Sunday, May 17, 2009

THẢM HỌA THẾ KỶ VÀ ĐỊNH MỆNH VIỆT NAM

Lữ Lan

(Do Anh Đặng Đình Hiệp chuyển tới)

(Tiếp theo phần I)
.
Phóng viên ngoại quốc quan sát hoạt động của chế độ quân quản, đã chứng kiến những đối xử lạ lùng, của những nguời cùng một giống nòi, một dân tộc, mà giờ đây đa thành hai giai cấp, một thống trị và một của bị trị. Y như những gì đã xãy ra thời Trung cổ. Chính sách nhà nuớc Mọi biện pháp đối trị toàn dân Việt Nam đã được Trung Ương Đảng (viện tu tuởng) điều nghiên vô cùng chu đáo truớc khi phát động chiến dịch thôn tính miền Nam. Từ nội bộ ra đến ngoại vi, truớc hết là con bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thành phần thứ ba, những tổ chức nằm vùng, cán bộ ba mươi, cho đến các tôn giáo lớn đều đã có nhiều cán bộ phụ trách được bố trí sẵn. Ngay sau 30 tháng 4 năm 1975, mọi thành phần kể trên đều đuợc rà soát lần chót qua một cuộc học tập cải tạo lâu hay mau tùy phê phán của quản giáo. Đảng duờng như quan tâm nhất là thành phần Phật giáo đồ Việt Nam rất đông đảo, có niềm tin đạo rất kiên cố. Đó là thành phần Đảng cho là lợi hại nhất vì suốt trong cuộc chiến truớc đây, đảng đã từng xâm nhập và gây cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nhiều khủng hoảng trầm trọng. Đứng trên phuong diện lý thuyết cách mạng và tư tuởng Hồ Chí Minh, lập truờng của Đảng đối với giáo hội Phật Giáo Việt Nam, dựa trên căn bản tu tuởng Mác Lê, quy định tôn giáo là thuốc phiện do tư bản đầu độc xã hội. Đảng biết, triệt tiêu lực luợng khá phức tạp, vì không phải với một lực luợng võ trang mà phải là một thủ thuật xuyên tạc tư tuởng và áp đảo, cám dỗ hàng giáo phẩm. Do đó, chiến thuật của đảng là phát sinh một giáo hội mới trong lòng giáo hội cũ
.
Truớc hết, Bộ Công An đã đào tạo nhiều lớp nam, nữ tăng si để bổ nhiệm đến kiểm soát tất cả các chùa toàn quốc. Khi cơ hội thuận tiện như hiện nay, đảng không ngần ngại triệt tiêu giáo hội, hoá thành một bình phong, gồm nhiều ngôi chùa cổ, trống rỗng như ở Trung cộng với hệ thống công an đắc lực nhất, đóng khung thành hàng giáo phẩm, cố tình hủ hóa đạo Phật bằng cách xóa bỏ uy nghi tế hạnh của hàng tỳ kheo bằng những mưu đồ cám dỗ danh lợi và dục tình. Đây là kế hoạch đắc sách nhất mà chỉ có các Phật giáo đồ chân chính mới nhận thức đuợc. Nguời bang quang cũng rất dễ nhận thấy qua sắc diện những thuợng tọa, đại đức mới, hằng ngày lên xe xuống ngựa, điện thoại cầm tay, thỉnh thoảng đuợc nhà nuớc cho xuất ngoại đi thăm Phật tử hải ngoại để quyên những khoảng tiền cúng duờng để về “phát triển đạo tràng”.
,
Đây quả là muu đồ đắc sách nhất của nhà nuớc cộng sản. “Một hòn đá ném chết hai con chim” như ngạn ngữ Tây phuong. Nguời Phật giáo đồ chân chính, nhìn thấy thái độ nham nhở của hàng giáo phẩm thì buồn chán cho thời mạt pháp, không còn nương tựa đuợc vào đâu để tu hành. Trong lúc đạo pháp đang suy tàn trong lòng dân tộc thì các phái viên ngoại giao Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ, đi quan sát tình hình tôn giáo ở Việt Nam về thì khen nức nở. Rằng chùa chiền phát triển cao độ, tăng ni tung tăng khắp phố phuờng như ngày hội, các nữ thí chủ tấp nập chốn thiền môn đề hầu hạ các thuợng tọa công an. Rồi đây Phật giáo Việt Nam sẽ đuợc vinh danh khắp thế giới, khi giáo hội truy phong cho chủ tịch Hồ Chí Minh ngôi vị bồ tát. Biết đâu nhà nuớc Việt Nam muốn cho họ Hồ có bạn đồng tôn nên sẽ để thêm hai vị bồ tát của cộng sản quốc tế là Stalin và Mao Trạch Đông. Lúc đó, Phật giáo Việt Nam sẽ vô cùng hãnh diện có pho tuợng Bồ Tát Tam Tôn để thờ nhu ở chùa Quốc Tự hiện nay tại Thủ Dầu Một. Và ngày đó, đạo Phật sẽ thật sự cáo chung ở Việt Nam.
.
Một hiện tuợng lạ kỳ của xã hội chủ nghia Một hiện tuợng lịch sử khác trong xã hội Việt Nam hiện tại đã trở nên vô cùng phổ biến. Khi một chế độ cai trị bằng bạo lực chuyên chế đẫm máu (dấu hiệu của nó là công an tùy tiện hành hung bất cứ ai ngoài đuờng phố), chủ trương độc tài toàn trị, với nguời đầu đảng quyền uy không hạn chế, một đạo quân công an sẵn sàng nghiền nát mọi phản kháng vì bất công, mọi ý huớng dân chủ, mọi tư tuởng tiến bộ, thì đương nhiên mọi tầng lớp dân chúng tuân thủ, đáp ứng thích nghi để sống còn. Như vậy có nghia là toàn dân phải bắt chuớc dối trá, luờng gạt, bưng bít, cuớp bóc hoặc bán thân làm nô lệ cho đảng với nhà nuớc mới có chỗ đứng (hộ khẩu) trong cái gọi là định huớng xã hội chủ nghia. Theo duy thức học thì thần thức con nguời, trong đời sống hằng ngày hhuấn tập vào tư tuởng mình những ý nghi, lời nói và hành động. Những thức ấy kết hợp lâu ngày thành những hạt giống, những chủng tử lưu truyền và thôi thúc tâm tư chúng ta thành hành động trong đời sống. Trên căn bản đó, mọi chúng ta đều nhận thức có những nếp tu tuởng truyền thống, chẳng hạn như tình mẫu tử. Không riêng gì cho loài nguời mà cho muôn loài, kể cả các loài cầm thú hung dữ, độc hại nhất, cũng có tràn đầy tình mẫu tử.
.
Vậy thì câu hỏi đặt ra là, những thúc bách nào, những hoàn cảnh nào, những cám dỗ nào đa khiến cho nguời mẹ Việt Nam hiện nay đang tâm quyết định thai nghén rồi sinh con ra để đem bán, dù biết rằng con mình sẽ bị hành hình một cách vô cùng dã man và sẽ chết một cách vô cùng đau đớn sau đó? Những điều kiện xã hội và hoàn cảnh khách quan hay chủ quan nào trong xã hội Việt Nam đã phát sinh ra những tư tuởng và hành động thê thảm nhu vậy? Có phải là duy vật biện chứng đuợc giảng giải một cách lệch lạc? Ai là kẻ trách nhiệm cho hiện tuợng trên? Đạo đạt những trần thuật trên đây, nguời viết không dám quy trách nhiệm cho bất cứ ai. Gây ra một thảm họa ngợp trời đất như trên đây phải là sự tham gia của nhiều thành phần, do nhiều hoàn cảnh, và xứ sở trong một thời gian khá dài. Một đảng, dù sừng sỏ như đảng cộng sản, một chế độ bất nhân như xã hội chủ nghia Việt Nam cũng không thể một mình tác tạo ra thảm kịch quy mô này, một thảm kịch vô tiền khoáng hậu trong bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam. Nếu không có sự a tòng của những kẻ bất lương, sự lợi dụng của những quốc gia muốn thủ lợi, sự hờ hững của những công dân vô trách nhiệm, và đôi khi hành động vô tư của những kẻ thiển cận, thiếu suy nghĩ, chỉ thấy quyền lợi cá nhân nhất thời. Phải chăng đây là thời đại của sự băng hoại lương tri của toàn thể chủng tộc loài nguời, một điềm báo hiệu sự tận thế của hành tinh chăng?
.
Quê Hương trong mắt nguời Việt hải ngoại Hằng triệu nguời Việt quốc gia tị nạn khắp năm châu đã lũ luợt thăm viếng Việt Nam với một ngàn lẻ một lý do. Ba muoi năm sau khi tháo chạy vong mạng, nguời ta bỗng nhận ra mình đa ra đi vì chính trị hay vì kinh tế, có nợ máu với cộng sản hay không. Bị cám dỗ bởi chiêu bài tuyên truyền của cộng sản, “quê huong là chùm khế ngọt”, hay là mời mọc của chủ tịch nuớc Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm Hoa Kỳ gần đây, đa rêu rao với doanh gia ngoại quốc là “dân Việt Nam hiền lành, gái Việt Nam đẹp..” Toàn cõi Việt Nam từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến những cảnh “sơn thủy hữu tình” xa xôi cùng cốc đã biến thành những khu du lịch vô cùng hấp dẫn, cung phụng cho du khách khắp nơi với giá rẻ mạt khi phải đến muời lăm ngàn đồng tiền Hồ mới đổi đuợc một đồng đô la.
.
Ai đi Việt Nam một lần cung không khỏi quyến luyến, muốn trở lại lần thứ hai, thứ ba và khoe rằng Việt Nam bây giờ tiến bộ, đẹp đẽ hon thời Cộng Hòa thuở truớc nhiều! Họ không cần biết rằng bộ mặt toàn thế giới đổi mới theo thời gian, theo đa phát minh của những tiện nghi vật chất. Thời 1970, Mỹ cũung chưa có vô tuyến truyền hình màu khổ đại vi tuyến, chưa có điện thoại cầm tay, tầm xa quốc tế, v.v… Hon thế nữa, trong thời chiến tranh du kích khủng bố, làm sao mà gìn giữ những tiện nghi công cộng khi việt cộng đặt mìn xe đò, pháo kích vào truờng học, đặt chất nổ ở các trạm biến điện hay bắn hỏa tiễn ngay vào khu đông dân cư? Và hãy nhớ lại xem thời gian ngay sau 30 tháng Tu 1975 Việt Nam đa đi nguợc nền văn minh nhân loại đến bao nhiêu thập niên và phải đến bao nhiêu chục năm để Việt Nam đuợc như hôm nay? Và nếu chúng ta chịu khó nhìn cho kỹ thì những nhà lầu cao lớn, khách sạn năm sao, chùa chiền, nhà thờ, truờng học, nhà thương là do ai xây nếu không phải là do bàn tay của nguời Việt tị nạn hay đầu tư của quốc tế?Đảng cộng sản đã làm đuợc gì ngoài ăn cuớp của nuớc, của dân?
.
Ngày nay, đất nuớc Việt Nam thanh bình, tài nguyên, khoáng sản, lâm sản Việt Nam vô bờ bến, cứ bán đổ bán tháo hết cho ngoại nhân là có Úc Đại Lợi qua xây cầu, Nhật qua làm hầm xe lửa, Đài Loan qua xây bến tàu, tất cả Đông Nam Á đến viện trợ, tái thiết để dành ưu tiên đầu tư. Đảng bán đứng cả nuớc cho ngoại nhân kinh doanh; công nhân Việt Nam, toàn thể công nhân Việt thì đảng bao che cho ngoại nhân bóc lột. Đớn đau thay cho dân tộc là số tiền thu đuợc từ sự “bán tháo, bán đổ” đó lại vào tay, vào túi hồ bao của đảng viên từ thấp đến cao để làm của riêng. Mọi dịch vụ y tế, xã hội, giáo dục cho nguời dân đều do Việt kiều hay các tổ chức thiện nguyện quốc tế đảm nhận. “Việt Kiều” về thăm quê huong ở khách sạn năm sao, đâu có đi xem những vùng kinh tế mới, những bệnh viện đầy dân quê nằm la liệt ngoài thềm, những thương phế binh VNCH ngủ duới gầm cầu hay trong các nghia địa. Trong lúc đó, giai cấp quan liêu của đảng, tiếng Nga gọi là Nomenkpatura, thì phè phởn, con cái ruợu chè hút sách thâu đem ở các vu truờng lắc, mỗi đem ném ra hằng ngàn đô la. Oai làm sao chiếc xe Rolls Royce một triệu ruỡi đô, bóng loáng lăn bánh trên khu phố sầm uất, bên trong là một vị lão thành cách mạng, ngồi chồm hổm theo thói quen, và cung theo thói quen thời trong bưng biền, uống ruợu mạnh có ngâm gan nguời.
.
Đọc giả nào đọc qua chuyện “Chị Cả Bống” trong một tờ báo phát hành ở Hà Nội thì rõ. Thời kháng chiến truờng kỳ, cách mạng quan tâm đến sự bồi bổ sức lực của cán bộ, lập ra viện nghiên cứu y khoa dân tộc. Đỉnh cao trí tuệ của cách mạng phát minh ra là muốn tẩm bổ bộ phận nào cho con nguời thì ăn vào những bộ phận ấy. Tim bổ tim, phổi bổ phổi, gan bổ gan. Vì vậy mới có chuyện ăn nhau sản phụ và những thức khác không dám viết ra đây. Lâu ngày đâm ra ghiền, nay đa về thành còn nhớ mùi vị xưa. Ngạn ngự Tây phuong có câu: “Loài khỉ cho đội vương miện, nó vẫn là khỉ”.
.
Lời thề năm xua của đảng cộng sản đội lốt Mặt Trận Việt Minh, bài phong phản để đánh thực dân để kiến tạo một xã hội ấm no thanh bình, một xã hội không giai cấp. Ba muoi hai năm truớc đây chiếm đuọc miền Nam, tuớc đoạt mọi tư hữu của nguời dân. Ngày nay ổn định chính quyền, giai cấp quan liêu “nón két” lại đi cuớp thêm nhà của “nón cối” chứ còn nguời lương dân miền Nam đã thủ phận trong các vùng kinh tế mới rồi.
.
Vắn tắt đôi dòng nghĩ về quê huong, đất nuớc, ngẫm về thời cuộc hiện tại và triển vọng tương lai, Việt Nam chúng ta sẽ về đâu? Mỗi một chúng ta có khả năng tự chế để đừng tiếp tay cho sự phá sản toàn diện của đất nuớc ngưng hết lại không?

Lữ Lan

.

TRỞ VỀ ĐẦU TRANG

No comments:

Post a Comment