã công nhận.

- Điểm 2: Hoa Kỳ phải [đơn phương] rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam tất cả quân đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh mà không đòi điều kiện nào; Hoa Kỳ phải hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự ở Miền Nam Việt Nam.

- Điểm 3: Quyền chiến đấu để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ thiêng liêng và bất khả chuyển nhượng của mọi dân tộc.

- Điểm 4: Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự giải quyết lấy những vấn đề nội bộ của họ, không có sự can thiệp của ngoại bang. Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự lựa chọn chế độ chính trị cho Miền Nam Việt Nam qua những cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ; Quốc Hội Lập Hiến sẽ được thành lập để soạn thảo Hiến Pháp, Chính Phủ Liên Hiệp Miền Nam Việt Nam sẽ được thành lập trong tinh thần hòa giải hòa hợp và đại đoàn kết quốc gia.

- Điểm 5: Trong thời gian chuyển tiếp, từ khi tái lập hòa bình đến khi tổ chức tổng tuyển cử, các bên ở Miền Nam không được áp đặt chế độ chính trị của mình cho nhân dân Miền Nam.

Các lực lượng chính trị đại diện các tầng lớp xã hội và các khuynh hướng chính trị ở Miền Nam Việt Nam chủ trương hòa bình, độc lập và trung lập, kể cả những người đang sống ở ngoại quốc vì lý do chính trị, cũng được quyền tham dự vào việc thương nghị để thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời. Chính phủ này phải được đặt trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và tương kính , nhằm xây dựng một Miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và trung lập. Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời có những trách nhiệm sau đây:

- Thi hành những điều khoản đã được thỏa thuận về việc rút quân của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam.

- Thực hiện hòa giải hòa hợp dân tộc và đại đoàn kết quốc gia giữa các tầng lớp xã hội, các lực lượng chính trị và các sắc tộc.

- Tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ trong toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam để thực thi quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam chiếu theo điểm 4 nói trên.

- Thực thi những quyền tự do dân chủ thiết yếu như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội và lập đảng chính trị, tự do biểu tình v...v....

- Phóng thích tất cả những người đang bị giam cầm vì lý do chính trị, cấm mọi hành động khủng bố, trả thù và kỳ thị đối với những người đã cộng tác với các bên, hiện sống ở trong nước hay ở ngoài nước chiếu theo Hiệp Định Geneva 1954.

- Hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi và phát triển kinh tế, bình thường hóa đời sống của nhân dân và cải thiện đời sống của giới lao động.

- Điểm 6: Miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và trung lập (miền Bắc không bị rang buộc bởi điều kiện này):

- Giao hảo với Vương Quốc Cam Bốt trên căn bản tôn trọng độc lập, chủ quyền, trung lập và sự toàn vẹn lãnh thổ và biên giới của quốc gia này; giao hảo với Vương Quốc Lào trên căn bản tôn trọng Nghị Định Thư năm 1962 [bảo đảm nền trung lập của Ai Lao].

- Thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế và văn hóa với tất cả các quốc gia trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, không phân biệt về chính trị và xã hội, theo 5 Nguyên Tắc Sống Chung Hòa Bình [của phe Phi Liên Kết Á Phi từ Hội Nghị Bandung 1955]; cùng tôn trọng nền độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, không gây hấn, không can thiệp vào việc nội bộ, bình đẳng và lưỡng lợi, sống chung hòa bình, nhận viện trợ kinh tế và kỹ thuật của các quốc gia mà không lệ thuộc vào bất cứ điều kiện chính trị nào.

- Điểm 7: Nền thống nhất của Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương thảo và thỏa hiệp giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam không có sự can thiệp của nước ngoài.

-



Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam trong hòa bình:

- Hai miền sẽ tái lập quan hệ ngoại giao trong mọi lãnh vực trên căn bản tương kính.

- Giới Tuyến Quân Sự Tạm Thời giữa hai miền tại Vĩ Tuyến 17 quy định trong Hiệp Định Geneva 1954, chỉ là tạm thời, và không phải là một ranh giới về chính trị hay lãnh thổ.

- Hai miền sẽ ký thỏa ước về quy chế Vùng Phi Quân Sự, và cách thức di chuyển qua Giới Tuyến Quân Sự Tạm Thời.

- Điểm 8: Trong khi chờ đợi sự thống nhất Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, theo quy định của Hiệp Định Geneva 1954, hai Miền Nam Bắc không tham gia bất cứ liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào, không cho phép nước ngoài duy trì căn cứ quân sư, hay trú đóng quân đội và nhân viên quân sự trên đất mình.

- Điểm 9: Để giải quyết vấn đề hậu chiến:

- Các bên sẽ thương thuyết về việc trao trả tù binh của các bên bị bắt giữ trong thời chiến.

- Chính Phủ Hoa Kỳ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tổn thất và tàn phá gây ra cho nhân dân Việt Nam ở cả hai miền.

- Điểm 10: Các bên sẽ đi đến thỏa ước về việc giám sát quốc tế trong việc triệt thoái quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí và vật dụng chiến tranh của Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam (không nói gì đến Bắc Việt).



Đề Nghị 10 Điểm của Bắc Việt hồi tháng 5-1969 tập trung vào 4 chủ đề:



- Chủ Đề I: Các Điểm 1, 3 và 7 coi Việt Nam vẫn là một nước duy nhất và thống nhất với lãnh thổ toàn vẹn. Chủ đề này nhằm xé bỏ Hiệp Định Geneva tháng 7-1954 đã phân chia Việt Nam thành hai quốc gia, Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. (Cũng như hai nước Nam Hàn và Bắc Hàn đã được thành lập do Hiệp Định Bàn Môn Điếm tháng 7-1953 tại Triều Tiên).

- Chủ Đề II: Các Điểm 2, 8 và 10 nói về sự ngừng bắn tại chỗ và sự triệt thoái [đơn phương] của quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh như Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đại Hàn.

- Chủ Đề III: Điểm 9 nói về sự trao trả tù binh dẫn đến việc Hoa Kỳ là kẻ gây chiến phải chịu trách nhiệm bồi thường chiến tranh và tái thiết hai miền Việt Nam.

- Chủ Đề IV: Các Điểm 4, 5 và 6 nói về những vấn đề và giải pháp chính trị tại Miền Nam như tổ chức Tổng Tuyển Cử, soạn thảo Hiến Pháp mới và thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần theo chính sách trung lập như Cao Miên và Ai Lao trong Khối Phi Liên Kết Á-Phi. Chủ đề này nhằm xóa bỏ Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967, giải tán Chính Phủ và giải thể chế độ Việt Nam Cộng Hòa.



4 Chủ Đề nói trên do Bắc Việt đưa ra từ tháng 5-1969 đã được chấp nhận toàn bộ trong 8 Chương của Hiệp Định Paris tháng 1-1973.



- Chủ Đề I: Về Tâm Lý Chiến: Lãnh thổ Việt Nam Thống Nhất

(Các Điểm 1, 3 và 7)



Chủ đề này đòi xác nhận Việt Nam là một quốc gia thống nhất, lãnh thổ toàn vẹn bất khả phân (Điểm 1)



Giới Tuyến Quân Sự tại Vĩ Tuyến 17 quy định trong Hiệp Định Geneva 1954 không có giá trị là một ranh giới chính trị hay biên thùy lãnh thổ (Điểm 7)

Như vậy bất cứ người dân Việt Nam nào cũng có quyền đi lại trong lãnh thổ thống nhất của Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau) để chiến đấu bảo vệ tổ quốc chống ngoại xâm dưới bất cứ hình thức nào (Điểm 3)

Đây thực ra chỉ là một sách lược của Bắc Việt nhằm xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954.



Vì, như đã trình bày:

"Giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam Bắc kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Lực lượng Liên Hiệp Pháp phải rút khỏi tất cả các hải đảo ven bờ biển thuộc phía Bắc giới tuyến (Vỹ Tuyến 17). Và quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam". (Điều 4 Hiệp Định Geneva 1954).



Lẽ tất nhiên, nếu có giới tuyến cho miền lãnh hải thì cũng phải có giới tuyến cho vùng lãnh thổ (Vỹ Tuyền 17). Giới tuyến này có hiệu lực trong 21 năm tại Việt Nam (1954-1975). Nó vẫn còn có hiệu lực trên 55 năm tại Triều Tiên (từ 1953 cho đến nay).

Về mặt tâm lý chiến, Hồ Chí Minh hằng tuyên bố: "Quyền chiến đấu để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng". Vì vậy Bắc Việt không bao giờ chấp nhận rút quân khỏi Miền Nam và đã kết án Hoa Kỳ là kẻ gây chiến phải chịu trách nhiệm bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến. Điều này đã được mặc nhiên chấp thuận trong Chương VIII Hiệp Định Paris theo đó "Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết Bắc Việt và Đông Dương sau chiến tranh" (Điều 21)



Chủ Đề I đã được Hiệp Định Paris chấp nhận trong Điều 1 Chương I và Điều 15 Chương V (mỗi chương chỉ có một điều).

Điều 1: "Hoa Kỳ và các nước khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền,sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp Định Geneva 1954 về Việt Nam đã công nhận".

Điều 15: (a)"Trong khi chờ đợi thống nhất: Giới Tuyến Quân Sự giữa hai miền tại Vĩ Tuyến 17 không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ như quy định trong đoạn 6 của Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva năm 1954".

Chủ Đề I của Đề Nghị Bắc Việt nhằm xóa bỏ tư cách pháp nhân của Việt Nam Cộng Hòa, xóa bỏ Hiệp Định Geneva, xóa bỏ Giới Tuyến Quân Sự là Vỹ Tuyến 17 cũng như vùng Phi Quân Sự 10 cây số. Đó là nghịch lý cơ sở thứ hai.

Đề nghị này có tác dụng không ngăn cản những cuộc di chuyển của các cán binh Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, nói là để chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chống Hoa Kỳ là kẻ xâm lược hay kẻ can thiệp.

Về mặt pháp lý, sau khi Hiệp Định Geneva được ký ngày 20-7-1954, qua hôm sau, 21-7-1954, Hội Nghị công bố bản Tuyên Ngôn Sau Cùng, khuyến cáo hai bên tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam vào tháng 7-1956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước nên không có giá trị pháp lý. Hơn nữa Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954 không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, kể cả Bắc Việt và Quốc Gia Việt Nam, nên không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực ràng buộc Việt Nam Cộng Hòa.

Theo Công Pháp Quốc Tế, từ 1954 Việt Nam không còn là một quốc gia thống nhất vì lãnh thổ đã bị phân qua tại Vĩ Tuyến 17. Từ đó tại Việt Nam có hai quốc gia, hai chính phủ, hai quân đội và hai miền lãnh thổ. Cũng như tại Triều Tiên sau Hiệp Định Bàn Môn Điếm từ 55 năm nay. Như vậy, năm 1973 nói đến một nước Việt Nam thống nhất chỉ là tuyên truyền vọng tưởng chứ không phải là hiện thực.



Chính Hiệp Định Geneva 1954 cũng xác nhận điều đó:



1) Điều 14 đề cập đến giải pháp chính trị cho Việt Nam có ghi: "Trong khi chờ đợi Tổng Tuyển Cử để thống nhất nước Việt Nam, bên nào có quân đội tập hợp ở vùng nào thì sẽ phụ trách quản trị hành chánh ở vùng đó". Vì chưa có tổng tuyển cử nên chưa có thống nhất.

2) Điều 24: "Các lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng vùng phi quân sự và lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát của bên kia". Vì có hai quốc gia nên có hai lãnh thổ. Và giới tuyến quân sự (Vỹ Tuyến 17) là biên giới của hai nước Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếu Hiệp Định Geneva 1954.

3) Điều 6: "Bất cứ người nào, quân nhân hay thường dân, đều không được vượt qua giới tuyến quân sự tạm thời nếu không có giấy phép của Ban Liên Hợp".

4) Điều 7: "Bất cứ người nào, quân nhân hay thường dân, đều không được vào khu phi quân sự nếu không có giấy phép của Ban Liên Hợp."



Như vậy ngày nào Hiệp Định Geneva còn có hiệu lực thì Việt Nam không phải là một quốc gia thống nhất như bản Đề Nghị của Bắc Việt đã khẳng định trong Chủ Đề I.

Mặc dầu vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tuyên bố rằng quyền chiến đấu chống xâm lăng để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ thiêng liêng. Đó chỉ là một quan điểm chủ quan. Vả lại sự thật lịch sử cho biết, tại Miền Nam Việt Nam, không phải Hoa Kỳ, Bắc Việt mới chính là kẻ xâm lăng.



Do chính sách giảo hoạt của người Cộng Sản và sự ngây thơ của chính giới Hoa Kỳ và dã tâm của Kissinger muốn bỏ rơi Việt Nam, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Hiệp Định Paris 1973 đã chấp nhận Chủ Đề I của Bắc Việt và chấp nhận quan điểm của Bắc Việt theo đó Việt Nam là một quốc gia đã thống nhất. Trên mặt trận tâm lý, Hoa Kỳ đã thua Bắc Việt. Tâm lý ảnh hưởng đến pháp lý và thực tế.



- Chủ Đề II: Về mặt Quân Sự: Ngừng Bắn, Rút Quân, Căn Cứ Quân Sự, Liên Minh Quân Sự .

(Các Điểm 2, 8 và 10 của Đề Nghị Bắc Việt)



Các Điểm 2 và 8 trong Đề Nghị Bắc Việt đòi Hoa Kỳ phải [đơn phương] rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam kể cả các quân đội của các quốc gia đồng minh như Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đại Hàn.

Đồng thời, hai Miền Nam Bắc phải hủy bỏ các căn cứ quân sự và không tham gia vào các liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào.

Điểm 10 nói về việc thành lập cơ quan kiểm soát quốc tế để giám sát sự triệt thoái của các quân lực Hoa Kỳ và đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam.

Những Đề Nghị này đã được chấp thuận trong Hiệp Định Paris 1973 nơi Chương II nói về sự ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo 24 giờ sau ngày ký Hiệp Định.

Điều 2: "Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp Miền Nam Việt Nam kể từ 24 giờ ngày 27-1-1973".



Điều 3 nói về nguyên tắc Ngừng Bắn Tại Chỗ hay Ngừng Bắn Da Beo: "Bắt đầu từ khi ngừng bắn:



a.Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân.



b.Các lực lượng vũ trang của hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình." (không phải rút quân).



Điều 5: "Sự rút quân của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh phải được hoàn thành trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp Định".



Điều 6 nói về sự hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam.



Và Chương VI Hiệp Định Paris quy định việc thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự:



(Điều 16), Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát

(Điều 18), đặc biệt là Hội Nghị Quốc Tế (của 12 nước) về Việt Nam: gồm có bốn bên kết ước, tứ cường Anh, Pháp, Nga, Hoa và bốn quốc gia giám sát là Ba Lan, Canada, Hung Gia Lợi và Nam Dương. Ngoài ra còn có sự hiện diện và chứng minh của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.

(Điều 19). Ngày 2-3-1973, 12 "nước" đã ký bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973.



Khách quan mà xét đây chỉ là những tổ chức hay cơ quan kiểm soát và giám sát trang trí, hữu danh vô thực. Đó là liều thuốc an thần trấn an dư luận cho Hoa Kỳ triệt thoái quân đội khỏi Miền Nam. Lý do dễ hiểu là các cơ quan kiểm soát này chỉ có thể lập phúc trình và quyết định theo nguyên tắc nhất trí. Vì cần có nhất trí nên thành bất động. Trong các Ban Liên Hợp Quân Sự cũng như trong Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát không bao giờ đạt được nhất trí. Vì có hai thành phần thường xuyên đối kháng nhau.



Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát gồm đại diện hai nước Cộng Sản Ba Lan và Hung Gia Lợi, một nước trung lập (Nam Dương) và một nước thuộc phe dân chủ (Canada). Không bao giờ Ủy Ban có sự nhất trí, ngoại trừ bản phúc trình duy nhất mang bốn chữ ký xác nhận Sa Huỳnh thuộc vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng 1-1973. Sau vụ này đại diện Ba Lan bị cách chức. Hơn nữa ngày 7-4-1973 quân đội Bắc Việt đã bắn hạ hai trực thăng của Ủy Ban tại Ban Mê Thuột đưa đến sự từ chức của phái bộ Canada.



Từ đó Bắc Việt được tự do hoành hành. Họ đã vi phạm Hiệp Định Paris hơn 2 ngàn lần năm 1973 so với khoảng 1 ngàn vụ vi phạm năm 1972. Đó là sách lược Vừa Đánh Vừa Đàm áp dụng từ Chiến Tranh Triều Tiên đầu thập niên 1950. Tại Việt Nam chính sách này được mệnh danh là "Giành Dân Lấn Đất". Ngay cả những vụ vi phạm thô bạo nhất của Bắc Việt như những vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Ban Mê Thuột tháng 3-1975 và Đà Nẵng tháng 4-1975 cũng không thấy Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát lập phúc trình!



Đặc biệt là theo Đề Nghị Bắc Việt và Điều 3 Hiệp Định Paris, sự ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo cho phép các lực lượng đối nghịch (kể cả Bắc Việt) được giữ nguyên vị trí của mình. Và như vậy đã mặc nhiên cho phép quân Bắc Việt được tiếp tục đồn trú trên lãnh thổ Miền Nam. Đó là nghịch lý cơ sở thứ ba.



Về khoản rút quân, Hiệp Định Paris chỉ nói về sự triệt thoái đơn phương của các quân lực Hoa Kỳ và đồng minh. Trong khi đó không có điều khoản nào buộc quân đội và cán bộ Bắc Việt xâm nhập Miền Nam phải triệt thoái ra khỏi Vỹ Tuyến 17 như Hiệp Định Geneva 1954 đã quy định. (Trong thời gian hòa đàm 1954, Bắc Việt đã bác bỏ đề nghị ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo tại hai miền Nam Bắc).



Theo Hiệp Định Geneva 1954, hai bên phải tập kết và rút quân ra khỏi giới tuyến quân sự tạm thời (Vỹ Tuyến 17). Quân đội Bắc Việt phải rút về phía Bắc giới tuyến, và quân đội Quốc Gia Việt Nam và quân đội Liên Hiệp Pháp phải rút về phía Nam giới tuyến. Sự rút quân song phương đã được tiến hành theo trình tự như sau:



1.Về phía Bắc Việt: Khu Đồng Tháp Mười trong thời hạn 100 ngày, khu Mũi Cà Mâu 200 ngày và đợt chót ở Trung Phần 300 ngày.



2.Về phía Quốc Gia Việt Nam và Liên Hiệp Pháp: 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày tại Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng.



Trong thời gian tập kết 300 ngày, gần 1 triệu đồng bào Miền Bắc đã bỏ phiếu bằng chân khi rời bỏ Miền Bắc vào Nam tìm Tự Do.



Chủ Đề III: Về Mặt Nhân Đạo và Tái Thiết: Phóng Thích



Tù Binh Và Bồi Thường Chiến Tranh



(Điểm 9 Đề Nghị Bắc Việt)



Chương III (Điều 8) và Chương VIII (Điều 21) Hiệp Định Paris đề cập đến việc trao trả tù binh, bồi thường chiến tranh và tái thiết Đông Dương. Đây chỉ là sự sao chép đề nghị và quan điểm của Bắc Việt theo đó Hoa Kỳ là kẻ gây chiến nên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tổn thất và tàn phá gây ra cho nhân dân Việt Nam.



Và Điểm 9 Đề Nghị Bắc Việt ngụ ý nói, nếu muốn đòi thả tù binh, phải bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến. Hoa Kỳ đã ưng chịu tuân hành khi ký Hiệp Định.





Chủ Đề IV: Về mặt Chính Trị: Những Vấn Đề và Giải Pháp



(Các Điểm 4, 5, 6 của Đề Nghị Bắc Việt)



Chủ Đề này đề cập đến những giải pháp chính trị sẽ được áp dụng tại Miền Nam Việt Nam khi Hiệp Định Paris được ký kết và thi hành.



Điểm 4 Bản Đề Nghị Bắc Việt đòi quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Miền Nam (nhân dân Miền Bắc không được hưởng quyền này), được lựa chọn chế độ chính trị thông qua Tổng Tuyển Cử để soạn thảo Hiến Pháp Mới, tiến tới việc thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp theo Chế Độ Trung Lập chiếu 5 Nguyên Tắc Sống Chung Hòa Bình của Hội Nghị Bandung 1955 và của phe Phi Liên Kết Á Phi.



Như vậy Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị giải thể, Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị hủy bỏ để thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 thành phần ngang nhau: Cộng Sản, Trung Lập thiên cộng và Cộng Hòa. Từ nay trong tương quan lực lượng, phe Cộng Hòa chỉ còn 1/3 tại Miền Nam và 1/6 tại Việt Nam. Vả lại sự phân quyền này không căn cứ vào những tương quan chính trị và xã hội. Trên thực tế Cộng Sản chỉ kiểm soát được chừng 10% dân chúng. Phe trung lập thiên cộng chỉ là "mấy anh phiêu lưu chính trị và tập sự chính trị vô tích sự hay phê bình vung vít" (Đại Sứ Jean Marie Merillon. Đến đầu năm 1975 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn kiểm soát trên 85% dân chúng Miền Nam Việt Nam.



Do đó sự thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 thành phần ngang nhau là bất công. Đây chỉ là một kế hoạch thôn tính Miền Nam bằng đường lối hòa bình.



Dầu sao, đối với Bắc Việt, đó vẫn là hạ sách.



Mục tiêu chủ yếu của họ là, với hơn 100 ngàn quân đồn trú sẵn tại Miền Nam cộng với số quân xâm nhập năm 1975 chừng 250 ngàn, khi điều kiện cho phép, họ sẽ xâm chiếm Miền Nam bằng võ lực. Cơ hội ngàn năm một thuở của Bắc Việt là sự vướng mắc của Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate (từ tháng 4-1973 đến tháng 8-1974). Thêm vào đó là chủ trương của Hoa Kỳ muốn triệt thoái toàn bộ quân lực ra khỏi Việt Nam để đòi phóng thích tù binh sau khi ngừng bắn. Kể từ tháng 6-1973 Quốc Hội không còn cấp ngân khoản cho quân lực Hoa Kỳ chiến đấu tại Đông Dương. Và Luật về Quyền Lực Chiến Tranh tháng 10-1973 đã trói tay hành động của Hành Pháp vốn là cơ quan hành động.



Vì không còn lo sợ bị oanh tạc, hàng chục sư đoàn chính quy Bắc Việt, với sự yểm trợ tối đa của Liên Xô và Trung Quốc, đã công khai di chuyển từ các căn cứ tại Ai Lao, Cao Miên và Bắc Việt vào chiến trường Miền Nam từ tháng 11-1973, nhất là từ tháng 8-1974 khi Nixon từ chức.



Như đã trình bày, 3 nghịch lý cơ sở là:



1)Theo Hiệp Định Geneva 1954, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có hai quốc gia là Việt Nam Cộng Hòa tại Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Miền Bắc. Vì lãnh thổ quốc gia đã bị chia cắt nên không còn thống nhất (Quốc Gia Việt Nam không ký Hiệp Định Geneva 1954 nên không chịu trách nhiệm về sự phân qua lãnh thổ).

2)Về mặt quân sự chỉ thấy ghi sự triệt thoái đơn phương của Hoa Kỳ và Đồng Minh và không lý vấn gì đến sự hiện diện của hàng trăm ngàn binh sĩ Bắc Việt xâm nhập Miền Nam từ 1972.

3)Hơn nữa, về mặt chính trị và pháp lý, trong lãnh thổ Việt Nam chỉ có hai nước và không thể có một nước thứ ba mệnh danh là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN).



Kế hoạch "3 Nước Việt" đã được Trung Quốc và Bắc Việt đề ra để giăng bẫy Hoa Kỳ. Chu Ân Lai đã du mị Kissinger bằng cách hứa hẹn dùng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam làm quốc gia trung lập trái độn giữa Bắc và Nam Việt. Bắc Kinh còn tiết lộ họ đã ký với Giải Phóng Miền Nam một Hiệp Ước An Ninh Hỗ Tương theo đó "mọi vi phạm chủ quyền của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sẽ được coi như vi phạm chủ quyền của Trung Quốc".

Và sau vụ thành lập "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" (CPCMLT) còn có vụ đổi tên từ Xa Lộ Đông Trường Sơn (hay Đường Mòn Hồ Chí Minh) thành Quốc Lộ 1 Kép; Quốc Lộ 19 Pleiku-Qui Nhơn thành Quốc Lộ 2; và Quốc Lộ 21 Ban Mê Thuột-Nha Trang thành Quốc Lộ 3 trong một quốc gia mới được Trung Quốc khai sinh và nuôi dưỡng. CHMNVN sẽ đặt thủ đô tại Tây Nguyên. Và đến ngày trình diện, các phái đoàn của 80 nước, dẫn đầu là Trung Quốc, sẽ đổ bộ từ Đông Hà xuống Tây Nguyên bằng Xa Lộ Đông Trường Sơn hay Quốc Lộ 1 Kép để thừa nhận CPCMLT.

Về mặt quốc tế công pháp, trong một quốc gia không thể có hai nước. Điều này đi trái với Hiệp Định Geneva 1954 quy định thành lập hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) (cũng như hai quốc gia Nam Hàn và Bắc Hàn theo Hiệp Định Bàn Môn Điếm 1953).

Do đó ngày nào Hiệp Định Geneva còn có hiệu lực (như Hiệp Định Bàn Môn Điếm) thì không thể có hai nước Việt tại Miền Nam, với hai chính phủ, hai quân đội, hai vùng lãnh thổ, hai loại cư dân, kể cả hai loại công an cảnh sát (như Điều 6 Nghị Định Thư Về Ngừng Bắn trong Hiệp Định Paris 1973 đã ám chỉ).

Từ 1969, do áp lực của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa đã phải nhìn nhận "thực thể Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam" như kẻ đối thoại chính thức. Dầu rằng trước đó, cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968 đã hoàn toàn thất bại về chính trị cũng như về quân sự.

Cộng Sản dối gạt các cán binh rằng vào Nam chỉ để tiếp thu và sẽ có tổng khởi nghĩa của nhân dân Miền Nam. Thật ra cuộc đồng khởi chính trị không được ai hưởng ứng. Theo báo cáo của thủ trưởng Tỉnh Định Tường (một thanh niên chưa tới 20 tuổi) thì ngày Tổng Khởi Nghĩa sẽ có 50 tổ đồng khởi. Vậy mà tới ngày đó, chỉ có một tổ của thủ trưởng mà thôi, "không thấy 49 tổ kia đâu hết!".

Nhận định về sai biệt này, về mặt chính trị Hồ Chí Minh đúc kết: "Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại vì báo cáo chủ quan". (Tỷ lệ phóng đại là 98%).

Về mặt quân sự, cũng theo Hồ Chí Minh: "Cuộc Tổng Công Kích thất bại vì hạ tầng cơ sở du kích tan rã" do Chiến Dịch Lùng và Diệt Địch phát động từ 1965. Nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đã bị tiêu diệt, có những đơn vị đi 2000 người mà sau một đêm chỉ còn có 30. (Tỷ lệ tổn thất cũng là 98%):



Mậu Thân, hai ngàn người xuống đồng bằng,

Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi.

(Chế Lan Viên)



Như vậy khi Hội Nghị Paris khởi diễn tháng 5-1968, theo cán cân chính trị và quân sự, đáng lý Việt Nam Cộng Hòa phải ngồi vào ghế thượng phong ngang hàng với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chứ không thể chấp nhận cho cái bóng ma Mặt Trận Giải Phóng được sắm vai "nước thứ tư" tại Hội Nghị. Do những nhượng bộ quá đáng của Hoa Kỳ, trên thực tế Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đại diện cho 1/3 nhân dân Việt Nam, trong thế giả tạo chia 3 Nước Việt do Trung Quốc đề ra để du mị Hoa Kỳ. Thời gian này báo chí Hoa Kỳ phản chiến cố tình phân biệt giả tạo giữa Việt Cộng (Miền Nam) với Cộng Sản Bắc Việt.

Từ 1949 khi Quốc Gia Việt Nam được thành lập do Hiệp Định Elysée, chỉ có một chính phủ hợp pháp do Quốc Trưởng Bảo Đại ủy nhiệm. Và từ 1956 dưới chính thể Cộng Hòa, Miền Nam Việt Nam vẫn chỉ có một chính phủ dân cử được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao.



Cuối tháng 12-1960, để giàn dựng cuộc "nội chiến", Đảng Cộng Sản đã thành lập một tổ chức ngoại vi mệnh danh là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Và tới tháng 6-1969, tại Hội Nghị Paris, họ còn khai sanh cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Nước Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Như vậy, về pháp lý và chính trị, Việt Nam Cộng Hòa bị thu hẹp còn 1/4 lực lượng tại Việt Nam, ngang với CHMNVN.

Trở lại cuộc hòa đàm, Chủ Đề IV của Bắc Việt về những vấn đề chính trị tại Miền Nam đã được chấp nhận toàn bộ bởi Điều 9, Điều 12 và Điều 11 Hiệp Định Paris 1973:



- Điều 9: "Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định về tương lai chính trị cho Miền Nam thông qua tổng tuyển cử tự do dưới sự giám sát của các cơ quan quốc tế".

- Điều 12:"Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc 3 thành phần ngang nhau. Trong vòng 3 tháng hai bên sẽ ký một hiệp định về các vấn đề nội bộ của Miền Nam Việt Nam. Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do có giám sát quốc tế".

- Điều 11:"Ngay sau khi ngừng chiến, hai bên Miền Nam sẽ đảm bảo những quyền tự do dân chủ của nhân dân, như tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hoạt động chính trị [lập đảng], tự do tín ngưỡng, tự do di chuyển, tự do cư ngụ, tôn trọng quyền tư hữu, và quyền tự do kinh doanh".



Và như vậy Đảng Cộng Sản sẽ được công khai hoạt động trái với Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.

Với sự xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954, sự thừa nhận nhà nước và chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, với điều khoản mặc nhiên cho phép quân Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam, với sự rút quân đơn phương của Hoa Kỳ và đồng minh, với sự cắt viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa sau Hiệp Định Paris, đặc biệt là với việc Hoa Kỳ bội ước không tôn trọng lời cam kết của Tổng Thống Nixon trong 30 văn thư gửi Tổng Thống Thiệu hứa sẽ trả đũa quyết liệt bằng những võ khí mạnh nhất (như không đoàn B52) trong trường hợp Bắc Việt tấn công võ trang quy mô vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, Nixon thú nhận rằng: "Hoa Kỳ đã phản bội Đồng Minh và đã thất bại trong việc thực thi những điều cam kết bảo vệ Độc Lập và Tự Do của Việt Nam Cộng Hòa.



Đây là sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong lịch sử Hoa Kỳ". (An unprecedented example of American betrayal and failure: Nixon, No More Vietnams).

Trong cuốn sách này, Nixon viết: "Mặc dầu chúng tôi không chấp nhận tính chính thống của quân đội Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam, nhưng cho đến tháng 10-1972, chúng tôi vẫn không thể làm lay chuyển lập trường bất di bất dịch của Bắc Việt. Họ nhất quyết không chịu rút quân khỏi Miền Nam và chủ trương rằng Chiến Tranh Việt Nam chỉ là một cuộc nội chiến của hai phe Miền Nam. Họ khẳng định không có cán binh Bắc Việt nào xâm nhập Miền Nam. Và nhất quyết bác bỏ yêu cầu của chúng tôi đòi Bắc Việt phải rút quân, lý sự rằng họ không tham gia vào cuộc nội chiến tại Miền Nam".



Chúng ta chỉ hỏi ông Nixon: Nếu không tham chiến, sao phải nghị hòa?.



Với sự du mỵ bằng những "cam kết ngầm" của Bắc Việt, Kissinger đã thúc đẩy Hoa Kỳ nhắm mắt chấp nhận các điều kiện của Bắc Việt. Và cả Chương II Hiệp Định Paris đã không viết một câu nào về việc quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam như trong Hiệp Định Đình Chiến Geneva 1954. Sau khi Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 được công bố, một nhân viên phái đoàn Bắc Việt trắng trợn tuyên bố với báo chí: "Khác với thời Hiệp Định Đình Chiến Geneva 1954, lần này, theo Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, chúng tôi không phải rút quân khỏi Miền Nam".



Mặt khác, trong Đề Nghị 8 Điểm của Nixon ngày 8-5-1969 (một ngày trước Kế Hoạch 10 Điểm của Bắc Việt), như đã được công bố trên các đài truyền hình quốc gia, lập trường không thay đổi của Hoa Kỳ là đòi có sự triệt thoái song phương của cả quân lực Hoa Kỳ và quân lực Bắc Việt (a mutual withdrawal of American and North Vietnamese forces).

Sau đó, ngày 16-7-1969, Nixon còn nhờ Sainteny chuyển văn thư cho Hồ Chí Minh yêu cầu Bắc Việt chấp nhận giải pháp triệt thoái song phương để cuộc hòa đàm được tiếp diễn trở lại. Trong văn thư phúc đáp nhận được ngày 25-8-1969 (8 ngày trước khi từ giã cõi trần), họ Hồ lạnh lùng bác bỏ đề nghị của Nixon và nhắc lại điều kiện buộc Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân khỏi Miền Nam và lật đổ Chính Phủ Nguyễn Văn Thiệu.

Từ đó Bắc Việt không còn đếm xỉa đến Hiệp Định Geneva 1954, chủ trương rằng hai miền Nam, Bắc vẫn thuộc về một nước Việt Nam thống nhất. Và nghĩa vụ thiêng liêng của bất cứ con dân nào trên đất Việt là phải đấu tranh để đánh đuổi kẻ ngoại xâm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. (Chúng ta cần nhắc lại rằng: Tại Miền Nam, không phải Hoa Kỳ, Bắc Việt mới chính là kẻ xâm lăng).



Như đã trình bày, sau vụ Mậu Thân, từ tháng 5-1968, trong cuộc hòa đàm tay đôi tại Paris chỉ có hai đại diện Hoa Kỳ và Bắc Việt tham dự là Harriman và Xuân Thủy. Sự việc này cho phép Bắc Việt tuyên truyền rằng Việt Nam Cộng Hòa chỉ là chư hầu của Đế Quốc Mỹ.



Sự thật chiến trường đã chứng minh ngược lại. Kể từ tháng 4-1972, khi Bắc Việt huy động hơn 200 ngàn quân trong Chiến Dịch Tổng Tấn Công Xuân Hè hay Mùa Hè Đỏ Lửa (Easter Offensive), tới tháng 10-1972 khi Chiến Dịch tàn lụi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy lui 14 sư đoàn chính quy Bắc Việt, dầu rằng lúc này quân lực Hoa Kỳ không còn tham chiến trên bộ nữa. Và số thương vong của Bắc Việt đã vượt quá 100 ngàn.



(In the Spring Offensive of 1972 South Vietnam's army had held off the North Vietnamese onslaught without the assistance of any American ground combat troops: Nixon, sách đã dẫn). Từ tháng 2-1968 (Tết Mậu Thân) đến tháng 10-1972 (sau Mùa Hè Đỏ Lửa), "Bắc Việt đã thực sự thua trận, nhưng họ làm ra vẻ như thắng trận, trong khi Việt Nam Cộng Hòa đã thực sự thắng trận". (North Vietnam, which had in effect lost the war, was acting as if had won, while South Vietnam had effectively won the war: Nixon, sách đã dẫn).

Đến Mùa Giáng Sinh 1972, sau cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm của Không Lực Hoa Kỳ tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận (từ 18-12 đến 30-12, trừ Ngày Giáng Sinh), Bắc Việt đã hoàn toàn kiệt quệ. Tại Hà Nội và các thị trấn phụ cận như Hải Phòng, tin trong nước cho biết, nhà nào cũng may cờ trắng đầu hàng để sẵn sàng nghênh đón các chiến sĩ Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc. Lúc này Lê Duẩn và Bộ Chính Trị Cộng Sản đã có kế hoạch rút ra khu. Theo các giới am hiểu, nếu Hoa Kỳ tiếp tục dội bom thêm một vài tuần nữa, thì Bắc Việt sẽ phải nhượng bộ.



Trong điều kiện đó, Hiệp Định Hòa Bình chắc chắn sẽ ghi khoản quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam. (Cũng như quân Bắc Hàn phải rút về Miền Bắc sau Hiệp Định Bàn Môn Điếm tháng 7-1953). Thế nhưng trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai hồi tháng 2-1972, Kissinger bộc lộ rằng Hoa Kỳ không chủ trương đánh bại Bắc Việt. Chỉ muốn 3 điều là ngưng chiến, rút quân và trao đổi tù binh.



Vì vậy, mặc dầu Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh bại Bắc Việt từ tháng 4-1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa) đến mùa Giáng Sinh tháng 12-1972 (Tập Kích Chiến Lược), chỉ 4 tuần sau, đang trên đà chiến thắng, không hiểu tại sao Kissinger lại lật ngược thế cờ để cúi đầu bối thự (ký tắt) Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 và chấp nhận toàn bộ Kế Hoạch 10 Điểm của Bắc Việt. Đây đúng là một sự đầu hàng ô nhục về chính trị và ngoại giao, nhất là khi Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đang nắm thế thượng phong.



Chuyển thắng thành bại là biệt tài của Kissinger. Chính Nixon cũng phải ngậm ngùi than: "Chúng ta đã thắng trong chiến tranh nhưng lại thua trong hòa bình" (Nixon, sách đã dẫn).



Thật ra, trước khi thua trong hòa bình, Mỹ đã thua trong hòa đàm.



Ngày nay mọi người ý thức rằng, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh tháng 2-1972, Kissinger thổ lộ rằng Hoa Kỳ không quan tâm đến việc đánh Bắc Việt. Ông còn dã tâm chấp nhận cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam Việt Nam và Miên Lào bằng võ lực sau một thời gian "hợp lý" kể từ khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.

Ông chỉ muốn ký một Hiệp Ước Hòa Bình tại Việt Nam để rút quân và xin lại tù binh. Còn số phận của hàng chục triệu người Đông Dương đồng minh của Hoa Kỳ, ông không lý vấn đến! Sau khi ký tắt Hiệp Định Paris tháng 1-1973, trả lời câu hỏi của Ehrlichman,Phụ Tá Nội Vụ của Nixon, Kissinger ước tính chỉ trong vòng 18 tháng Miền Nam Việt Nam sẽ bị Miền Bắc thôn tính. (John Ehrlichman: Witness to Power, the Nixon years). Chắc ông chưa mãn nguyện vì mãi 27 tháng sau Saigon mới thất thủ.



Tháng 4-1975 sau khi mất Đà Nẵng, Tướng Weyand Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ lập phúc trình đề nghị Tổng Thống Ford yêu cầu Quốc Hội viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam Cộng Hòa 700 triệu Mỹ kim để kịp thời trả đũa quân Bắc Việt xâm lăng vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Paris. Với số ngân khoản này Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa có thể phản công và oanh tạc từng sư đoàn chính quy Bắc Việt xâm nhập Miền Nam bất hợp pháp từ các trận chiến Phước Long tháng 1, Ban Mê Thuột tháng 3, và Đà Nẵng tháng 4-1975.



Trước kia, cho đến Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa tháng 4-1972, quân đội Bắc Việt không dám tập trung đến cấp trung đoàn vì sợ làm mồi cho các phi đội B52. Ngay cả sau khi chiếm quận Kiến Đức tháng 11-1973, 3 sư đoàn Bắc Việt tại miền 3 Biên Giới là các Công Trường 5-7-9 đã được lệnh rút về Miên Lào không được tiến chiếm tỉnh Quảng Đức. Lúc này Hoa Kỳ muốn nhường Quảng Đức cho Giải Phóng Miền Nam lập thủ đô trong :Kế Hoạch 3 Nước Việt", dùng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam làm quốc gia trái độn trung lập giữa Bắc Việt và Nam Việt.



Tuy nhiên Cộng Sản đã không tiến chiếm Quảng Đức. Vì hai lý do:



1.Hà Nội không cho phép Mặt Trận Giải Phóng lập thủ đô "quá sâu trong lòng địch", "thủ đô" Đông Hà tại Vĩ Tuyến 17 dễ kiểm soát hơn.

2.Rút kinh nghiệm Triều Tiên, Hà Nội sợ mắc mưu Hoa Kỳ như trong những phi vụ phản kích các sư đoàn Bắc Hàn và Trung Quốc xâm nhập Nam Hàn.



Với sự ban hành Luật về Quyền Lực Chiến Tranh của Quốc Hội Hoa Kỳ tháng 10-1973, Bắc Việt yên trí rằng từ đó Hoa Kỳ sẽ không trả đũa như trong Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa từ tháng 4-1972 tại Miền Nam, hay trong cuộc Tập Kích Chiến Lược tháng 12-1972 tại Miền Bắc. Đặc biệt sau khi Nixon từ chức vào tháng 8-1974, từ cuối năm 1974 quân đội Bắc Việt đã ngang nhiên tập trung đến cấp sư đoàn. Do sự khinh thị này, Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ rất có thể lấy lại thế quân bình sau những trận oanh tạc quy mô tại Quân Khu I và Tây Nguyên.



Tuy nhiên Kissinger đã can gián Tổng Thống Ford rằng chiến dịch tập kích sẽ gặp phản kháng của quần chúng xuống đường, và sẽ gây hậu quả bất lợi cho cuộc bầu cử tổng thống năm 1976. Rút cuộc đơn xin viện trợ khẩn cấp 700 triệu của Tướng Weyand đã bị xếp bỏ. Lúc này Kissinger còn trắng trợn nguyền rủa đồng minh: "Sao bọn họ không chết sớm đi cho rồi!. Tệ hại nhất là bọn họ cứ sống dai dẳng mãi!". (The Palace File: Nguyen Tien Hung and Jerrold Schecter trích dẫn Ron Nessen: It Sure Looks Different from the Inside).



Đây rõ rệt là sự vụng tính và bất công của Hoa Kỳ. Trước đó, ngày 6-10-1973, Hoa Kỳ đã tích cực yểm trợ Do Thái trong Trận Chiến Yom Kipur. Theo Nixon, Do Thái có liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ dầu chỉ có 4 triệu dân Do Thái trong số 100 triệu dân tại Trung Đông. Do Thái cũng không có dầu khí mà cũng không có liên hệ đồng minh với Hoa Kỳ. Tuy nhiên về mặt tinh thần, và để bảo vệ chế độ dân chủ tại quốc gia này, Hoa Kỳ vẫn coi hành động yểm trợ Do Thái có quan hệ "sống còn tới quyền lợi quốc gia". (vital to our national interests). Do đó bất cứ vị Tổng Thống Hoa Kỳ nào cũng sẵn sàng yểm trợ Do Thái khi nước này bị tấn công. Trong Trận Chiến 3 tuần Yom Kipur giữa Do Thái và Ai Cập tháng 10-1973, Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự cho Do Thái 2,2 tỷ Mỹ kim.

Lúc này, Liên Xô đề nghị Hoa Kỳ ngừng bắn dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc và đe dọa sẽ can thiệp nếu Do Thái tấn công Syria. Kissinger lập tức phản bác và cảnh cáo rằng Hoa Kỳ sẽ nhập cuộc nếu Liên Xô can thiệp. Sau khi thất trận Tổng Thống Ai Cập than phiền rằng: "Chúng tôi không thể cùng một lúc chống lại cả Do Thái lẫn Hoa Kỳ". Sau Chiến Dịch Yom Kipur, báo chí Hoa Kỳ tuyên dương Kissinger là "người hùng có phép lạ" (superman/ miracleman).



Về mặt chiến lược, chính nghĩa, đạo lý và liên minh, Việt Nam Cộng Hòa có quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ tại Đông Nam Á hơn là giữa Do Thái với Hoa Kỳ tại Trung Đông. Vậy mà Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa sau 10 năm liên minh kết nghĩa, với trên 20 triệu con người đã đứng ra bảo vệ Tự Do cho miền thế giới này. Từ 1965, Hoa Kỳ đổ xô nhân lực, vật lực vào chiến trường Miền Nam, và gia tăng cường độ chiến tranh với trên nửa triệu binh sĩ chiến đấu bên cạnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh.



Bất cứ nhà quan sát vô tư nào cũng ngạc nhiên khi thấy chỉ vì 700 triệu mà Hoa Kỳ tiếc rẻ khiến cho Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao cũng như bao nhiêu nước Á Phi và Nam Mỹ đã rơi vào vòng lệ thuộc của Quốc Tế Cộng Sản. Trong khi đó, về niên khóa 1974, Liên Xô đã tăng gấp đôi số viện trợ quân sự cho Bắc Việt, với 1 tỉ 700 triệu Mỹ kim để phát động Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong khi từ sau Hiệp Định Paris, số quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa bị Hoa Kỳ cắt giảm còn 1/4.

Thời Hiệp Định Paris 1973 số quân viện cho Miền Nam là 2,2 tỷ Mỹ kim. Qua năm 1974 bị cắt hơn nửa (54%), còn 1.01 tỷ. Tới năm 1975 lại bị cắt phân nửa, chỉ còn 500 triệu (cộng với 200 triệu tính vào các sở phí chuyên chở và các khoản linh tinh khác).

Trong bản điều trần tháng 9-1974 trước Quốc Hội về dự án ngân sách 1975, cũng như trong bản tường trình gởi Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tướng John Murray, Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Saigon (DAO), đã đưa ra một công thức hay phương trình về sự liên hệ giữa số quân viện và chủ quyền lãnh thổ. Theo công thức này "nếu Hoa Kỳ cắt quân viện chừng nào thì Việt Nam Cộng Hòa mất lãnh thổ chừng ấy". (You can roughly equate cuts in support to loss of real estate: Nixon, sách đã dẫn).



Theo công thức và phương trình này có 5 mức quân viện liên hệ đến 5 tuyến phòng thủ lãnh thổ:



1)Nếu quân viện còn ở mức 1.4 tỷ Mỹ kim thì Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) còn giữ được những vùng đông dân cư trên toàn lãnh thổ.

2)Nếu quân viện chỉ còn 1.1 tỷ Mỹ kim thì VNCH không thể giữ được Vùng I Chiến Thuật.

3)Nếu quân viện giảm xuống còn 900 triệu thì không thể giữ được Vùng I và Vùng II.

4)Nếu quân viện chỉ còn 750 triệu thì chỉ có thể giữ được một số ít vùng, và Bắc Việt sẽ không chịu thương thuyết nghiêm chỉnh.

5)Mà nếu quân viện chỉ còn 600 triệu thì VNCH chỉ có thể giữ được Saigon, phụ cận và vùng châu thổ sông Cửu Long.

Như đã trình bày, Quốc Hội đã cắt viện trợ cho Việt Nam từ trên 2 tỷ năm 1973 xuống còn 500 triệu năm 1975.



"Các dân biểu và nghị sĩ phản chiến đã xóa tên Việt Nam Cộng Hòa trong danh sách các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ. Kể từ sau Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, chúng ta đã thắng trong chiến tranh. Quân lực VNCH đã thành công trong việc chặn đứng những vụ vi phạm ngừng bắn của Bắc Việt trong suốt 2 năm.



Lý do thất bại là vì Quốc Hội Hoa Kỳ đã khước từ không chịu cấp quân viện cho Saigon ngang với số quân viện Liên Xô cấp cho Hà Nội. Tất cả các vị tướng lãnh chỉ huy cao cấp Hoa Ky tại Việt Nam và Hoa Thịnh Đốn đều xác nhận việc quân lực VNCH đã chứng tỏ rằng, nếu được trang bị đầy đủ, họ có thể đẩy lui những sư đoàn thiện chiến nhất từ Bắc Việt xâm nhập vào Miền Nam..." (Nixon, sách đã dẫn)

Về mặt ngoại giao, sau cuộc Tâp Kích Chiến Lược Mùa Giáng Sinh 1972, Kissinger lạc quan báo cáo rằng, sau những cuộc mật đàm với Lê Đức Thọ ngày 8-1-1973, Bắc Việt sẽ chấp nhận nội trong 48 giờ tất cả các điểm cơ sở trong Đề Nghị 8 Điểm của Nixon (trong đó có khoản rút quân song phương).



Đây chỉ là báo cáo xuyên tạc. Vì trong Hiệp Định Paris ký 19 ngày sau (27-1-1973), không có điều khoản nào nói về việc Bắc Việt phải triệt thoái quân đội ra khỏi Miền Nam.



Sau này Kissinger thú thật rằng chỉ có những "cam kết ngầm". Trong những cuộc mật đàm, Bắc Việt hứa hẹn sẽ không mang quân vào Miền Nam và chấp thuận ghi khoản này nơi Điều 7 Hiệp Định Paris: "Từ ngày ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ sau tổng tuyển cử, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ không được nhận đưa vào Miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, cũng như các võ khí đạn dược và dụng cụ chiến tranh..."

Đây là liều thuốc an thần cho lương tâm thanh thản để Hoa Kỳ rút khỏi vũng lầy mà họ đã lao vào từ 10 năm trước, nói là để ngăn chặn Thuyết Domino và xây dựng Việt Nam Cộng Hòa thành một tiền đồn chống cộng tại Đông Nam Á.

Như Nixon đã nói, Bắc Việt không bao giờ giữ lời cam kết. (Hanoi broke agreements as soon as it signed them: Nixon, sách đã dẫn). Ngay cả trong Tuyên Cáo về nền Trung Lập của Ai Lao tháng 7-1962, 14 quốc gia cam kết tôn trọng chủ quyền và nền trung lập của Ai Lao và hứa sẽ rút hết các lực lượng võ trang ra khỏi Vương Quốc Lào để đem lại hòa bình cho Đông Dương. Tất cả các quốc gia kết ước đều giữ lời, ngoại trừ Bắc Việt. (All countries complied, except North Vietnam: Nixon, sách đã dẫn).

Tại Việt Nam, ngay cả Tổng Thống Nixon và người kế quyền của ông là Tổng Thống Ford cũng không giữ lời cam kết.

Ngày 14-11-1972 Tổng Thống Nixon viết cho Tổng Thống Thiệu: "Điều quan trọng hơn cả bản văn Hiệp Định là vấn đề chúng ta sẽ phản ứng thế nào trong trường hợp kẻ thù tái xâm lược. Tôi xin cam kết rằng, nếu Bắc Việt không tuân theo những điều khoản của Hiệp Định, tôi cương quyết sẽ trả đũa tức thì và mãnh liệt".

Mười ngày trước khi ký Hiệp Định, ngày 17-1-1973, Nixon còn khẳng định: "Tự Do và Độc Lập của Việt Nam Cộng Hòa là một mục tiêu tối hậu của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ...



Tôi xin nhấn mạnh 3 điều cam kết sau đây:

1. Hoa Kỳ chỉ thừa nhận Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Việt Nam;

2. Hoa Kỳ không chấp nhận cho Bắc Việt được đồn trú quân trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam;

3. Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt khi Bắc Việt vi phạm Hiệp Định".



Đó cũng là điều cam kết của Tổng Thống Ford. Sau khi Nixon từ chức, ngày 10-8-1974, với tư cách là người kế quyền, Tổng Thống Ford đã gởi văn thư cho Tổng Thống Thiệu xác định rằng: "Những cam kết mà dân tộc Hoa Kỳ đã hứa hẹn với VNCH trong thời gian vừa qua vẫn giữ nguyên giá trị. Và tôi sẽ triệt để tôn trọng những cam kết này trong suốt thời gian nhiệm chức của tôi."(Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter sđd)

Về vấn đề rút quân của Bắc Việt, Kissinger còn dối gạt Nixon rằng không cần có những điều khoản minh thị quy định trong Hiệp Định. Vì trong những cuộc mật đàm Bắc Việt đã mặc nhiên chấp thuận đề nghị này của Nixon hồi tháng 5-1969. Họ hứa sẽ lặng lẽ rút quân khỏi Miền Nam. (Our tactic was to write a formulation that tacitly required the enemy to withdraw. We will press for the de facto unilateral withdrawal of some North Vietnamese divisions in the northern part of South Vietnam. Nixon, sách đã dẫn).



Đây là một luận điệu ngây ngô và giảo hoạt

.

Là một chiến lược gia và nhà ngoại giao sành sỏi, Kissinger thừa biết rằng, đối với người Cộng Sản, ngay cả sự cam kết công khai trong những hiệp ước quốc tế cũng chỉ là dối trá. Vì kết ước không phải để giữ lời, mà chỉ nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị giai đoạn theo phương châm "cứu cánh biện minh cho phương tiện", bất chấp lời hứa và bất chấp danh dự quốc gia.Ngoài ra Kissinger còn giải thích rằng, với Điều 7 Hiệp Định Paris, quân đội Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam rồi đây sẽ tan rã vì không được tăng cường. Đó là điều phi lý. Vì sao quân đội Bắc Việt, đánh giặc theo kiểu nhà nghèo, lại tan rã, trong khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đánh giặc theo lối Mỹ, lại không tan rã?

Cũng nên ghi nhận rằng Điều 7 chỉ cấm hai bên không được đưa quân vào Miền Nam trong một thời gian nhất định "từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi có Chính Phủ Liên Hiệp" thành lập sau tổng tuyển cử do Hội Đồng Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc 3 Thành Phần tổ chức. Điều này phải được hiểu là sau khi có Chính Phủ Liên Hiệp, không có điều khoản nào cấm Bắc Việt không được đem quân vào Miền Nam. Lẽ tất nhiên Hoa Kỳ, như chim phải tên sợ làn cây cong, sẽ chẳng bao giờ dám nghĩ đến, hay dám mạo hiểm mang quân vào Việt Nam một lần nữa.

Theo các nhà luật học và chính trị học, mọi sự kết ước giữa các quốc gia, cũng như giữa các cá nhân, phải có tính công khai và minh thị. Do đó không bao giờ có những cam kết ngầm hay được hiểu ngầm trong các hiệp ước quốc tế. Quy luật này chứng tỏ sự điêu trác của Kissinger. Chẳng lẽ ông lại ngây ngô không biết điều đó? Xá chi "những mật ước ngầm"và "những cam kết miệng" trong những cuộc mật đàm tay đôi, hay những buổi đi đêm ám muội giữa Kissinger và Thọ!. Cặp bài trùng này đã lừa gạt dư luận quốc tế để giành giật Giải Hòa Bình Nobel 1974, một nền hòa bình của những nấm mồ.

Từ tháng 10-1974, Bắc Việt đem đại quân tấn công và đã chiếm Phước Long tháng 1-1975 trước sự im lặng khó hiểu của Hoa Kỳ. Tháng 3, chiếm Ban Mê Thuột, tháng 4, chiếm Đà Nẵng, Xuân Lộc và Saigon. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn án binh bất động. Và đã tàn nhẫn cúp hết quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa, kể cả thỉnh cầu khiêm tốn của Tướng Weyand xin viện trợ khẩn cấp 700 triệu để phản kích Chiến Dịch Hồ Chí Minh.

Vì nếu trong dịp này Hoa Kỳ trả đũa và Việt Nam Cộng Hòa phản kích thì phe đồng minh có cơ hội tiêu diệt từng sư đoàn Bắc Việt xâm nhập Miền Nam bất hợp pháp theo ngả vùng Phi Quân Sự phía Bắc, và từ Miên Lào phía Tây trên đường mòn Hồ Chí Minh. Lúc này Bắc Việt đã đem thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để tiếp sức cho hơn 100 ngàn quân có mặt tại chỗ.

Nói tóm lại, nếu Mùa Giáng Sinh 1972 Hoa Kỳ đã chiến thắng về quân sự, thì chỉ một tháng sau, tháng 1-1973, Hoa Kỳ đã thất bại về chính trị. Chỉ vì muốn ký Hiệp Định Paris cho bằng được để có lý do rút lui trong danh dự và đầu hàng lịch sự.



Hành vi này đã gieo tai họa vô lường cho các dân tộc Việt-Miên-Lào bị du vào thế chẳng đặng đừng phải liên minh với Hoa Kỳ, một quốc gia được tiếng là hào hiệp đã đổ bao xương máu để giành lại Tự Do cho Âu Châu, Á Châu và Phi Châu đầu thập niên 1940, và cho Đại Hàn đầu thập niên 1950.



Chúng ta hãy nghe tiếng kêu thống thiết của Thủ Tướng Cao Miên Sirik Matak trong văn thư gửi Đại Sứ Hoa Kỳ John Dean trước ngày Nam Vang thất thủ:



"Thưa ông Đại Sứ và cũng là người bạn của tôi,

Xin chân thành cảm ơn văn thư của Ông đề nghị cho tôi quy chế tỵ nạn tại Hoa Kỳ và cho tôi phương tiện di chuyển đến miền đất tự do. Nhưng than ôi, tôi không thể bỏ quê hương ra đi nhục nhã như vậy!. Riêng đối với Ông và quốc gia hùng cường của Ông, không một phút nào tôi có thể tin rằng Hoa Kỳ lại có ý nghĩ bỏ rơi một dân tộc đã quyết định chọn Tự Do. Các Ông đã từ chối không bảo vệ chúng tôi nữa, chúng tôi chẳng còn biết nói gì hơn.

Nay Ông ra đi và tôi xin chúc Ông và quê hương Ông tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ông ghi nhận rằng, nếu tôi có chết trên quê hương yêu dấu của tôi, thì đó cũng chỉ là một bất hạnh. Dầu sao mỗi người trong chúng ta, ai đã sinh ra rồi cũng có ngày phải chết. Có điều là tôi đã sai lầm khi tin tưởng nơi Ông và Quốc Gia của Ông".



Sisowath Sirik Matak (Nixon: sách đã dẫn).



Sirik Matak là một trong những người đầu tiên bị Khmer Đỏ hành quyết.



Trong thập niên 1960, Ai Lao và Cao Miên là những quốc gia trung lập nên không phải là đồng minh của Hoa Kỳ. Trong khi đó, từ cuối thập niên 1940, 5 vị Tổng Thống Hoa Kỳ Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson và Nixon đã long trọng cam kết sẽ bảo vệ quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam và xây dựng Việt Nam thành một tiền đồn của Thế Giới Tự Do để ngăn chặn Quốc Tế Cộng Sản xâm nhập Đông Nam Á. Như vậy về các mặt ngoại giao, chính nghĩa và tinh thần, Việt Nam có tương quan liên kết mật thiết với Hoa Kỳ từ 3 thập niên.



Số Phận của Ông Thiệu

Năm 1973, dưới áp lực của Kissinger và Nixon, ông Thiệu đã phải ký Hiệp Định Paris để chấp nhận những tai ương gây ra bởi bản văn Hiệp Định, cũng như bởi sự trí trá của phe Cộng Sản và sự bội ước của Hoa Kỳ.



Chúng ta hãy nêu giả thuyết:

Trong trường hợp ông Thiệu sẵn sàng nhận cái chết như ông Sirik Matak, liệu ông có thể làm được những gì?

Với tư cách nguyên thủ của một Quốc Gia có Hiến Pháp và Quốc Hội, ông Thiệu có thể ra chỉ thị cho chính phủ của ông không ký hiệp định trong trường hợp Hoa Kỳ cho quân Bắc Việt tiếp tục đồn trú tại Miền Nam trái với lời cam kết minh thị của Nixon từ năm 1969. Về mặt hiến chế, hiệp ước do Hành Pháp ký chỉ có hiệu lực nếu được Lập Pháp phê chuẩn. Mà Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa đầu thập niên 1970 vẫn tôn trọng Hiến Pháp 1967 với chủ trương đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật.

Trong trường hợp Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa công bố lập trường không chấp nhận và không phê chuẩn bất cứ hiệp định nào với Bắc Việt nếu có một trong ba sự việc sau đây:

1. Có sự tham gia của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, đại diện bởi cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Chính phủ này được Bắc Việt khai sanh hồi tháng 6-1969 vì nhu cầu chính trị giai đoạn. Nó bị khai tử tháng 11-1975 cùng với "Nước" Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Cũng trong thời gian này Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đã bị khai tử và sát nhập vào một tổ chức ngoại vi khác của Đảng Cộng Sản là Mặt Trận Tổ Quốc.

2. Trong Hiệp Định không có điều khoản ghi việc quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam Việt Nam đồng thời với quân lực Hoa Kỳ và đồng minh.

3. Hoa Kỳ sẽ vĩnh viễn giải kết tại Việt Nam và không còn chịu trách nhiệm thi hành Hiệp Định.

Nếu có một trong ba trường hợp này Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ khước từ không ký Hiệp Định. Lý do là vì không có sự chấp nhận và phê chuẩn của Quốc Hội, đặc biệt là Thượng Nghị Viện.



Phản Ứng của Hoa Kỳ

Trong trường hợp này phản ứng của Hoa Kỳ sẽ ra sao?



Theo giới am hiểu, nhiều phần người Mỹ sẽ không hạ sát ông Thiệu năm 1973 như họ đã hạ sát ông Diệm năm 1963. Trong một thập niên, Hoa Kỳ không dám sát hại hai vị nguyên thủ của một quốc gia đồng minh đã đồng tâm hiệp lực với Hoa Kỳ đứng ra làm tiền đồn chống Cộng để bảo vệ Tự Do cho các quốc gia Đông Nam Á dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ qua Khối Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á.



Về mặt kỹ thuật pháp lý, nếu không có sự tham dự của Việt Nam Cộng Hòa thì Hội Nghị Paris sẽ không có đối tượng. Vì Việt Nam Cộng Hòa là quốc gia chủ thể, lãnh thổ Miền Nam Việt Nam là bãi chiến trường, và có 8 quốc gia đã tham gia Chiến Tranh Việt Nam trong 8 năm, thời gian dài nhất trong lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ.



Trong trường hợp Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn nhất định ký Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh tại Việt Nam, thì trong 8 Chương của Hiệp Định, chỉ có 3 Chương có thể được giữ lại là Chương II (về Ngừng Bắn và Rút Quân), Chương III (về Phóng Thích Tù Binh), và Chương VIII (về Trao Trả Tù Binh dưới danh nghĩa bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến).

5 Chương khác sẽ không có đối tượng. Như Chương I (về tương quan giữa hai miền Nam Bắc), Chương IV (về giải pháp chính trị cho Miền Nam Việt Nam), Chương V (về vấn đề thống nhất hai miền Nam Bắc), Chương VI (về các cơ quan kiểm soát và giám sát quốc tế), và Chương VII (về chính sách đối ngoại của Miền Nam Việt Nam với Miên Lào).

Chỉ với 3 Chương nói trên, một hiệp định chấm dứt chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt sẽ không thể đề cập đến những vấn đề quân sự và chính trị tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy Hội Nghị Paris sẽ tan vỡ. Và sẽ không có một Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam được ký tại Paris năm 1973.

Tổng kết lại, trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa không ký Hiệp Định Paris 1973 thì việc gì sẽ xẩy ra, và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao?

1. Rất có thể, do áp lực quốc nội, cũng như vì quyền lợi riêng tư, Hoa Kỳ sẽ ký hiệp ước tay đôi về ngừng bắn, rút quân và trao đổi tù binh với Bắc Việt. Và để trả đũa Hoa Kỳ sẽ cắt hết viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa, để tạo cơ hội cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng võ lực. Trước dư luận quốc tế và quốc nội, cũng như về mặt ngoại giao, chính nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không?

Câu trả lời hợp lý là "không".

Vì hành động như vậy là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhã. Chẳng khác nào nếu đầu thập niên 1940, Roosevelt ký với Đức Quốc Xã hiệp ước bất tương xâm để trao Tây Âu cho Hitler; hay cuối thập niên 1940, Truman ngưng chiến dịch tiếp vận hàng không cho Tây Bá Linh để trao thị trấn này cho Honecker; hay đầu thập niên 1950, Eisenhower ký hiệp ước với Bắc Hàn để rút quân và trao Nam Hàn cho Kim Nhật Thành.

Những vụ phản bội và đầu hàng nhục nhã này nếu có, chẳng những tác hại đến Anh Quốc, Tây Đức và Đại Hàn, mà còn gây thảm họa cho toàn cõi Âu Châu, từ Tây Âu sang Đông Âu, cũng như cho toàn cõi Á Châu, từ Đông Bắc Á qua Đông Nam Á. Do hậu quả dây chuyền của Thuyết Domino.

2. Dầu sao, nhiều phần là, muốn rút quân và giữ thể diện, Hoa Kỳ vẫn cần phải có sự tham dự của Việt Nam Cộng Hòa trong Hội Nghị. Muốn thế Hoa Kỳ sẽ tìm cách lật đổ ông Thiệu theo kế hoạch "thay đổi nhân sự" từng được áp dụng tại Việt Nam năm 1963. Trong trường hợp này, cũng như 10 năm trước, rất có thể ông Dương Văn Minh sẽ lại được chiếu cố. Và ông này sẽ tuân lệnh Hoa Kỳ (và Bắc Việt) để thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần do Cộng Sản khống chế. Kết quả là phe Cộng Hòa chỉ còn 1/3 chủ quyền, 1/3 chính quyền, 1/3 lãnh thổ và 1/3 lực lượng tại Miền Nam. Nghĩa là trong toàn cõi Việt Nam, phe Cộng Sản chiếm tuyệt đại đa số 5/6. Trong điều kiện đó Bắc Việt sẽ dễ dàng thôn tính Miền Nam bằng phương pháp hòa bình, không phải dùng đến bạo động võ trang.

Trong trường hợp này, đối với Hoa Kỳ, hành động bán trắng Miền Nam cũng là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhã. Việc này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Hoa Kỳ và tương lai của đảng cầm quyền, đặc biệt trong cuộc tuyển cử từng phần năm 1974 và cuộc tổng tuyển cử bầu tổng thống năm 1976.

Và, một lần nữa, vấn đề đặt ra là, về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa và đạo lý, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không?

Câu trả lời hợp lý cũng vẫn là "không".

Rút kinh nghiệm vụ "thay đổi nhân sự" năm 1963 tại Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ rất ngần ngại khi phải can thiệp lộ liễu vào nội bộ của một quốc gia đồng minh trong Thế Giới Dân Chủ.

Trước kia, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh ngày 9-7-1971, chính Kissinger cũng phải minh định: "Lập trường của Hoa Kỳ là không nhất thiết duy trì một chính phủ đặc biệt nào tại Miền Nam Việt Nam (như Chính Phủ Việt Nam Công Hòa). Tuy nhiên, Hoa Kỳ không thể tham dự vào việc lật đổ những người trước đây đã là đồng minh của Hoa Kỳ, bất kể nguồn gốc đồng minh đó là gì" : (Jeffrey Kimball, sách đã dẫn).

Trong thư ngày 31-8-1972 chính Nixon cũng xác nhận điều này với ông Thiệu : "Tôi xin một lần nữa đoan chắc với Ngài về lập trường căn bản của Hoa Kỳ: Nhân dân Hoa Kỳ ý thức rằng chúng tôi không thể mang lại hòa bình và danh dự cho quốc gia, nếu phải bỏ rơi một đồng minh dũng cảm (như VNCH). Điều này tôi không thể làm và sẽ không bao giờ làm."

Tuy nhiên 5 tuần sau, ngày 6-10-1972, Nixon lại nhắc khéo về vụ "thay đổi nhân sự năm 1963" khi đề cập đến vụ Tổng Thống Johnson muốn lật đổ ông Thiệu năm 1968 (hồi đó Chính Phủ Saigon không chịu tham dự Hội Nghị Paris). Nixon viết: "Xin Ngài hãy dùng mọi phương cách để tránh tái diễn biến cố 1963 mà chính tôi đã ghê tởm và đã lên án từ năm 1968".

Dầu sao chính Kissinger cũng không dám chủ trương sát hại ông Thiệu. Ngay từ 1968 ông ta đã cảnh giác: "Nếu ông Thiệu chịu số phận của ông Diệm, thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ ý thức rằng: Làm kẻ thù của Mỹ có thể gặp nguy hiểm, nhưng làm bạn với Hoa Kỳ nhiều phần sẽ mất mạng." (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, sách đã dẫn)

Kinh nghiệm Sirik Matack đã chứng minh điều đó.

Và việc này đi trái Chính Nghĩa, Đạo Lý, Lương Tâm, Quyền Lợi Quốc Gia và Truyền Thống Dân Chủ của Hoa Kỳ từ khi lập quốc năm 1776.

Có điều là, trong lịch sử nhân loại cổ kim, chưa từng thấy một đế quốc nào dám ra tay hạ sát hai vị nguyên thủ của một quốc gia đồng minh trong vòng một thập kỷ.

Và cũng chưa từng thấy một viên tướng lãnh nào, trong vòng 10 năm, lại có cơ hội và ác tâm sát hại hai vị tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội mà ông ta có nghĩa vụ phải phục vụ và bảo vệ.

Dầu sao sự nhẫn tâm và phản trắc của ông tướng này, nếu có, cũng chỉ là hậu quả của sự nhẫn tâm và phản trắc của ông Cố Vấn Kissinger. Ngay từ tháng 7-1971, 18 tháng trước khi ký Hiệp Định Paris, ông Cố Vấn đã tiết lộ cho phe Cộng Sản biết chủ trương của Hoa Kỳ là sẽ rút quân toàn diện và vĩnh viễn ra khỏi Việt Nam mà không đặt điều kiện nào nếu được trao trả tù binh. Đó là hành vi nối giáo cho giặc, bật đèn xanh cho Cộng Sản xâm chiếm Miền Nam bằng bạo lực. Và, sau khi ký tắt Hiệp Định Paris tháng 1-1973, Kissinger cũng ước tính (và mong mỏi) rằng Việt Nam Cộng Hòa sẽ cáo chung sau 18 tháng.

10 năm sau khi Saigon thất thủ, bằng phản tỉnh và tự phán, năm 1985, Nixon đã lên án việc Hoa Kỳ bội ước Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 là một "sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong Lịch Sử Hoa Kỳ !".



Thật vậy, khi Hoa Kỳ nhẫn tâm rũ áo ra đi để mặc cho phe Quốc Tế Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng võ lực, thì bao nhiêu công lao, danh dự và uy tín quốc gia, xây dựng từ Thế Chiến I đến Thế Chiến II và Chiến Tranh Triều Tiên, sẽ phút chốc tiêu tan, đem lại sự bất bình và chê bai của nhân loại văn minh. Hậu quả dễ thấy nhất là sự bành trướng thế lực vượt bực của phe Quốc Tế Cộng Sản tại Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh.

Thêm vào đó các đồng minh cũ của Hoa Kỳ cũng sẽ rất ngần ngại khi phải liên minh với Hoa Thịnh Đốn. Và Khối các Quốc Gia Phi Liên Kết sẽ phát triển mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới.

Ngoài ra, sự hoài nghi của các dân tộc trên thế giới về Quyết Tâm và Lý Tưởng Tự Do của Hoa Kỳ sẽ có tác dụng xấu trong cuộc đấu tranh giải thể Cộng Sản tại Đông Âu và Liên Xô.

Do đó, cho đến nay không ai dám quyết đoán về việc Hoa Kỳ có theo chủ nghĩa thực dụng để nhẫn tâm làm việc đó không?.

Có điều là, nếu quân dân một lòng, và nếu vị nguyên thủ quốc gia có tinh thần vô úy, "coi tấm thân nhẹ tựa hồng mao", không chịu lùi bước trước cái chết, thì uy tín của Việt Nam Cộng Hòa sẽ được bảo toàn, danh dự của Quân LựcViệt Nam Cộng Hòa sẽ được gìn giữ. Và vị nguyên thủ quốc gia sẽ có cơ hội đi vào lịch sử như Nguyễn Thái Học và Hoàng Diệu trong hai thế kỷ vừa qua.

Mà, nếu biết vận dụng thời thế, biết đâu Việt Nam Cộng Hòa lại chẳng có cơ may bảo vệ chủ quyền lãnh thổ từng phần hay toàn vẹLuật sư Nguyễn Hữu Thống

(Viết năm 2008 đã hiệu đính)