Sunday, May 31, 2009

Chăn Gối với Kẻ Thù
Sleeping With the Enemy.
By James Webb, 30 April 2003
Giang chuyển ngữ
.
.
Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy..
.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam.
.
Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính”
– có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.
.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ.
.
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
.
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân
.
– tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973.
.
Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
.
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ.
.
Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến. Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995.
.
Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng.
.
Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói .
.
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được.
.
Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.Tại sao?
.
Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý.
.
Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu :
.
. “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10..
.
Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.
.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng.
.
Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
.
Giang chuyển ngữ


CHUYỆN VUI
Đoc thư các bà gửi cho nhau:

1. THƯ CỦA ... BỒ NHÍ GỬI CHO ... BÀ VỢ
.
Thưa bà, Dù chúng ta có vô cùng xung khắc, chúng ta vẫn phải nhất trí một điểm:
chồng bà là đàn ông.
.
Mà đàn ông thì sao?
-Đàn ông thì ham thích nhiều thứ. Ham thích đến mãnh liệt. Và, bà đừng dấu em, bà hãy công nhận rằng, phụ nữ chúng ta yêu đàn ông vì họ ham thích và biết cách thực hiện nó (Chúng ta cũng ham thích nhưng thực hiện chủ yếu bằng cách mua nó).
.
Ông thì thích máy móc, ông thi thích kiến trúc, ông thích vật lý và hóa học, ông dại hơn một chút thích thơ văn. Toàn những ham thích có lợi cho xã hội.
.
Nhưng đàn ông không chỉ ham thích một thứ.
Nếu gà chỉ thích giun, bò chỉ thích cỏ tươi hay thỏ chỉ thích củ cải thì đàn ông lại thích đa-dạng.
Chuyện ấy trong đá bóng , trong ẩm thực, trong bia bọt không sao, nhưng trong vấn đề phụ nữ, tính đa dạng của nó làm cuộc sống thêm rắc rối.
.
Bà thân mến,Em tin rằng, bà có rất nhiều ưu điểm. Sở dĩ em quen với ông là do ông ấy thông minh (chứ không phải chỉ có tiền như thiên hạ vẫn đồn). Và, một người thông minh không khi nào chọn vợ quá kém. Thậm chí, bà không quá kém, bà còn rất nổi bật ở nhiều phương diện.Theo như ông tiết lộ một cách đầy thành-kính, bà nấu ăn ngon, bà rửa bát sạch, bà lau nhà bóng và bà đi chợ rẻ. Bà còn đối xử tốt với chó, mèo ….
Em xin thú thực , tất cả các phương diện đó, em đều thua bà. Khi em nấu món canh, ai cũng nghĩ là món xào. Khi em rửa bát, tốt nhất lúc dùng nên rửa lại. Khi em lau nhà hay quét nhà, em để cái đống rác chỗ nọ chỗ kia. Chợ duy nhất em đi là chợ mỹ phẩm. Còn chó mèo, em chỉ nuôi chúng trong tranh.Nhưng ông vẫn thích em.
.
Tiện đây xin tiết lộ: thời gian thích không hề ngắn, cường độ thích không hề yếu và chi-phí thích không hề thấp.
Bà kinh ngạc. Bà không tin ư? Bà nhớ rõ ông vẫn về nhà, vẫn ăn cơm tối, vẫn lịch sự với bà ... v... v... .

Bà cảm giác chả có khe hở nào để em lọt vô cái pháo đài do bà xây dựng, canh gác và tuần tra.Bà nhầm.Em xin phép không đi vào chi tiết. Em chỉ nói một cách văn học rằng, không có gì ngăn cản được con tim. Nhất là một con tim già lao về một con tim trẻ.
.
Như trên đã nói, em thua bà về một tỷ thứ. Đúng một tỷ thứ, chả bớt phần nào. Nhưng, em lại hơn bà hai tỷ.Bà sẽ gầm lên. Bà sẽ quát: hơn ở chỗ nào?Thưa bà, những thứ em hơn lại vô cùng vớ vẩn. Em thành thật tin thế. Nhưng đàn ông, tiếc thay, lại không tin.Em biết chớp chớp mắt. Em biết ngồi gần ông mà lại vẹo người. Em biết đánh vào lưng ông, hay đánh ở chỗ thấp hơn, vừa đánh vừa cong môi nhìn đi chỗ khác. Em biết hét lên khi thấy con sâu và ù té chạy khi gặp con thằn lằn.Cái gì em cũng ngạc nhiên và nhờ ông giải thích. Em tin ông là vô địch về trí thức, về thể thao, và luôn thể hiện lòng tin ấy ra mồm. Mỗi lời nói của ông, với em, đều là chân lý. Em khâm phục khi ông uống bia. Em kiêu hãnh lúc ông châm thuốc lá. Em ngồi nép mình khi ông tụ tập. Em lo lắng nhưng chẳng bao giờ tra hỏi lúc ông đi khuya.
.
Và, quan trọng nhất, thưa bà, da em trắng, eo em nhỏ, môi em đỏ và chân em chả khác chân dài. Em mặc váy hồng, em thắt nơ xanh và em dùng dầu thơm của Pháp. Nước Pháp, chắc bà cũng biết, vô địch về các loại dầu thơm.Khi ở bên ông, em không ngốc và không tham lam như các phim truyền hình quay vội vàng mà bà vẫn xem đâu ạ. Chúng em không hề bàn về tiền bạc. Hai người đều mơ tới ánh trăng, tới những khát vọng chưa thực hiện và đều thích nhìn sao trên trời. Hai người có thể xung đột vì một bài thơ, giận dỗi vì một bức tranh và bỏ ra về vì một bông hoa bày không đúng cách ( trong khi ông và bà giận dỗi vì một mâm cơm, cãi nhau vì hoá đơn tiền điện và ra khòi nhà vì chậu quần áo chưa phơi).Thưa bà,Đấy, em tới ông, ông tới em là như thế đấy. Nó thanh cao thì em không dám nói, nhưng nó cũng chẳng phàm tục như sách vụ án viết đâu. Em xin bà hãy mừng vì điều đó.Tuy ông phạm tội nhưng tội ấy còn sang. Bà hãy tự an ủi như thế. Tại sao em viết thư này? Tại vì em xin trả lại ông cho bà.
.
Chúng em nhất trí cái gì đẹp thì phải ngắn và chúng em đã ngắn đủ dài. Toàn bộ sự tinh tế của tình yêu nằm ở chỗ này, và bà không biết được.Xin bà hãy dang tay đón ông về. Em lấy danh dự thề rắng, ông không sứt mẻ quá nhiều, đơn giản vì ông có còn nhiều đâu mà sứt mẻ. Bà hãy coi ông như vừa sau chuyến du lịch mạo hiểm trở lại nhà. Cần chở che và sẵn sàng che chở.Em đi đây. Cuộc sống là khám phá và em thích khám phá nhiều nơi. Bà đừng trách em. Bà cũng đừng tự trách mình. Khi em bằng tuổi bà, em cũng chả hơn gì bà đâu.Chúc bà vui khoẻ.
Yvone Diễm-Kiều.
.

************
THƯ CỦA ... BÀ VỢ GỬI CHO BỒ NHÍ ....
.
Thưa cô,Tôi đã đọc thư của cô một cách bình tĩnh. Đúng như cô đã nói, ở tuổi tôi và ở địa vị của tôi, sự bình tĩnh luôn luôn có thừa.
Này cô,
Việc chồng có bồ nhí khiến tôi ngạc nhiên. Đó là cảm giác đầu tiên, và thành thật với cô, nó hơn cả cảm giác căm phẫn.Vì sao vậy?Thưa cô, vì tôi tin chắc rằng lão ( hãy gọi sự vật với đúng tên và đúng tuổi của chúng cô nhỉ) đã đuối sức rồi, nói một cách chắc chắn, một cách không có gì phải bàn cãi cả.
.
Khi viết thư cho tôi, cô có vẻ tự đắc pha chút hả hê. Cô cảm thấy mình giật được từ tay bà khác một mỏ vàng, và mình có những phẩm chất rất khác thường nên mới gặp may như thế.Cô nhầm thảm hại quá, cô ơi!
.
Quả thật lão là một cái mỏ. Hay nói chính xác hơn, đã từng là mỏ. Điều ấy cách đây ba mươi năm về trước, cả thành phố đều phải công nhận chứ đâu cần phải một cô gái c ó trí tuệ siêu việt gì.Nhưng trên, trong và dưới cái mỏ ấy, tôi đã đào, đã cuốc, đã đẽo, đã nổ mìn, khai thác rầm rộ, quy mô mấy chục năm.Và giờ đây, mỏ chỉ còn khung, còn lai sự hoang tàn. Chỉ có đôi mắt ngốc của cô, chỉ có cặp môi dại của cô và chỉ có tí não khờ của cô mới không nhận ra điều đó.Cô vớ được lão, khi tôi trong một chừng mực nào đó, đã mặc cho lão tự do. Cho lão có cảm giác sổng chuồng.
.
Đàn ông sống bằng ảo tưởng cô ạ, và nuôi dưỡng cái ảo tưởng đó một cách khéo léo là nhiệm vụ của phụ nữ chúng ta.Tôi không vui gì khi lão có bồ. Nhưng chớ nói rằng tôi quá hoảng sợ vì điều đó. Tôi quá hiểu đứa khác sẽ được bao nhiêu trong khi mình đã vớ bao nhiêu. Phần của cô, hỡi ôi, thật là thảm hại.Cô khéo là ngây thơ và nhí nhảnh. Cô té xỉu khi gặp thằn lằn và ngã lăn ra khi gặp tắc kè. Dạ thưa cô, khi bằng tuổi cô, tôi cũng ngây thơ như thế. Nhưng lúc này, gặp hai của đấy, tôi chỉ đập một cái cho bẹp dí là xong.Rồi cô khoe là cô biết chợp mắt, biết ngả đầu và biết cười he hé nghiêng nghiêng. Ôi dào, những trò đó ngày xưa tôi làm mãi. Và bây giờ vẫn có thể làm, thậm chí còn làm hay hơn cô ấy chứ. Nhưng vì mục đích gì, gặt hái gì khi mọi thức đã no nê?
.
Cô nhìn lão trong quán cà phê hạng sang. Trong com-lê và cà vạt đắt tiền. Còn tôi có khá nhiều dịp (nhiều hơn cả cần thiết) nhìn lão trong quần đùi rộng, trong áo may ô chả hiểu là màu gì.Và tôi cam đoan rằng, cái tôi nhìn mới là cái thật. Cái cô nhìn là giả. Cô thừa biết thế, chẳng qua cô đang tự dối mình. Cô chê tôi chỉ biết rửa bát, nấu cơm. Cô thương tôi vì tôi chỉ chăm lo cái nhà sạch bóng. Nhưng tôi lại thích vậy. Vì đấy là nhà tôi và lão chỉ có nửa phần. Còn lão có bóng hay không, có sạch hay không, lão phải tự lo. Tôi còn bận lo cho bản thân mình.Tôi không chúi mũi vô bếp như cô tưởng và như lão tưởng chút nào. Tôi say mê đánh bài. Tôi nghiện làm đầu và giũa móng tay. Tôi ham thích "tám" và hăng hái đi chùa. Tôi khoác áo lụa mỡ gà, khoác vòng cẩm thạch và tôi sắm đủ cho mình ( bằng tiền lão, dĩ nhiên!).Còn việc cô ngắm trăng cùng chàng, đọc thơ cùng chàng hay đốt nến cùng chàng thì xin cô hãy cứ tự nhiên. Những thứ vớ vẩn và phù du đó ngày xưa tôi cũng nghĩ là ghê gớm lăm.
.
Nhưng tôi nhanh chóng phát hiện ra chúng suốt đời loanh quanh như thế, và chả có lợi ích gì. Càng chỉ như hạt tiêu rắc vô bát phở, không hề bổ béo, chỉ khiến nó dậy mùi. Mà mùi thì tôi đã chán. Chán không phải do tâm hồn tôi cằn cỗi, mà là do đã quá đủ rồi!Cuối thư cô cho biết đã chuồn ra khỏi lão, hoặc lão đã chuồn ra khỏi cô. Tôi chả hiểu ai thoát được ai. Nhưng chắc chắn là tôi suýt thoát. Tiếc quá. Giá mà lão đi với cô, giá như lão ảo tưởng về sức mình thì tôi đã có cơ hội tuyệt vời để lại được tung tăng.
.
Tôi tin chắc mình tung tăng chả khi nào muộn, khi mình kiêu hãnh, mình không nghèo khó và mình có sự mặn mà.
.
Những thứ đó cô còn lâu mới đạt tới, cô bé đáng thương ơi!Cô yên tâm. Tôi sẽ đón lão về. Cáo chết còn quay đầu về núi, trong khi lão chả phải là cáo, lão là người. Tôi cũng chả giày vò, chả đay nghiến chi đâu. Tôi không phải hàng tôm hàng cá. Tôi chỉ cười khẩy mà thôi.
Một nụ cười mà đã làm lão nhớ đến cả chục năm.Chúc cô may mắn trên con đường chinh phục các lão khác. Thế gian chả thiếu ông già. Cô cứ việc xông lên. Chào cô.
.
Madame Phán-Cảnh

.
BAO NHIÊU TUỔI LÀ GIÀ?
.
Thất thập xưa khó tìm ra,
Ngày nay thất thập mỗi nhà đều đông.
Ngày xưa thất thập ngồi không,
Ngày nay thất thập còn mong đi làm.
Ngày xưa thất thập lão làng,
Ngày nay thất thập là chàng thanh niên.
Thất thập về nuớc liên miên,
Các cháu gái nhỏ luân phiên chào mời:
"Mừng anh thăm nước nhà chơi
Mời anh cắt tóc, thảnh thơi gội đầu,
Mời anh trẻ đẹp sang giàu
Đón em qua Mỹ, em hầu hạ anh.
"Các bà bảy chục xuân xanh,
Tóc đen, má phấn, xâm viền vành môi.
Bà nào cũng đẹp, cũng tươi,
Lả lướt sàn nhảy, nói cười thật duyên.
Các bà dáng dấp dịu hiền,
Các ông say đắm nghiêng nghiêng mắt nhìn.
Bây giờ tôi vững niềm tin
Trả lời câu hỏi linh tinh ban đầu:
"Tuổi già khởi sự từ đâu?
Tuổi già khởi sự khi nào ta quên :
Quên chồng, quên vợ, quên tên,
Quên cười, quên bạn, quên mình là ai?"
.
.

Xin chuyển tới các bạn một chuyện ngắn vui, nhân ngày lễ Valentine.

Địch thủ



Trưởng thành vào cuối thế kỷ 20, khi mà các lớp đàn anh của tui đã biết yêu cuồng sống vội từ lâu, cái chuyện "Make love, not war" của các cô cậu "hippi" đã là chuyện từ thời tui còn mũi dãi lòng thòng; Vậy mà tui vẫn là một thằng nhát gái hiếm có. Nghe được những câu như là "mèo mù vớ cá rán" hoặc là "lù khù có ông Cù độ mạng" tui lấy làm an ủi lắm nhưng sự đời hiếm khi được như vậy. Đối với tui, mèo mù chỉ vớ được "con cá khô" mà thôi!
.
"Con cá rán" mà tui vớ hụt xảy ra năm tui 25 tuổi, khi đã là một anh công chức hẳn hoi. Hôm đó trên đường đi công tác từ Sài Gòn về lại Nha Trang, xe đò thời đó chạy cà rịch cà tang vì bắt khách dọc đường liên tục lại thêm các trạm kiểm soát hàng hóa dọc đường nên xuất phát ở Sài Gòn từ sáng sớm mà đến tối mịt mới tới Phan Rí. Ngồi bên cạnh tui là một "con cá rán" thơm phức. Nàng trạc tuổi tui, trông tướng xinh đẹp và hấp dẫn. Tui chỉ thỉnh thoảng liếc ngang chớ đâu dám bắt chuyện. Mãi sau khi ăn cơm chiều ở Phan Thiết, buồn tình quá tui mới quay sang tán gẫu ít câu. Xe đến Phan Rí thì gió lạnh làm tui co ro. Con cá rán này lấy ra cái áo len đưa cho tui. Tui từ chối. Ai lại kỳ vậy? Mình mặc áo của người ta còn người ta chịu lạnh coi sao được! Nàng bèn trải cái áo len xuống phủ kín giữa hai cặp giò của hai đứa, xong giấu tay vào đùi mình cho đỡ lạnh. Tui cũng làm theo y như vậy nghĩa là cũng dấu hai tay vào đùi mình chớ không phải đùi nàng (!) Được một lúc, tui ngủ quên lúc nào không biết. Giật mình tỉnh dậy tui hết hồn khi thấy hai cái tay của mình đang nhét vào giữa đùi cô nàng từ hồi nào. Trời ơi là trời! Tui hãi muốn chết. Nhìn lên thì thấy cô ta đang im lặng chăm chăm nhìn mình. Tui mắc cở rút vội tay ra và cũng không dám nói tiếng xin lỗi, quay vội nhìn qua hướng khác. Từ đó cho đến lúc xuống xe, tui sợ không dám nói một câu nào với cổ, lòng cứ mong mau tới bến. Cô ta cũng im re. Và hai đứa tui vừa xuống xe là cắm đầu cắm cổ mỗi người một ngã không dám quay nhìn lui. Từ đó tụi tui không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng cô ta có biết đâu tui vẫn mang hình ảnh cô ta trong lòng cho đến nay với câu hỏi "Tại sao nàng không bợp tai cho tui một cái? Có phải là đã chịu đèn tui?" Nếu tui không rút tay ra lúc đó thì có phải giờ tui đã có "con cá rán" thay vì "con cá khô" là bà xã tui bây giờ?
.
Sau này kể lại câu chuyện đó cho địch thủ (tức vợ tui), nàng nói:

- Vậy là anh đã dê từ trong tiềm thức chứ khi không bàn tay lại tìm tới chỗ đó mà nhét?

Rồi nàng còn nguýt tui và phán thêm hai câu thơ:

Bẩm sinh đâu có hiền lành,
Đến khi cưới vợ lòi chành máu dê!

Tui đâu sợ nên thêm vô liền:

Chồng dê thì vợ mới mê
Tối nào cũng cứ rủ rê chung mền.

Còn chuyện tui vớ được con cá khô cũng gian truân chớ đâu phải dễ dàng gì đối với một con mèo mù như tui!

Hôm đó gặp thằng bạn cũ ở xóm biển ngày xưa, tui mừng lắm, kéo đại nó vào một cái quán cà phê nhỏ xíu gần đó để nói chuyện. Quán giờ vắng khách vì không nhằm vào giờ uống cà phê. Cô bán hàng, tui nhận ra là "cô" nhờ cái đầu tóc dài với cái tướng ốm nhom ốm nhách; những chỗ đáng lý phải là đường cong thì hầu như thẳng băng. Nói như tụi bạn tôi thì cô ta thuộc loại "người chung thủy" vì "trước sau như một!"
.
Thăm hỏi nhau một hồi hai thằng ngồi yên, bỗng thằng bạn hỏi một câu chẳng đâu ra đâu:

- Bài toán "vừa gà vừa chó, bó sao cho tròn, có 36 con và 100 cái cẳng. Vậy có mấy gà, mấy chó" giải làm sao mày?

- Con mày mới học mẫu giáo, hỏi chi chuyện đó?
- Thằng cháu tao nhờ.

Tui lên giọng giải cho thằng bạn:

- Nó học lớp sáu thì đặt hệ hai phương trình hai ẩn số. Nó học tiểu học thì làm toán giả sử. Giả sử rằng…

Cô chủ quán ngồi gần đó bỗng lên tiếng:

- Cũng có thể giải cho học trò mẫu giáo hiểu được đó mấy anh.

Tui không tin là có cách gì hay ho, nói với cổ:

- Thôi cô ơi, để cho cháu nó hát hò "em là búp măng non, lớn lên em thành búp măng già…" cho nó vui, ép con nít làm gì tội nghiệp.

- Thiệt đó, cô giáo cho 36 con vật xếp hàng xong rồi, bảo:

"Mỗi con vật co hai chân lại."

Cô giáo cho học trò đi đếm coi còn lại bao nhiêu cái chân chưa co. Rồi cô giảng:

"28 cái chân chưa co lại toàn là chân chó vì gà có hai chân đã co lại hết rồi, chó cũng đã co hai chân nên chỉ còn hai chân chưa co, vậy là có 14 con chó".
Tui cảm thấy thích cái đầu minh mẫn trong cái thân thể gầy nhom này nên khi bạn tui phải đi cho kịp chuyến xe tui vẫn ngồi lại cùng nàng đố và giải những câu đố lắc léo. Rồi những ngày sau đó hễ rảnh là cặp giò tui tự động dẫn tui tới cái quán đó. Hết trò đố nhau, tụi tui hẹn nhau đi đấu... bi da, bóng bàn. Hết trò thi đấu, tụi tui rủ nhau đi dạo phố, dạo biển. Ngày nào tui cũng tìm đến nàng, ít nhứt cũng một lần.

Người ta nói rằng "vợ là địch, bồ bịch mới là ta." Vậy mà tui đã chọn một địch thủ của mình để làm bồ bịch rồi cưới luôn làm vợ, cho nên đời tui thấy toàn là địch.

Quen với nàng được hơn năm mà vẫn không dám tỏ tình. Thằng bạn quân sư quạt mo của tui nghe mà hết hồn kêu trời:
.
Rượu nào uống lại chẳng say
Gái nào mà hổng mê trai hả trời?
Rượu ngon còn phải đợi mời
Gái xinh bỏ phí là... đời bỏ đi.

Tui nghe lời quân sư quạt mo, rủ nàng đi vào rừng hái nấm. Đường đi khúc khuỷu quanh co, tui thấy nàng đi khập khễnh nên nắm tay nàng để dìu qua những chỗ khó đi và sau đó tui không buông ra nữa. Nàng để yên bàn tay nhỏ nhắn trong tay tui và không nói tiếng nào. Quân sư của tui đã nói đó là bước thứ nhất, địch thủ mà để yên như vậy là chịu đứt đuôi con nòng nọc rồi.
.
Đến bước thứ hai, tui tìm một chỗ ngồi trong bóng mát dưới một bụi chuối để nghỉ chân. Tui bẻ tàu lá chuối lót trên đất cho nàng ngồi và tui ngồi xuống bên cạnh. Miếng lá chuối nhỏ xíu nên dĩ nhiên hai đứa tui ngồi sát rạt với nhau rồi. Tim tui đập thình thịch, không biết địch thủ có nghe không nữa, nhưng địch thủ vẫn im thin thít. Mấy bữa cái miệng tía lia mà sao nay lại chơi màn im lặng vậy cà! Nhưng lời theo quân sư dặn thì im lặng cũng có nghĩa là chuyện tốt, cho nên tui làm gan tiến thêm bước nữa choàng tay qua vai nàng. Đôi vai của nàng thật gầy y như đôi vai trong bài hát "Như cánh vạc bay" của Trịnh Công Sơn. Tui ôm đôi cánh vạc mà người tui run quá đỗi! Hồi hộp quá! Hồi hộp đến cứng cả người. Tui âm thầm khấn ông trời:
.
Xin cho tui được hun nàng,
Xin cho tui được ngàn vàng nàng trao.
.
Tui thấy tui tham hết sức. Nhưng đã lỡ xin thì xin luôn một lần. Khấn xong tui lấy hết can đảm kéo nàng vào lòng và hun vào đôi môi ngọt mật kia. Mắt nàng nhắm nghiền và nàng cũng choàng tay ôm lại tui. Trời ơi! Hôm nay tui thấy trời đẹp quá xá. Tui thấy ông trời tốt quá đã phù hộ cho tui. Và tui cũng thấy thương… bụi chuối đã chứng kiến nụ hôn đầu đời của mình.

Sau đó tui tiếp tục rủ nàng đi thăm bụi chuối, khung cảnh hoang vắng của rẫy rừng làm nàng thấy sợ, tui bày trò chơi cho nàng giải buồn:

Sợ thì sợ... vui vẫn vui
Hai người đủ cặp mình chơi... năm mười.

Mấy cái trò con nít này làm nàng vui thiệt, nàng làm bộ nghiêm chỉnh:

Con quỳ lạy chúa trên trời
Sao cho con trốn được người con yêu.

Bụi chuối đâu có rộng lớn gì cho cam, cho nên chỉ một tí sau là con mèo mù tui cũng bắt được con cá khô. Tui thì thầm:

Đèn Nha Trang ngọn vàng, ngọn đỏ
Trai gái Nha Trang nằm trên cỏ cũng yêu!

Nàng có vẻ lo lắng:

Chuột kêu chít chít trong hang,
Anh mà không khéo, em mang... bụng bầu.

Cái này thì tui đâu có ngán, tướng tá ốm nhom ốm nhách vậy làm sao có con. Chính vì vậy mà tui mới tàn đời trai trẻ phải thúc ông bà già lo gấp cái đám cưới. Đùng một cái tui từ một thằng lớ ngớ đã làm chồng làm cha cái rụp. Bởi vậy mà thỉnh thoảng mới ngồi tiếc cái thời trai tơ, giá mà mình không chủ quan thì còn vui vẻ nhởn nhơ lâu lâu một chút. Ngồi buồn mới than thở:

Gió đưa bụi chuối sau hè,
Giỡn chơi một chút ai dè có con!

Không ngờ địch ở gần đó nghe được, thách thức:

Có con thì mặc có con
Giỡn thêm tí nữa mới ngon đó chàng!

Trời ơi, mới ngày nào còn nói chuyện toán học, chuyện thơ văn thật là trí thức và lãng mạn, vậy mà thoáng cái đã nham nhở quá chừng, tui than trời:

Tình chỉ đẹp khi còn giang dở
Lấy nhau rồi, nham nhở quá đi thôi!

Địch thủ tỉnh bơ đính chánh:

Hồi xưa còn nhỏ em ngu
Nghe má em kể nên thù đàn ông
Bây giờ em lại muốn chồng
Phải hăng, phải khỏe, ... ... dài dài…

Mà đúng ra lấy nhau rồi đâu phải chỉ có nham nhở không thôi mà còn nhiều chuyện đau điếng đến nhớ đời nữa! Một lần tụi tui đã đấu khẩu dữ dội, không ai chịu nhường ai. Tui tức quá tính đưa tay lên nựng địch thủ một cái nhưng không ngờ... nhanh như chớp, địch thủ chụp tay tui bẻ quặp rồi lên đầu gối dện cho tui một phát đau tới tim can. Vẫn chưa hết đâu, bằng một thế võ gì đó tui không biết mà tui bị quật té cái rầm!!! Lần này tui quả là khinh địch còn hơn lần trước nữa, chỉ dám than thầm trong bụng:

Buồn buồn đánh vợ mà chơi
Không ngờ vợ đánh, buồn ơi là buồn.

Tui cứ nằm lặng im ra đó không muốn ngồi dậy, mà muốn ngồi dậy cũng ngồi không nổi vì người ngợm bị đau quá xá. Địch thủ xuống tay hơi nặng, thấy tui nằm thẳng cẳng thì hoảng quá nên chạy tới lay tui dậy. Được nước tui giả bộ xỉu luôn làm địch thủ sợ khóc quá chừng. Cho chừa cái tật dám dở thói vũ phu, ấy quên vũ thê thô bạo.

Qua vụ đó tui nằm vạ cả tháng, không đụng tới việc nhà, bắt địch thủ hầu hạ đấm bóp mỗi ngày sướng như vua vậy đó. Còn địch thủ cũng hối hận, không bao giờ dám lớn tiếng cãi cọ với tui nữa. Có giận, phản ứng cao lắm là chơi màn chiến tranh lạnh mà thôi.

Chiến tranh lạnh tui cũng... thua luôn bởi vì tuy lớn xác nhưng tui chịu lạnh dở lắm, nhất là từ sau ngày có vợ. Đêm nằm mà không có ai úm là không tài nào ngủ được. Khi chiến tranh lạnh thì mỗi người một góc giường, đâu có ai chịu úm mình. Tui lạnh độ dương, còn địch thủ lạnh độ âm, đã vậy cái mặt còn băng giá hơn cả mùa đông ở "Alaska" nữa thì làm sao tui chịu nổi! Được vài hôm tui đã lên tiếng than thở:

Buồn buồn giận vợ chút chơi
Không ngờ vợ giận buồn ơi là buồn.

Ấy vậy mà chiêu thức lui một bước hay lắm đó, băng sẽ tan, địch sẽ chịu bồi thường chiến tranh, nằm trong lòng địch thủ tha hồ mà được cưng được chìu. Địch sẽ coi ta bé bỏng như... con của nàng vậy. Hết lạnh lẽo ta có quyền mở toang cửa sổ ra ngắm trăng, có lạnh một chút cũng có người úm mà, lo gì. Quan trọng nữa là muốn gì được nấy, tha hồ nhỏng nhẻo.

Sau cơn mưa trời lại sáng, sau chiến tranh là hòa bình. Khi hòa bình thì phải trùng tu, kiến thiết... Ta và nàng sẽ cùng sửa đổi một chút cho chăn ấm, nệm êm. Giai đoạn này mới tuyệt cú mèo. Tui thấy nàng dễ thương ra nhiều, hết cái mặt lạnh tanh mà thật nồng nàn tình tứ. Nàng lo săn sóc từ miếng ăn giấc ngủ, từ cọng tóc đến cái móng chân của tui để bù trừ cho những ngày bỏ tui bơ vơ lạnh lẽo phòng không gối chiếc. Thật là kỳ, khi giận nàng thấy cái mặt dễ ghét bao nhiêu thì khi hết giận lại thấy cái mặt dễ thương chi lạ.

Cuối năm, nàng sinh một lần hai thằng cu, vậy là hai đứa đầu tắt mặt tối, không còn thì giờ để... giỡn chơi chút xíu nói gì đến chiến tranh lạnh hay chiến tranh nóng. Chiều chiều tui đi làm về, nghe vợ ru con mà thấy… thương:

Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu nối tiếp tiếp mùa thu,
Thằng cu nối tiếp thằng cu ra đời.

Thương thì thương nhưng phải nhảy ngay vào làm phụ bếp, ăn uống xong còn phải chia nhau ru con rồi mới… thương được. Lúc này ở nhà ngoài tui ru một đứa:

Ầu ơ con ngủ thêm nha
Ba ra pha sữa xong là vô ngay
Uống xong con ngủ cho say
Để ba ghẹo tiếp má mày nha con
Má mày mặt mũi hơi mòn
Mắt thì sâu thẳm mỏi mòn… đợi ba.

Bên trong có tiếng địch ru thằng kia:

Ra đường em đã hết son
Về nhà em vẫn còn son với chồng.

* Sorry! Người sưu tầm xin tác gỉa cho phép đục bỏ một đọan ở đây vì văn chương có vẻ hơi "explicit" và nội dung dễ gây tranh cãi từ nữ đọc gỉa…

Địch thủ của tui quả thiệt cao tay ấn, sau cái thời chiến đấu bằng toán học, bằng thể thao rồi bằng cả võ Bình Định. Chiến tranh lạnh rồi chiến tranh nước. Nay địch lại bày trò chiến tranh bốc phét cho tui vui. Chính vì vậy mà tui thấy đời người trôi qua quá nhanh, thoáng một cái mấy thằng cu nhà tui đã bỏ tụi tui đi tìm những con cá rán, cá khô của chúng để chơi… năm mười. Rồi chúng lại bận bịu với những thằng cu của chúng mà quên mất tụi tui. Nhà cửa bây giờ vắng tanh, buồn bã. Tui không thiết gì chuyện hơn thua nên không gọi nhà tui là địch thủ nữa mà trân trọng gọi nàng là "mình." Nàng cũng gọi tui như vậy, nên bây giờ nàng chăm sóc và lo lắng cho tui còn chu đáo hơn là hồi trẻ sau khi giận nhau. Hôm nay thấy tui ủ rũ như gà mắc toi, nàng đến sờ trán rồi ân cần:

- Không thấy sốt mà sao mình lại ủ rũ vậy?
- Không biết, thấy người "xìu xìu ễnh ễnh" quá.
- Để em lấy cho mình viên thuốc, uống xong rồi nằm nghỉ một chút là hết xìu xìu ễnh ễnh ngay.
- Thuốc gì mà hay vậy, mình có chắc không?
- Chắc chắn! Viên thuốc nhỏ "mầu xanh" mà lị!
- Trời đất !!!

______
(*) Những đoạn thơ trong bài được trích trong internet.
.

THẰNG LÍNH TRỞ VỀ

Yên Sơn


Khu Welcome Center là một doanh trại đặc biệt, nằm giữa lòng đại bản doanh của căn cứ bộ binh Fort Carson, thành phố Colorado Spring, dành làm nơi tiễn đưa binh lính lên đường đi các chiến trường xa cũng như chào đón họ trở về sau khi hoàn tất một “tour” nhiệm vụ.

Hai bên đường, từ khu khách sạn dẫn đến trung tâm, phủ đầy tuyết trắng xóa - Khu khách sạn gồm rất nhiều building giống hệt như những khu doanh trại của lính, tụ lại một nơi được quân đội tổ chức và quản lý nhưng không khác gì những khách sạn bề thế nổi tiếng của tư nhân bên ngoài. Chỉ khác biệt là họ không tính thuế và giá cả rất thấp cho những phòng ốc sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Khu khách sạn dành riêng cho thân nhân và gia đình tạm trú trong thời gian thăm viếng

- Những khóm cây trụi lá trơ cành trông rất thơ, rất mộng đứng thi gan trong cái lạnh tái tê của mùa đông Colorado! Từ tối qua đến nay tuyết ngưng rơi làm lũ nhỏ có vẻ thất vọng! Dù vậy, chúng nó cũng xin hắn dừng xe lại để được chạy nhảy một lúc trong những mặt phẳng phủ đầy tuyết trắng xóa. Dân Houston, dân Vùng Bay Area có khác, lúc nào cũng trông mong được nhìn ngắm và được đi trong tuyết rơi.

Không biết những gia đình khác đã đến “trung tâm chào đón” từ lúc nào, nhưng khi gia đình hắn tới nơi lúc 12:30 trưa đã thấy chật ních những người và người ở một bên khán đài, nơi dành riêng cho gia đình và thân nhân ngồi chờ đón. Căn phòng đợi rộng lớn như cầu trường của một đội bóng rỗ chuyên nghiệp đầy những tiếng nói cười và âm nhạc ồn ào như một trung tâm mua bán trong mùa lễ tết. Sự sốt ruột đã làm tiếng ồn ào tăng lên theo từng tiếng đồng hồ trôi qua! Giờ G là giờ để người thân trong gia đình được mừng đón người thân yêu của họ trở về, đựơc ôm chặc trong vòng tay đứa con, hoặc chồng, vợ, cha, mẹ, hoặc anh, chị, em bằng xương bằng thịt sau hơn 500 ngày họ miệt mài trong tử sinh trên chiến trường Iraq. Giờ G là 1 giờ trưa, rồi 2 giờ, rồi 3 giờ… và bây giờ đã là 6 giờ chiều!

Ban tổ chức liên tục trấn an mọi người là những người thân yêu của họ đã có mặt trên đất Hoa Kỳ, nhưng họ không hề nói đang ở đâu và tại sao. Có lẽ ai cũng đã quen thuộc với ngôn từ “bí mật quân sự” nên chỉ sốt ruột chờ đợi. Cứ mỗi lần người trong ban tổ chức lên máy vi âm thì tất cả mọi tiếng ồn ào im phăng phắc, hàng ngàn cặp mắt hướng về người phát ngôn với trái tim hân hoan để rồi thất vọng và sốt ruột tiếp tục đợi chờ.

Hắn suy nghĩ mông lung, hồi hộp một cách kỳ lạ, niềm lo âu vô hình cứ lẩn quất trong lòng. Hắn nghĩ tâm hồn hắn sẽ thật sự bình yên khi ôm được “thằng lính” bằng xương bằng thịt trong vòng tay siết chặt của mình. Hắn không biết đã uống hết bao nhiêu ly cà phê mà cả người thấy nhộn nhạo; giá có một cốc rượu mạnh mới có thể có được sự kiên nhẫn đợi chờ. Hắn lướt mắt khắp gian phòng cùng chia sẻ với những gương mặt âu lo, những ánh mắt đoài đoạn vì nhớ mong của những người vợ trẻ, của những cha mẹ anh chị em, và thương ơi là thương những trẻ thơ vẫn vô tư nô đùa chạy nhảy.

Mấy tuần lễ trước hắn có một giấc mơ khủng khiếp làm bàng hoàng khi thức dậy mà không dám hở môi chia sẻ với bất cứ một ai! Sự lo âu càng lúc càng tăng theo tỷ lệ nghịch với ngày N “thằng lính” trở về. Hắn cứ suy nghĩ vẩn vơ về những cái “huông” trong đời quân ngủ hắn đã từng nghe thấy, từng chứng kiến. Cứ năm ba ngày không liên lạc được với “thằng lính”, cứ mỗi lần nghe tin tức bom tự sát nổ chỗ này, chỗ kia và quân nhân tử nạn trên chiến trường Iraq là hắn quýnh quíu!

Trong tình trạng đó đã hình thành một ác mộng! Trong mơ, hắn đã như người điên loạn chạy nhảy qua những khu rừng tăm tối, rồi bay chơi vơi trong một khoảng không gian xám đục, rồi rơi xuống nhiều tầng địa ngục... sau khi nhận lá cờ Hoa Kỳ xếp gọn hình tam giác từ tay hai người lính Mỹ trong quân phục đại lễ kính cẩn trao cho hắn với câu nói gọn lỏn “we’re so sorry” (chúng tôi rất lấy làm ân hận) rồi lặng lẽ quay gót!

Bỗng thời gian như ngưng lại, không gian như đặc quánh làm cho căn phòng càng rộng thênh thang, hàng ngàn con tim như ngừng đập và hàng ngàn cặp mắt đổ dồn vào phía cổng sau, nơi mà vị sĩ quan điều khiển “Chương Trình Chào Đón” cho biết là những đứa con yêu của đất nước này sắp xuất hiện trước những tấm lòng trời biển và niềm kiêu hãnh của hàng ngàn thân nhân đang ngóng đợi. Nếu không có hàng trăm chiếc xe đủ cỡ, đủ loại đậu trước sân của khu “Welcome Center”; nếu không vào bên trong building, người ta sẽ không thể biết là trong lòng building này đang chứa đựng mấy ngàn người già trẻ lớn bé! Hắn có cảm tưởng người ta sẽ giật mình nếu ai đó làm rơi chiếc kim may trong giây phút này.

Hàng ngàn tiếng hò reo không hẹn cùng cất lên òa vỡ khi ba cánh cửa lớn vừa được mở rộng cùng một lúc, bóng dáng của ba người lính dẫn đầu trong bộ đồ trận rằn ri màu cát sa mạc uy dũng bước vào! Người hắn tê điếng, hai mắt mở to hết cỡ dán chặc lên từng bóng dáng người lính xuất hiện. Bỗng chốc, mắt hắn như có màn sương mỏng làm nhạt nhòa hình ảnh của “thằng lính” cao nhòng vừa bước qua ngưỡng cửa. “Thằng lính” người Việt Nam mà cao trội hơn ai hết trong hàng quân của một tiểu đoàn lính Mỹ. “Thằng lính” là người thứ ba, ở hàng đầu, nón bê-rê phủ sụp như đang ngó xuống những bước chân đều của hàng quân duyệt qua khán đài danh dự. Hắn dõi theo từng bước đi của “thằng lính” cho tới lúc vị sĩ quan điều khiển đoàn quân ra lệnh cho những bước quân hành dừng lại và quay phải hướng lên khán đài, nơi hàng ngàn thân nhân đang hò reo vỡ lỡ! Nón bê rê của “thằng lính” vẫn phủ sụp che tầm mắt! Hắn lướt nhanh một dọc qua hàng quân, để ý dường như không có cặp mắt lính nào ngó lên khán đài trước mặt họ, nơi mà những ánh mắt thiết tha đang vui mừng chờ đợi họ. Dường như ai cũng cố gắng kềm hãm nỗi vui sướng, nỗi xúc động trong lòng!

Sau khi cử hành nghi lễ chào quốc kỳ một cách trang trọng và bài hát “lục quân hành khúc” chấm dứt, Thiếu Tướng chỉ huy trưởng của căn cứ ngỏ lời chào mừng quan khách và đoàn quân trở về bằng một bài nói ngắn gọn, đại lược như: “Kính thưa toàn thể quý vị, chúng tôi rất lấy làm tiếc về sự chậm trễ của buổi lễ vì thời tiết quá xấu trên hành trình trở về của đoàn quân. Hân hoan chào mừng quý thân nhân có mặt trong buổi lễ hôm nay. Cám ơn sự kiên nhẫn và thông cảm của quý vị”. Hân hoan chào mừng các bạn đã bình yên trở về; các bạn đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ rất cam go được giao phó, các bạn là niềm hãnh diện của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ. Chúng tôi thành tâm cám ơn sự hy sinh cao cả của các bạn và gia đình, đặc biệt các gia đình và các quân nhân bị thương vong trên chiến trường Iraq. Chúng tôi cũng kính cẩn nghiêng mình trước những vong linh của hơn ba ngàn binh sĩ đã nằm xuống trong cuộc chiến! Quân đội và nhân dân Hoa Kỳ quyết không để sự hy sinh cao cả đó bị phí phạm. Với tất cả những nổ lực và quyết tâm không ngừng nghỉ của quân đội và chính phủ Hoa Kỳ, chúng ta có quyền hy vọng sự ổn định và sự tự do no ấm của nhân dân Iraq sẽ được tái tạo trong một ngày không xa. Việc làm của chúng ta ngoài mục đích nêu trên còn là việc cần làm để bảo vệ an ninh cho đất nước và nhân dân Hoa Kỳ nữa. Chúng ta không muốn có một 9/11 khác xảy ra! Một lần nữa, chúng tôi xin hân hoan chào mừng các bạn đã trở về bình yên, cầu chúc các bạn và gia đình có những ngày sum họp trong hạnh phúc tuyệt vời!”

Sau những dặn dò cần thiết của các cấp chỉ huy, đám lính được lệnh tan hàng. Mọi người đổ xô nhau ùa ra sàn tìm người thân yêu của mình. Hai đứa em và cô bạn gái của “thằng lính” cũng lập tức biến mất! Hắn cố giữ vẻ điềm đạm để cùng vợ bước về hướng “thằng lính” đứng lúc nãy. Những đứa bạn lính của nó, hoặc còn ở lại căn cứ, hoặc đã về trước, ôm chằm nhau cả lũ, rồi hai đứa em, rồi cô bạn gái của nó thay phiên nhau ôm cứng như không muốn rời. Nhìn hoạt cảnh sum họp chung quanh với bao nhiêu tiếng cười, bao nhiêu dòng lệ ướt đẵm mắt môi, hắn liên tưởng tới đôi mắt đẵm lệ của Mẹ, những nghẹn ngào của Ba trong những lần hắn về phép năm xưa, niềm cảm xúc tuôn trào với bao nhớ thương và ân hận về những khiếm khuyết và chểnh mảng của hắn khi Ba hắn còn tại thế! Ba ơi! Con biết đã quá muộn màng để nói với Ba một lời xin lỗi. Vâng thưa Ba, lời Ba mượn câu cách ngôn để dạy dỗ con khi còn vừa tập tễnh vào đời.
,“nuôi con mới biết lòng Cha Mẹ”, phải đợi chừng này tuổi con mới thật sự hiểu ra! Hắn cố kềm giữ không để rơi nước mắt trước đám đông và kiên nhẫn đợi tới phiên mình sau khi mẹ nó mừng mừng tủi tủi buông ra. Ôi hạnh phúc biết bao khi hắn ôm được thằng con yêu quý trong vòng tay của mình. Lòng hắn thật sự bình an và sung sướng đến muốn bật khóc! Bây giờ thì hắn biết chắc “thằng lính” của hắn đã mạnh khỏe trở về và cơn ác mộng không còn là một nỗi ám ảnh khôn khuây trong lòng hắn nữa.

Sau một khoảng thời gian mừng mừng tủi tủi khá lâu, tiểu đoàn được lệnh tan hàng để theo các cấp chỉ huy về doanh trại làm thủ tục nhận cư xá trước khi được đi phép 48 giờ. “Thằng lính” chỉ đường đến khu cứ xá độc thân cho hắn chạy theo. Nó nói làm thủ tục nhận phòng rất nhanh vì mọi chuyện đã được xếp đặt trước. Khi đến nơi thì thấy “thằng lính” đang chuyển những dụng cụ cá nhân lên phòng. Hắn thấy chiếc ba lô kềnh càng của “thằng lính” vừa được “unload” từ một quân xa xuống cùng những vật dụng cá nhân của nó, hắn tính giúp mang lên phòng trên lầu hai, nhưng trời ơi nặng oằn cả lưng! Anh em “thằng lính” vội vàng khuyên ngăn để cho chúng nó mang lên. Thằng em cũng to con, cao lớn hơn Bố chứ có ốm yếu gì đâu, vậy mà nó vừa mang lên đã vội vàng để ngay xuống! “Thằng lính” cười rồi khoác lên lưng một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Nó nói là tất cả quân nhân đều phải mang như vậy trên lưng mỗi ngày ít nhất tám tiếng đồng hồ trở lên, chưa kể tới vũ khí đạn dược! Hắn nghe mà bái phục cho thể lực của một người lính Mỹ. Hắn tự hỏi với sức nặng đó làm sao có thể trèo đèo, băng rừng, vượt suối, xông trận nhanh chóng cho được?! Ôi! Lính Mỹ có khác! Bao giờ cũng được trang bị tối đa! Hắn chạnh lòng nghĩ tới thân phận của những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa, đi vào những nơi hung hiểm mà chỉ trang bị với nhiều thiếu thốn kiệm ước! Ôi sao thuơng mến lẫn cảm phục vô vàn!

Gia đình hắn đã ở lại Fort Carson chơi với “thằng lính” đến hết 48 giờ phép của nó. Suốt ngày chỉ loanh quanh sáng trưa chiều tối đi thăm các nhà hàng quán xá khác nhau, hoặc kéo nhau đi thăm những gia đình bạn lính của nó ở ngoài thị trấn, hoặc lũ nhỏ chơi với nhau những trò chơi điện tử “thằng lính” có sẵn hoặc mua về từ khu mua sắm trong căn cứ (Post Exchange). Những ngày còn lại trời cũng chẳng chìu lòng lũ nhỏ vì tuyết trắng chẳng rơi và nắng vàng vẫn rực rỡ mỗi ngày; ban đêm lại vô cùng rét buốt. 48 giờ phép cũng ra đi vội vàng, gia đình bịn rịn chia tay “thằng lính” với cái hẹn hai tuần sau “thằng lính” sẽ được nghỉ phép 4 tuần lễ.

Về đến nhà mấy hôm, “thằng lính” gọi hỏi ý kiến của hắn:

- Ba cho con ý kiến là con nên làm sao. Con phải trả lời ngay cho cấp trên của con biết. Tháng 10 tới là kỳ hạn 5 năm của con, đúng ra là con sẽ hết “giao kèo”, từ giã vũ khí về đi học lại với em con, nhưng thời gian từ bây giờ đến tháng 10 nhiều hơn 6 tháng dưỡng quân, có thể con sẽ bị điều động trở lại Iraq hoặc đi chiến trường Afganhistan. Trong bộ binh, mỗi khi chuyển quân đi chiến trường xa, thường là phải ít nhất một năm mới trở về. Khi trở về là con mãn hạn! Tuy nhiên, Ba còn nhớ 3 năm “option” trong giao kèo của con không? Quân đội cho con một chọn lựa! Nếu con “tình nguyện exercise” thì tháng Sáu tới con có thể chọn đi phục vụ bất cứ ở đâu, nước nào trong “tour” kế tiếp; nếu đợi đến khi quân đội cần, “quân đội exercise” thì con sẽ mất quyền chọn lựa!

Đầu óc hắn quay cuồng chớp nhóang vì đâu có nhiều thì giờ suy nghĩ, trong thoáng chốc hắn đã có câu trả lời:

- Well, dường như con không có chọn lựa nào tốt hơn là “tình nguyện exercise”. Vì theo Ba hiểu rất có nhiều khả năng quân đội sẽ exercise để cover thời gian cho cái tour kế tiếp! Vì họ không thể cho con ra khỏi quân ngũ trước khi hoàn thành đợt chuyển quân, và họ không có lý do chính đáng giữ con lại trong quân đội nếu không exercise option triễn hạn. Hơn nữa, các cơ quan truyền thông đã và đang nói về sự khó khăn trong việc tuyển mộ tân binh của quân đội Mỹ; nghe nói Quân đội cho nhiều quyền lợi (incentives) cho những người tình nguyện sau này; chưa kể tới việc quân đội đã tốn kém khá nhiều để đào tạo một người lính chuyên ngành như con mà không nghĩ tới việc sử dụng tối đa tài nguyên của đất nước!

- Con cũng đã nghĩ như Ba nói!

Ngưng một chút, “thằng lính” nói tiếp:

- À ba! Nói về “incentive”. Quân đội hứa cho con một số tiền thưởng nếu con” tình nguyện exercise”. Con dự định cho các em một nửa, và đưa Ba Mẹ một nửa để sửa sang nhà cửa hoặc để Ba Mẹ chi dụng tùy nghi!

Hắn xúc động về tấm lòng hiếu để của “thằng lính”. Chỉ cần nó biết nghĩ như vậy cũng quá đủ:

- Con cứ để dành tiền chi dụng, Ba Mẹ không cần tiền trong lúc này, chỉ cầu mong cho con luôn được bình yên và mạnh khỏe, vui vẻ là Ba Mẹ sung sướng rồi! Con cho tiền em con cũng được, cho nó để dành cho việc học nếu một lúc nào đó Ba Mẹ không còn lo được nữa!

- Ba nói với con là Ba đã quyết định sống tới 100 tuổi rồi mới tính sau mà!

- Ha ha! Dĩ nhiên là vậy rồi! Ba muốn nói tới một lúc nào đó… Ba Mẹ cần tiền để đi du lịch thì sẽ phải nhờ các con lo cho em thôi!

- Ukie dukie Ba, Hahaha! Nghe vậy được hơn (It sounds about right) Ba!

***


Hai tuần sau “thằng lính” về nghỉ phép một tháng.

Đời sống bình thản mỗi ngày của gia đình lại bị đảo lộn chung quanh sinh hoạt của con, tất bật với những niềm vui mở ngõ, và rộn rịp bạn bè. Hắn để ý thấy “thằng lính” của hắn đã thật sự trưởng thành; tâm tính có nhiều thay đổi; uống rượu và hút thuốc lá liên miên; cử chỉ, nói năng có vẻ từ tốn hơn nhưng lại rất nhạy cảm. Có một tối hai bố con ngồi tâm sự với nhau rất khuya, sau khi bạn bè nó đã ra về; khi những chai bia cuối cùng được hai bố con chia đều thanh toán. Giọng nó chùng xuống bùi ngùi nói về vài người bạn chiến đấu đã vĩnh viễn không thể trở về! Những người này, trong vài trường hợp khác nhau, đã ngã gục trong tầm mắt đau đớn của nó mà không ai có thể làm gì hơn trong những hoàn cảnh quá bất ngờ như vậy! Nó nói những lúc như vậy nó thực sự không còn biết ai là ai, chính nghĩa, tà nghĩa gì hết ráo, nó ao ước được nổi điên lên, muốn gầm thét, muốn tiết hận vì lòng thương xót bạn bè... vậy mà đành ngồi chết lặng nhìn bạn mình gục chết bằng đôi mắt mở toang ứa máu! Nó cũng nhắc đến những người bạn khác đã bị thương tật trong những cuộc hành quân tảo thanh hoặc để bảo an dân chúng. Nó cảm thấy nó quá may mắn được trở về với nguyên vẹn hình hài dù tinh thần nó vô cùng sa sút... “Thằng lính” tỏ vẻ phiền muộn về chiến trường, nơi mà bạn và thù không rõ mặt; nơi mà giặc thù dùng tất cả những thủ đoạn dã man, hèn mạt kể cả việc sử dụng đàn bà con nít cho những tín điều ngu xuẩn; nơi mà mỗi người lính Mỹ luôn luôn ý thức rằng mình là những tấm bia di động từ những phút giây đầu tiên ra khỏi căn cứ!

Hắn chia sẻ với con những kinh nghiệm chiến trận bản thân, những đớn đau tương tự cho bạn bè hy sinh trong trận chiến, nhất là lần hắn đã phải nuốt lệ, vắt tim trút hết hỏa lực lên đầu của đơn vị anh mình khi căn cứ của anh bị giặc thù tràn ngập! Hắn vừa kể vừa thấy hiển hiện trước mắt qua màn lệ mỏng sự kiện đã gần 33 năm qua! Hắn cũng chia sẻ với con về những khó khăn tương tự cho những người lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam năm xưa. Hắn có nhắc tới vụ Mỹ Lai, nơi mà một đại đội lính Mỹ đã tàn sát cả một làng gần 400 nhân mạng, kể cả đàn bà con nít. “Thằng lính” nói rằng nó hiểu được cái động cơ của việc làm tàn ác đó, nhưng tàn sát từng đó người để trả thù là một hành động dã man, là những người lính vô kỷ luật, thiếu nhân tính, rất đáng trách phạt tối đa. Hắn công nhận điều nhận xét của “thằng lính” rất chí lý nhưng so với việc tàn sát hơn sáu ngàn thường dân vô tội ở Huế, trong dịp Tết Mậu Thân, của Việt Cộng, chưa kể những vụ giết người hàng loạt trong cùng thời điểm trên khắp miền nam Việt Nam, là cả một trời khác biệt! Một người lính Mỹ giết một người ngoại quốc trên chiến trường với tội danh không rõ đã là một hành động không thể tha thứ rồi, huống chi cùng đồng bào với nhau mà có thể lang sói đến độ thảm sát một tập thể khổng lồ như vậy chỉ để phục vụ cho những tham vọng điên cuồng của người Cộng Sản!

“Thằng lính” thật sự “shocked” khi biết chi tiết này. Nó bảo có loáng thoáng nghe qua nhưng không thể tưởng tượng cái độ dã man, tàn ác như vậy hiện hữu!

- Nếu có thì giờ con lên net truy tìm hồ sơ Mậu Thân Offensive, về chiến tranh Việt Nam của nhiều tác giả ngoại quốc thì con sẽ hiểu rõ tại sao hơn hai triệu người Việt phải đau lòng bỏ nước ra đi, tại sao chúng ta có mặt trên đất nước này. Ba vô cùng thông cảm tâm tư của con, những điều Ba nói cho con hôm nay là nói với một người trưởng thành, là một người có trách nhiệm và hiểu biết để con thấy rằng Ba và nhiều bạn bè, nhiều người Việt lưu vong đã và đang sống với những ẩn ức kinh mang như vậy suốt ba mươi mấy năm qua! Nhưng con ơi, đời sống vẫn phải tiếp tục đi tới vì trái đất vẫn quay và ngày mai mặt trời sẽ mọc, chúng ta không thể ngồi một chỗ để đau thương, để phẩn hận.

- Con cám ơn Ba đã cho con biết nên làm gì, nghĩ gì mà những người counselors con gặp qua không nói được!

Tự dưng hai bố con không hẹn mà cùng đưa tay đập đập lên vai nhau như an ủi, như thông cảm! Đêm lắng xuống thật sâu, thật yên tĩnh. Bố con “thằng lính” ôm chặc nhau để chia sẻ với nhau những đau thương mất mát trong đời…

Những ngày vui bao giờ cũng qua rất mau! Mới đó mà “thằng lính” đã tiêu xài hết bốn tuần phép một cách hào phóng. Trước ngày đi vài hôm, “thằng lính” được dì Châu, chị của mẹ nó, mời tham dự buổi tiệc mừng xuân của nhóm “Hi Neighbor” ở Kingwood Country Club. Nhóm hầu hết là các bà Mỹ trắng trung lưu trở lên, trong đó có vài người Á châu mà dì của nó là một hội viên năng động. Dì Châu được nhóm yêu cầu đứng ra tổ chức Tết theo truyền thống Á châu. Dì Châu muốn giới thiệu tập tục, văn hóa ngày Tết của người Việt nên đã mời nhóm sinh viên Việt Nam thuộc các trường Đại học Houston trình diễn những màn ca vũ nhạc và múa Lân rất đặc sắc. Các em sinh viên đã làm cả hội trường gần hai trăm người nhiệt liệt tán thưởng và tỏ lòng biết ơn bằng những bao lì xì màu đỏ thẵm và những tràng pháo tay không dứt. Khi phần trình diễn chấm dứt, dì Châu lên sân khấu cám ơn Nhóm đã cho cơ hội giới thiệu văn hóa và tập tục ngày Tết của ngươi Việt Nam. Sau cùng, Dì đặc biệt giới thiệu người khách danh dự trong buổi tiệc là một công dân của Kingwood và là một “hero” vừa trở về từ chiến trường Iraq sau 15 tháng phục vụ. Đặc biệt người khách danh dự này lại là “cháu của tôi”! Giọng của Dì xúc động và cả hội trường đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng! “Thằng lính” bị bất ngờ nên có vẻ lúng túng, ngượng nghịu đứng lên, cúi đầu chào mọi người trong khi hắn cúi xuống xúc động tới ứa nước mắt!

Vài ngày sau khi “thằng lính” trở lại đơn vị, Mẹ của nó đã nhận một email ngắn gọn nhờ chuyển cho dì Châu để cám ơn dì Châu và nhờ dì chuyển đạt đến mọi người trong Nhóm:

“Con xin cám ơn dì Châu về tình thương yêu dì dành cho con, và cám ơn dì đã trang trọng giới thiệu con với Nhóm Hi Neighbor trong buổi tiệc Mừng Xuân ở Kingwood Country Club vừa qua. Con đã vô cùng ngạc nhiên để được giới thiệu và xúc động trước tấm chân tình của mọi người dành cho con hôm đó. Con nhờ dì chuyển lòng biết ơn của con đến mọi người. Chúng con, những người lính chiến, rất thường nghe sự tán dương và lời cám ơn của các cấp trên nhưng rất ít có dịp nghe từ những người mà chúng con thề phải bảo vệ (We, as soldiers, often hear praise and thanks from our superiors, but not often enough from those whom we’ve sworn to defend). Thành thực mà nói, nghe những tràng pháo tay nồng nhiệt và nhìn thấy những nụ cười thân thiện làm cho con thấy vô cùng hãnh diện để phục vụ đất nước tuyệt vời của chúng ta (made me extremely proud to serve our wonderful country). Một lần nữa con xin chân thành cảm tạ”

Hôm nay đã hơn nửa tháng Hai rồi, và “thằng lính” cũng đã cho biết sẽ có mặt ở nhiệm sở mới, miền Nam nước Đại Hàn, vào đầu tháng Sáu! Hắn buông viết, thở ra một hơi dài, mỉm cười đứng dậy ra ngoài sân đốt cho mình một điếu thuốc lá. Hắn không còn hút nhiều thuốc lá như những năm xưa, chỉ lâu lâu mới cầm điếu thuốc trên tay để theo khói thuốc quay về khung trời xưa cũ tìm lại những kỷ niệm một đời người, để tưởng tiếc tuổi ấu thơ đã cất cánh bay xa! Bên ngoài hơi lạnh gây gây, trăng 18 đã nhô lên khỏi rừng thông, sáng rực rỡ soi rọi tấm lòng của một người cha với nhiều trăn trở. Hắn hút một hơi dài rồi thở khói thành vòng tròn quen thuộc nối đuôi nhau bay lên cao xa dần, xa dần… Hắn dõi mắt theo làn khói mỏng về phía trời xa, nơi mà “thằng lính” có lẽ đang ngon giấc, phiêu bồng trong giấc mộng mơ về một nơi chốn chưa từng đặt chân qua!

Viết ở rừng Kingwood
Tháng Hai 2008

.

TRỞ VỀ ĐẦU TRANG

Buồng chuối Mễ.

Nguyễn Thị Ngọc Khuê – Ký


Buồng Chuối MễKhi tôi dọn lại chung cư này thì đã có sẵn một bụi chuối ai đó đã trồng từ lúc nào rồi. Vì không ai chăm sóc nên cành lá úa vàng xác xơ. Tôi thấy tội nghiệp nên đi mua một ít phân, ngày ngày chăm bón tưới nước cho bụi chuối tốt tươi.Không biết trải qua bao nhiêu tháng, bụi chuối của tôi cao lên xanh mướt, ngày nào tôi cũng ngắm. Nhìn bụi chuối, tôi hình dung cả vườn chuối của nhà tôi ở thành nội Huế hồi xưa lúc tôi còn nhỏ. Ba tôi trồng rất nhiều loại chuối. Bên giếng nước phía trước nhà là bụi chuối thanh tiêu. Loại chuối này không to như trái chuối già, nhưng mỗi lần ăn vừa lột vỏ là mùi hương nồng nàn cánh mũi. Tôi thích loại chuối này vì nó vừa có hương thơm ngát, vừa gợi cho tôi 2 câu thơ của bà Hồ Xuân Hương mỗi lần nghe mưa rơi trên tàu chuối:Thánh thót tàu tiêu mấy giọt mưaKhen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.Quanh vườn ba tôi trồng rất nhiều chuối mật. Người Huế thường gọi là chuối mật mốc, có lẽ vì khi chín nó có những chấm mốc đen trên vỏ và chuối càng chín thì vỏ càng mỏng, càng ngọt đậm đà.Nói đến chuối mật tôi lại nhớ ngoại tôi. Mỗi năm, vào mùa hè ngoại thường ép chuối phơi khô. Trước khi ép, bà tước bớt phần mỏng của lớp vỏ ngoài, chừa lại lớp vỏ trong, khi đã phơi khô rồi, ăn trái chuối, cứ tưởng như ăn trái hồng khô, ngọt lịm.Tôi nhớ hồi đó, đằng sau nhà tôi, ba tôi trồng những bụi chuối sứ. Khi còn nhỏ, tôi không thích chuối sứ, vì chuối này khi chín ăn nghe lạt lạt làm sao. Nhưng khi lớn lên tôi mới thấy cây chuối sứ dùng được rất nhiều việc. Trong một dĩa rau sống mà thiếu món chuối chát (trái chuối sứ còn xanh) sẽ không còn hương vị, nhất là khi ăn những món như lươn, ốc. Bắp chuối sứ trộn gỏi gà là hết xẩy! Đó là chưa kể lúc ăn Bún bò Huế, hay mì quãng, không có bắp chuối là không ngon. Lá chuối là món gia dụng của mỗi nhà trong những lần kỵ giỗ, đám tiệc. Tôi nhớ hồi đó, mỗi khi bên nhà thờ, họ nội, họ ngoại có đám giỗ là tôi được ăn rất nhiều loại bánh gói bằng lá chuối: bánh ít đen, bánh ít trắng, bánh nậm, bánh bột lọc...Rồi vào dịp Tết, đêm giao thừa nhà nào cũng có một nồi bánh tét, bánh chưng, không có lá chuối thì không thể gói bánh, gói tré, nem chua và chả lụa. Thân của chuối xắc thiệt mỏng, đem muối chua là một món dưa rất đưa cơm mỗi khi trời lạnh lẽo, ăn chung với cá kho hay thịt kho. Lại còn phần gốc chuối nằm phía dưới đất, ta gọi là củ chuối, đó cũng là một món ăn đở đói lòng trong thời giặc giã, cả nhà phải ăn củ chuối để sống, khi không có gạo mà ăn.
.
Mất một buồng chuối to đùng như rứa đó, ai mà không tức (và buồn) cho được? "Ôi, tưởng như ai cứa trái tim mình!" DCVOnline .
.
Trở lại khóm chuối nhà tôi tại Mỹ, không uổng công chăm sóc, khóm chuối ấy mỗi ngày lớn, cao thêm. Vượt lên trên hết là một cây chuối nằm ở mé hàng rào cuối sân nhà, sát với nhà bà Reina người Mễ ở chung cư bên cạnh. Cây chuối cao lắm, tàng lá phía trên ngang tầm với mái nhà, ngày nào tôi cũng ngắm cây chuối vừa thả hồn về với quê hương. Một hôm, tuốt trên ngọn cao, nhú ra màu hồng sẩm của hoa chuối. Tôi reo:

“Chuối đã trổ buồng” vài ngày sau, một buổi sáng tôi thấy những hoa chuối nở ra, có một con chim nhỏ, nhỏ hơn con sâu, có cái mỏ thật dài, cứ mỗi ngày bay đến sà xuống hút hết nhụy hoa.Khi cây chuối đã ra được 5 nải, ông xã tôi cắt bắp chuối đem vào. Cuối tuần ấy, nhà tôi được một bữa ăn gỏi gà thật ngon, cứ tưởng như ở Việt Nam vậy.Ba tháng sau, buồng chuối vô cùng lớn trái, tôi quên nói đây là loại chuối sứ Mễ, trái nó có vỏ dày, trên vỏ có những khía lớn nhô lên. Nhìn dáng chuối, tôi thấy hơi giống với trái chuối ở quê nhà. Có lần đi chợ Mỹ, tôi đã thử mua về loại chuối này, đợi thiệt chín, tôi nấu lên hơn nữa giờ, bên trong chuối chuyển thành màu đỏ tim tím, ăn vào lại nhớ đến những trái chuối hồi xưa tôi mua ở Bắc Mỹ Thuận mỗi lần có dịp đi ngang.
.
Tôi cũng đã bắt chước người miền Nam, có lần nấu chuối này với nước dừa nạo, bột báng, làm món chuối chưng, ăn mà nhớ quê hương miền Nam mình da diết!Phải nói là trái chuối ở nhà tôi to hơn thứ ở chợ nhiều. Hàng xóm đi qua, ai cũng trầm trồ khen. Trái càng to, sức mạnh càng làm buồng chuối oằn về phía ngoài rào nhiều hơn. Bây giờ nó thòng xuống thấp, chỉ cao hơn tôi một cái đầu, vợ chồng bà Mễ Reina mỗi khi gặp tôi, thường dặn sau này nhớ cho nó một nải, tôi đã hứa cho nó vui lòng.Mỗi ngày tôi say mê nhìn cây chuối, chuối to trái chừng nào thì lá chuối tơi tả chừng ấy, hình ảnh cây chuối gợi cho tôi chân dung người Mẹ Việt Nam trong gian khổ, người mẹ vẫn tận tụy, yêu thương con, mẹ chỉ nghĩ đến các con, cốt sao cho con được vui tươi, khỏe mạnh, đâu quản chi đến thân mình tàn tạ, xác xơ.
.
Tự nhiên, tôi nhớ câu mẹ tôi xưa thường nói: “Có con cực khổ vì con, Biết bao giờ mẹ được vuông tròn như xưa!”Tôi để ý thấy trên vỏ trái chuối bắt đầu có vài đốm đen: Chuối đã già. Tôi nửa muốn đốn cây xuống, nửa thấy tiếc vì hình tượng người Mẹ vẫn còn đậm nét trong tôi. Tôi chỉ muốn ngắm thôi.
.
Rồi một buổi sáng, tôi thức giấc nhìn ra mé hàng rào bỗng thấy buồng chuối biến mất. Ai đã ăn trộm rồi, cây chuối mẹ nằm nghiêng trơ trọi, ủ rũ như người đàn bà quằn quại trong nổi đau bị cướp mất con. Tôi buồn quá, tưởng như ai cứa trái tim mình. Phải chi mình có tiền, mua một nhà ở khu riêng biệt thì đâu có ai ăn trộm! Phải chi mình đừng qua Mỹ vào lúc tuổi già xế bóng! Mình đã qua Mỹ sớm hơn thì mình đã đi làm việc, dư sức có nhà rồi! Bây giờ, ở nhà lui cui bếp núc, có được một niềm vui nhỏ cũng bị ai đó tước đoạt! Tôi buồn đến nổi, vo gạo gạo đổ ra ngoài, lòng tôi chỉ nhớ cây chuối.
.
Hôm sau, ông xã tôi đi làm về cho hay rằng anh vừa thấy thằng Mễ sát nhà chất 1 buồng chuối lên xe, anh đến gần thì đúng là chuối của mình, anh nói: “Sao mày cắt chuối của tao?” Nó ngang ngược nói tỉnh bơ: “Tại vợ mày cho tao”. Tới đó, anh bỏ đi vào nhà. Tôi nói: “Tại sao anh không nói lại cho nó biết lỗi đã đi ăn trộm của mình”. Anh nói: “Chẳng lẻ mình đứng gây lộn với nó à”. Tôi giận lắm và muốn nói: “Anh chỉ có tài ăn hiếp tôi, rõ khôn nhà dại chợ”, nhưng tôi đã nén lòng.Nhớ lại, mới lúc qua Mỹ, gia đình tôi đã bị một vụ lừa gạt đau đớn, chung qui cũng vì tính thật thà đến độ của anh ấy.
.
Điều làm tôi bực mình là anh luôn luôn nhịn thua mọi người ngoài xã hội, ai lấn lướt anh cũng được (nhưng trong gia đình, ai mà ngược ý anh thì đừng hòng được yên).Năm ấy, lúc mới qua Mỹ, gia đình tôi được một người Việt đến lăng xăng giúp đỡ, trên danh nghĩa “Đồng hương đi trước giúp đồng hương đi sau” nên bà Hiền (tên người đó) rất được nhà tôi tin cậy. Bà ta hướng dẫn làm đơn xin Welfare, medicare, tìm chỗ mướn nhà vv...Suốt năm tháng đầu, vì không có xe, ngày nào cả nhà tôi đi bộ rã rời từ chỗ làm về nhà. Thấy nhà tôi băn khoăn tìm mua xe, bà Hiền giới thiệu một người có xe bán. Vì tin bà Hiền, tin luôn người bán, ông xã tôi vội mua ngay chiếc xe, mặc cho tôi và các con tôi ngăn cản. Vừa mua một tuần, thì xe hư, không chạy được nữa. Tìm người bán thì đã trốn mất tiêu. Té ra họ phe với nhau để gạt mình! Đem đi sửa mấy lần cũng không ổn. Thế là bao nhiêu tiền dành dụm suốt mấy tháng đi may và cắt chỉ đã tan thành... sắt phế thải.
.
Trở lại chuyện buồng chuối. Mấy ngày sau đó, tôi vẫn còn tức ông xã tôi đã nhịn thua thằng Mễ hằng xóm. Tôi định bụng nếu gặp tụi nó, tôi sẽ mắng một trận cho hả. Nhưng có điều tôi chưa quên: Tôi mới qua Mỹ, tiếng nước này chưa rành, mà tụi thằng Mễ, cũng không biết nhiều tiếng Mỹ, Tôi phải làm sao đây? Một buổi sáng, tôi gặp lại tụi nó. Từ xa, cả hai đứa thấy tôi bèn cúi đầu xuống. Tôi cũng làm mặt giận, ngó lơ không thèm chào như mọi khi.Qua tuần sau, một hôm tôi nghĩ: Loại chuối này, người ta bán ở chợ có 3 pound giá 1 đồng. Có đáng gì đâu mà tôi phải buồn, giận, tiếc...
.
Giữa một cây chuối và một người chồng bao nhiêu năm ở tù về, ta quý bên nào hơn? Thằng Mễ dù có trộm buồng chuối nhưng có ai xóa được hình tượng người mẹ ôm con trong lòng tôi. Giữa cảnh đời này, tất cả rồi cũng tan đi, hơi đâu ôm mãi một chuyện trong lòng, thật lãng nhách. Tự nhiên, tôi thấy lòng nhẹ nhàng. Tôi thực sự đã quên!
.
DCVOnline

Saturday, May 30, 2009


NHỚ NGÀY QUÂN LỰC



CÁM ƠN ANH : NGƯỜI LÍNH VNCH
HỒ ĐINH



Viết từ KBC 4424 – 3435 và 4608




Như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói ‘ Đất nước còn thì còn tất cả ‘


Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào Miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền làm dân, khi chính phủ và quân lực VNCH không tồn tại, để bảo vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và trăm ngàn chiến cuộc, khắp mọi nẽo đường đất nước, cho tới ngay 30-4-1975 bị rã ngủ theo lệnh buông súng đầu hàng.
.
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, qua các cuộc bình Chiêm, phá Tống-Nguyện-Minh-Thanh, khiến các nước lân bang Lào, Miên và cả Xiêm La phải kinh hồn bạt vía. Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lac, chúng ta dù được sinh vào thế hệ nào chăng nửa, ra đời trong nước hay nơi hải ngoại, vẫn luôn ngưỡng mộ và hãnh diện, về công đức vĩ đại của tiền nhân, trong đó miên viễn quân đội bao đời, Với ý nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cọng sản đệ tam quốc tế, do Việt Cộng Bắc Việt đảm nhận. ĐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ, của quân đội MIỀN NAM, chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền-Nhân, không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ. .
.
Cho nên, đây không phải là một cuộc chiến giữa CỌNG SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ, như giới truyền thông phương Tây, thời đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự thật, mục đích đầu độc dư luận thế giới, làm giảm uy tín của QLVNCH. Có như thế, Cộng Sản và phe ta trốn quân dịch, mới vừa chửi Mỹ , vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cộng sản tại Đông Nam Á, tức Bắc Việt có một chính nghĩa lý tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước.Đây cũng chính là nổi thảm thê chất ngất của người Lính Miền Nam, trong hai mươi năm khói lửa.
.
Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ đoạn con buôn quốc tế, tất cả đã dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút tình quân-dân, cá-nước Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải trực diện với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu trong da thịt. Còn sau lưng bị thọc bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với đại bàng, luôn rình rập để phản bội và bán đứng.
.
Mới đây có Nguyễn Thuỳ và Vũ Ngọc Tiến, đã dùng bút vẽ lên bức tranh vân cẩu của cuộc chiến vừa qua, cho ta thấy chỉ có Bộ Đội Bắc Việt hay Việt Cộng, vì thèm khát đàn bà, nên chỉ có chúng mới hãm hiếp phụ nử, chứ người lính VNCH đâu có lý do gì, để mà cuồng dẩm cả xác chết của nử cán bộ VC ?Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tròn bổn phận cùng trách nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT.Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.
.
Sau đó, cọng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn vàng y, của quốc gia, được Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào, mà trong số này, có nhiều mẹ chiến sỉ, đã từng nuôi dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời gian chiến tranh.
.
Ngoài việc cầy mồ người chết để trả thù bị thua VNCH trên chiến trường, VC còn hành hạ những phế binh, cô nhi tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch ‘ đuổi tận, giết tuyệt ‘ các thành phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Địa Phước Bình, Sài Gòn.Thì ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng đất nước, mục đích cũng chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời gian, hằng ngàn huyền thoại về ‘ Người Bộ Đội Miền Bắc, Vượt Trường Sơn Vào Nam Đánh Mỹ Cứu Nước ‘, đã theo lớp son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan biến theo lớp sóng phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ.Ba mươi mốt năm tan hàng rã ngũ, quân-dân Miền Nam đã lần lượt đồng hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên thễ xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần cuả người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ.
.
‘ dấu binh lửa nước non như cũ
kẽ hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu, tóc đã điểm
.
- TỪ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA TỚI QUÂN LỰC VNCH :

Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, sau khi bị Hoa Kỳ , thả hai trái bom Nguyên Tử xuống hai thành phố Trường Kỳ và Quang Đảo. Lợi dụng thời cơ trên, quân viễn chinh Pháp theo quân Anh-Ấn xâm nhập VN, chiếm Sài Gòn và Nam Kỳ. Ngày 2-9-1945, nhờ lực lượng OSS (tiền thân của CIA) giúp súng đạn, nên chỉ có một nhóm rất ít cán bộ cọng sản, đã áp đảo khủng bố được đồng bào, để cướp chính quyền của quốc gia lúc đó, đang bị Pháp-Nhật và quan lại Nam Triều, quăng bỏ lăng lóc một cách tội nghiệp, thê thảm bên vệ đường tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
.
Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và đảng Việt-Cộng mới có cơ hội, cho quân viễn chinh Pháp từ trong Nam, đổ bộ lên đất Bắc, lúc đó đang do quân Trung Hoa đóng, theo lệnh của Liên Hiệp Quốc, để giải giới quân Nhật từ vỹ tuyến 16 trở ra.
.
Theo mọi nguồn sử liệu còn lưu trữ, thì chính Hồ Chí Minh cùng Pháp, đả đồng thuận dựng lên một vở tuồng, trong đó Pháp đã mớm lời cho Hồ Chí Minh kêu gọi TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN chống Pháp vào năm 1946. Có kêu gọi, thì Hồ Chí Minh và đảng cọng sản mới nhập nhằng hợp thức hoá, vai trò lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh và đất nước. Rồi vì toàn dân VN nổi lên kháng chiến, nên thực dân Pháp mới có đủ lý do đem quân từ Nam Kỳ ra Bắc Việt, cũng như biện minh với thế giới về chính sách thực dân của mình, trong khi nhân loại đang tìm đủ mọi cách xóa bỏ.
.
Cũng từ đó, người VN khắp mọi miền đất nước, thay vì đoàn kết chống thực dân, lại chia rẽ thành các khuynh hướng chính trị khác nhau, khiến cho máu dân Việt lại tiếp tục đổ, để cho màu cờ của đảng cọng sản thêm rực rỡ màu máu.
.
Trong giai đoạn lịch sử này, hai Lực Lượng Quân Sự của Người Việt đã thành hình. Đó là Mặt Trận Việt Minh, một phong trào kkáng chiến chống Pháp, của Tập Thể Người Việt yêu nước, bị Hồ Chí Minh và đảng cọng sản đệ tam núp bóng, khống chế bằng chủ thuyết Mác-LêNin.Lực lượng thứ hai gọi là ‘ Quân đội Quốc-Gia ‘, thực chất cũng chỉ là mượn màu da thay xác chết, bị thực dân Pháp và các lãnh tụ chính trị áp đảo, lợi dụng.Tóm lại người Việt lúc đó, cho dù có chiến đấu trong hàng ngũ nào chăng nửa, cũng chỉ tốn xương máu vô ích mà thôi, vì chỉ để phục vụ cho các chủ thuyết chính tri quốc tế mà thôi.
.
Về sự thành hình của Quân Đội Quốc Gia cũng vô cùng phức tạp nhưng cũng có thể tóm tắt qua bốn lý do chính sau đây :
.
+ PHÁP LỢi DUNG THÀNH PHẦN HỢP TÁC CŨ :
Ngay khi đặt được chân vào Sài Gòn sau tháng 9-1945, nhờ sự giúp đỡ của quân Anh-Ấn, tới VN giải giới quân Nhật. Thực dân đã sử dụng ngay các thành phần cộng tác cũ như công chúc, hương chức, quan lại, kỳ hào, lính khố xanh khố đỏ, các dân tộc thiểu số Thái, Mường, Nùng, Thổ, người Thượng cao nguyên Trung Phần, người Chàm, Khmer..để hình thành một Lực Lượng Thân Binh. Chính những người này, mới là lực lượng quân sự đầu tiên chống lại cọng sản đệ tam quốc tế, qua bình phong Việt Minh, vì họ bị kết tội là Việt Gian, luôn bị Việt Cộng đuổi giết tận tuyệt., dồn sát vào chân tường, nên phải chống lại vì không còn con đường nào lựa chọn..
.+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY NGƯỜI QUỐC GIA THEO PHÁP :
.Ngay khi Pháp được Hồ Chí Minh cho đổ bộ lên đất Bắc, thế chân quân Lư Hán của Trung Hoa. Lúc đó, cọng sản đang núp bóng Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh, để được độc quyền lèo lái toàn dân và đất nước VN vào quỹ đạo của chủ nghĩa Lê-Mác. Ai cũng biết Việt Minh là tố chức chống Pháp của cả nước, bao gồm mọi đảng phái chính trị, chứ không phải của riêng đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Ngoài ra,các lực lượng quốc gia cũng đang cùng VC hợp tác chung trong Chính Phủ Liên Hợp, để chống ngoại xâm.Do đó, để độc quyền, độc đảng, Hồ Chí Minh và đảng cọng sản đã thẳng tay tiêu diệt các đảng phái và những ai đối lập. Do sự khủng bố trên, lực lượng quân sự thuộc các đảng phái quốc gia trong mặt trận Việt Minh, phải tách rời đề sống còn. Đây là một trong những thành phần chống lại cọng sản quyết liệt, trong Chính Phủ Bảo Đại từ sau năm 1946-19
.
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI TÔN GIÁO VN, THÀNH THÙ ĐỊCH :
Với chủ trương hủy diệt mọi tôn giáo, Việt Minh qua cọng sản Hà Nội, đã xô đẩy các tín đồ Phật, Thiên Chúa giáo nhất là hai giao phái Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài , trở thành những lực lượng đối nghịch chống lại cọng sản.
.
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI THÀNH PHẦN XÃ HỘI VÀO HÀNG NGŨ QG
.
Việt Minh qua sự khống chế của Đệ tam cọng sản quốc tế, đã dùng bạo lực để tiêu diệt mọi thành phần đối tượng xã hội như trí thức, địa chủ, tiểu tư sản, thợ thuyền..qua các chiến dịch gọi là Diệt Tề và Phản Động, khiến cho một số lớn thanh niên nam nữ, đang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh, đã bỏ về vùng Pháp chiếm đóng.Như vậy tất cả bốn lực lượng trên, đều chung chủ trương chống lại cọng sản đệ tam, bắt đầu tư năm 1957. .
.
Thực tế lực lượng quân sự của Quốc Gia VN, được chính thức thành lập ngày 11-5-1950, cho tới khi ký kết Hiệp Định ngưng bắn Genève năm 1954, vẫn trực thuộc Pháp.Tháng 7-1954 chia hai đất nước, cho tới 12 giờ trưa ngày 30-4-1975, VNCH được độc lập. Ngày 19-6-1965 được chính phủ Miền Nam, chọn làm ngày QUÂN LỰC, và được tổ chức kỷ niệm hằng năm , kể cả 31 năm sau ngày rã ngủ.
.
Cũng từ đó, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lớn mạnh và trưởng thành , thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang, Nhờ vậy trong suốt hai mươi năm lửa binh tàn khốc, người lính Miền Nam mới có đủ can trường, để chiến đấu và hy sinh, trong nhiệm vu bảo vệ đất nước và tài sản của đồng bào, trước sự xâm lăng của cọng sản.
.
Tóm lại nếu không bị Mỹ và bọn trí thức thiên tả của Miền Nam bán đứng, chắc chắn VNCH, cũng như Tây Đức, Nam Hàn và Đài Loan, không bị mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975. Người VN sẽ không bị tủi nhục vì kiếp đầu đường xó chợ, qua thân phận tị nạn, lao động, ban dâm và làm dâu bất đắc dĩ khắp chân trời góc biển
.
2 – QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA :
Lãnh thổ VNCH được chia thành bốn vùng chiến thuật và một biệt khu thủ đô. Tính tới ngày ký Hiệp Định ngưng bắn tháng 2-1973 tại Paris, QLVNCH có 220.000 Chủ-Lực quân, gồm Mười Một Sư Đoàn Bộ Binh, mang số 1,2,3,5,7,9,18,21,22 và 25. Ngoài ra còn có Hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị là SD.Nhảy Dù và SD.Thuỷ Quân Lục Chiến, mười lăm Liên Đoàn Biệt Động Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm 3 Tiểu Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
.
+ CÁC QUÂN BINH CHỦNG YỂM TRỢ :* PHÁO BINH :


Gồm 66 Tiểu Đoàn và 164 Trung Đội Pháo Biệt Lập, với 1.492 khẩu pháo đủ loại (105-155-175 ly) và bảy Tiểu Đoàn Pháo Binh Phòng Không.
.
*THIÊT GIÁP :

Gồm 22 Thiết Đoàn và 51 Chi Đoàn Thiết Giáp Biệt Lập, sử dụng 2074 Xe Bọc Sắt đủ loại như M113,114 Thiết Vận Xa và Chiến Xa M41, 48.
.
*KHÔNG QUÂN :
.
Có 6 Sư Đoàn Chiến Thuật với quân số cơ hữu trên 41.000 người, được phân phối như sau : Sư Đoàn 1 Không Quân ở Đà Nẳng, SD 2- Không Quân ở Nha Trang, Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Hòa, Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ, Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài Gòn và Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku. Không Quân có 66 Phi Đoàn gồm 22 Phi Đoàn Chiến Đấu với 510 Phi Cơ đủ loại, trong số này có 30 chiếc Phản Lực Cơ tối tân F.5E. Ngoài ra còn 25 Phi Đoàn Trực Thăng Võ Trang với 900 chiếc, năm Phi Đoàn Vận Tải với 80 phi cơ từ C47,Dakota,C123,C130 và Mười Bốn Phi Đoàn Trinh Sát với 360 Trinh Sát Cơ.Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân tại Nha Trang, rất nổi tiếng. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ loại của KQ.VNCH bay sang đươc Thái Lan và một số ít trực thăng, bay ra các chiến hạm Mỹ ơ Biển Đông.
.
+HẢI QUÂN :
.
Tính đến năm 1975, quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 Vùng Duyên Hải, Hai Vùng Sông Ngòi và Một Hạm Đội Tuần Duyên có 83 Chiến Hạm đủ loại. Hải quân có bốn Lực Lượng Đặc Nhiệm, thuộc Hành Quân Lưu Động Sông : Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212 Tuần Thám, Lực lượng 214 Trung Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm. Ngoài ra còn có Lực Lượng 213 Duyên Phòng, Liên Đoàn Tuần Giang, 28 Duyên Đoàn, 20 Giang Đoàn Xung Phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, trong đó Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan Hải Quân
.
*CƠ CẤU TIẾP VẬN:
Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận tại các Quân Khu, riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui Nhơn và BCH5 đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ rút về nước.Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài Gòn, gồm các cơ cấu như Cục Quân Y, Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công binh. Tất cả có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như các Tiểu Khu, Quân Trường.Ngoài các lực lượng chính quy trên, còn có thêm 140.000 Địa Phương Quân, được tổ chức thành 367 Tiểu Đoàn và 85 Đại Đội Biệt Lập. Tất cả cá đơn vi Địa Phương Quân được đặt dưới quyền sử dụng của Tiểu Khu Trưởng, Chi Khu Trưởng.Từ sau Tết Mậu Thân 1968, nhiều quân nhân Bộ Binh cũng như các đơn vị tổng trừ bị, được thuyên chuyển vì lý do gia cảnh về nguyên quan. Do đó, nhiều Tiểu Đoàn DPQ tại Quảng Nam, Bình Thuận, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An..đã chiến đấu kiêu dũng, hào hùng không thua kém bất cứ một đơn vị nào của QLVNCH.
.
+ CÁC QUÂN TRƯỜNG VÀ ĐẠI ĐƠN VỊ NỔI TIẾNG CỦA QLVNCH :
* SƯ ĐOÀN NHẢY DÙ:
.
Là một trong những đại đơn vị hàng đầu và kiêu hùng của QLVNCH. Binh chủng Nhảy Dù rất có kỹ luật, kỷ cương nên được sự mến mộ của đồng bao Miền Nam trong suốt cuộc chiến. Đơn vị này chính thức được thành lập ngày 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm các Tiểu Đoàn 1, 3,4,5,6,7 do Thiếu Tá Đổ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng.Ngay khi trở thành đơn vị chiến đấu nòng cốt của VNCH, Nhảy Dù đã nhập cuộc, đánh tan lực lượng phản loạn của Bình Xuyên tại Sài Gòn-Chợ Lớn, cuối cùng tiêu diệt chúng tại sào huyệt ở tận Rừng Sát (Phước Tuy).
.
Ngày 26-10-1959, Nhảy Dù được nâng từ Liên Đoàn lên Lữ Đoàn và do Trung Tá Nguyễn Chánh Thi, làm Lữ Đoàn Trưởng.Do nhu cầu cuộc chiến càng lúc càng sôi động và leo thang, kể từ ngày 1-2-1965, lần nữa Nhảy Dù lại được nâng lên cấp Sư Đoàn, với đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị tác chiến tới yểm trợ. Sư Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù, Một Tiểu Đoàn Công Binh, Một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội Trinh Sát, Điện Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh Nhảy Dù là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng.Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng. Chính Đơn Vị này, đã cùng với Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đánh những trận cuối cùng tại vùng ven đô và ngay trong thành phố Sài Gòn, giống như các chiến sĩ của SD18BB tại Xuân Lộc, làm vỡ mật quân xâm lăng Bắc Việt, trước khi Miền Nam bị sụp đổ.
.
* SƯ ĐOÀN THỦY QUÂN LỤC CHIẾN:
Từ ngày thành lập cho tới khi rã ngủ, binh chủng TQLC đã cùng với Nhảy Dù, Biệt Cách và Biệt Động Quân, vẫy vùng khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại biên. Chính các điạ danh Đầm Dơi (An Xuyân), Thành phố Huế, quốc lộ 9 và nhất là Cổ Thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị)..đã đưa tên tuổi người lính TQLC/VN vào quân sử, hãnh diện đứng ngang hàng với các quân binh chủng thiện chiến nhất trên thế giới.Binh chủng TQLC được chính thức thành lập vào tháng 10-1954, với quân số nồng cốt được tuyển chọntừ mọi binh chủng như Hải quân, Bộ binh và Biệt Kích. Với quân số ban đầu chừng 2400 người, TQLC thành lập Tiểu Đoàn 1 và các Đại Đội Biệt Lập. Chính Tiểu Đoàn 1/TQLC vào năm 1959, khi được Tổng Thống Ngô Đình Diệm, giao cho trọng trách, trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Nhờ vậy đơn vị này mới có cơ hội đánh đuổi Hải Quân Trung Cộng tới chiếm quần đảo trên, khi Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, ký bán lãnh thổ VN cho Tàu vào năm 1958.Từ đầu năm 1961, TQLC được tăng quân số lên 3321 người, chia thành bốn Tiểu Đoàn và các đơn vị yểm trợ, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 1-1-1962 được nâng thành Lữ Đoàn, có quân số 5483 người. Trong dịp Việt Nam hoá chiến tranh, TQLC được nâng thành Sư Đoàn hơn 11.000 người, từ năm 1969 tới khi tan hàng. Tư lệnh cuối cùng của binh chủng này là Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
.
* BIỆT ĐỘNG QUÂN:
Trong các đơn vị tổng trừ bị của QLVNCH, binh chủng Biệt Động Quân bị thiệt thòi nhất, từ cơ cấu tổ chức cho tới vấn đề biệt phái xử dụng. Nguyên do vì BDQ không có Bộ Tư Lệnh mà chỉ có Bộ Chỉ Huy, qua các vị Chỉ Huy Trưởng như Thiếu Tá Phan Trong Chinh, Đại Tá Lam Sơn, Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Đại Tá Trần Văn Hai, Đại Tá Trần Công Liễu và Thiếu Tướng Đổ Kế Giai. Những ngày cuối cùng tháng tư đen, BDQ được nâng thành Sư Đoàn .BDQ được thành lập năm 1960, là một binh chủng biệt động cảm tử, nên được sử dụng tối đa trong các cuộc hành quân trực thăng vận, nhảy vào tận sào huyệt của VC, tại căn cứ hậu cần và mật khu, khắp bốn vùng chiến thuật. Từ ngày thành lập tới khi rã ngủ, BDQ có 15 Liên Đoàn gồm 45 TD chiến đấu.BDQ có hai trung tâm huấn luyện tâi Trung Hòa (Củ Chi-Hậu Nghĩa) và Dục Mỹ (Khánh Hòa). Đây chính là lò luyện thép, huấn luyện tân binh cùng với các Khoá học về Rừng Nuí Sình Lầy-Biệt Động, cho các cấp Hạ Sĩ quan và Sỉ Quan/QLVNCH. Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), dân chúng sống ở Vùng 4 Chiến Thuật, không ai là không biết tới uy danh lừng lẫy của những Con Cọp, thuộc các Tiểu Đoàn 41,42,43 và 44 BDQ. Năm 1967, Tiểu Đoàn 37 BDQ là đơn vị duy nhất của QLVNCH, được biệt phái cho Hoa Kỳ, để trấn giữ căn cứ Khe Sanh. Trong suốt thời gian chiến đấu, TD này đã giữ vững phòng tuyến, dù bị bắt làm tiền đồn và bị cọng sản tấn công biển người.Sự kiện trên, đã làm cho các quân nhân Hoa Kỳ thêm kính nể QLVNCH. Ngoài ra, hai Tiểu Đaòn 21 và 39 BDQ thuộc Liên Đoàn 1/BDQ cũng là những đơn vị thiện nhất của binh chủng, làm rạng rỡ màu mủ nâu, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 và tại mặt trận Sa Huỳnh (Quảng Ngải) năm 1973. Riêng TD 43 BDQ là đơn vị cuối cùng, tử thủ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tới trưa 30-4-1975, mới buông súng rã ngũ khi có lệnh bắt đầu hàng.Từ năm1966, binh chủng BDQ cải tổ và thành lập các Liên Đoàn, đặt trực thuộc Quân Đoàn. Ngày nay khi nhớ về binh chủng, những quân nhân các cấp của BDQ luôn hãnh diện vì đã làm xong trách nhiệm đời trai. Nhiều cấp chỉ huy của binh chủng, đã đi vào quân sử như Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Võ Vàng, Thiếu Tá Trần Đình Tự..
.
* LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT:
Chính thức thành lập từ năm 1957 cho tới ngày 1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, gồm ba cơ cấu : Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở Nam (sau đổi thành Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.Sở Bắc đặc trách chiến lược tình báo ngoài lãnh thổ VNCH. Sở Nam trách nhiệm tình báo trong nước. Các Toán LLDB còn được gọi Biệt Kích hay Biệt Cách. Đây là những đơn vị cảm tử, chuyên hoạt động sâu trong vòng địch đóng, không được quân bạn yểm trợ, nên mọi trường hợp nguy cấp, người Biêt Kích Quân, phải tự mưu sinh để sống còn. Từ năm1966, Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ lực lượng Dân Sự Chiến Đấu (Mike Forces) cho Bộ Tư Lệnh LLDB/VN. Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước, nên quân số LLDB đã có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 Trại Lực Lượng Đặc Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên. Đây chính là những chướng ngại vật của cộng sản Bắc Việt, trên đường xâm nhập vào lãnh thổ VNCH. Vì vậy từ năm 1965 về sau, nhiều trận đánh đẫm máu giữa bộ đội Hà Nội và LLDB tại Pleiku, Ben Het, Đức Cơ, Dakto, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Tống Lê Chân, Kàtum, Bến Sỏi..Bắt đầu từ năm 1970, các trại LLDB tại vùng biên giới bị giải tán, nên Biệt Kích Quân tại đây được chuyển sang Biệt Động Quân Biên Phòng. Riêng quân số của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được nhập chung thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, trực thuộc Phòng 3 Bộ TTM. Những ngày cuối tháng 4-75 của đất nước, Chiến Đoàn 3 của LD81 BCD về bảo vệ Bộ TTM, đã tiêu diệt nhiều tăng pháo của Bắc Việt tại Ngã Tư Bảy Hiền, Bệnh Viện Vì Dân, Lăng Cha Cả Sài Gòn. Hai câu thơ bất hủ của một cô giáo, bị kẹt lại trong Mặt Trận An Lộc vào năm 1972, đã nói lên tinh thần quyết chiến và sự hy sinh tột cùng của người chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt :
.
‘ An Lộc Địa – Sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù – Vị Quốc vong thân . ‘
.
*TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT:
.
Chính thức được thành lập tại Huế năm 1948, với nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan trung đội trưởng. Năm 1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà Lạt và đổi tên là Trường Võ Bị Liên Quân. Ngày 29-7-1959, Bộ Quốc Phòng ban hàng Nghị Định số 317, cải tổ cơ sở huấn luyện trên thành một Trường Cao Đẳng chuyên nghiệp. Theo đó các sĩ quan tốt nghiệp , ngoài căn bản quân sự vững chắc, còn có trình độ văn hóa tương đương với bậc đại học. Nhưng dù lý thuyết là thời gian thụ huấn phải đủ bốn năm và trình độ sinh viên được nhập khóa, phải có chứng chỉ Tú Tái Phần 2-ban A-B, nhưng thực tế các khóa học, cũng không đồng nhất và hoàn toàn tuỳ theo hoàn cảnh.Do đó, từ khóa 1 tới khóa 11 phụ, thời gian học chỉ trên một năm.Từ khóa 12 tới khóa 22A năm 1965, thời gian thụ huấn từ 1 năm rưởi – 3 năm.Bắt đầu khóa 22B (20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn đúng 4 năm.Kháo 28 chỉ học 3 năm rưởi.Khóa 29 học 2 năm rưởi.Khoá 30 cuối cùng, nhập học ngày 31-1-1974, tới đầu tháng 4-1975, di tản về học chung với Trường Bộ Binh Thủ Đức, được di chuyển tới Long Thành (Biên Hòa) và tan hàng. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Võ Bị là Trung Tá Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ.Tọa lạc trên dãy đồi hùng vỷ của cao nguyên Lâm Viên, ngất ngưởng giữa trời xanh lộng gió, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt bề thế, với lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các phòng ốc, thư viện và phòng thí nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách, đưa ngôi trường lên địa vị ngang hàng với các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á, cũng như trường Võ Bị West Point của Mỹ. Những thanh niên thời đại của Miền Nam VN trong cơn ly loạn, ai nấy đều ao ước được trở thành Sĩ Quan Đà Lạt, nhưng một số không toại nguyện vì sau này, điều kiện nhập học rất khó khăn. Sinh viên ngoài việc phải có chứng chỉ Tú Tài Phần 2-AB, còn phải qua một kỳ thi tuyển. Với các thiếu nữ VN, thì rất hãnh diện khi được sóng đôi với người yêu, trong bộ lễ phục Gabardine mùa đông, có màu Jasper với huy hiệu của Trường, trên cầu vai đỏ và nón két. Từ năm 1948 cho tới khi Miền Nam bị sụp đổ, Trường Võ Bị đã đào tạo được 4600 sĩ quan. Nhiều người được thăng cấp tướng, giữ các chức vụ then chốt trong quân đội cũng như các cơ cấu của chính phủ.
.
* TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC:
Từ tháng 10-1951, để đáp ứng nhu cầu chiến trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị được thành lập tại Nam Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam Phần). Chính khóa 1 SQTB đã được khai giảng cả hai nơi kể trên.Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm 1952, trung tâm Nam Định được sáp nhập vào Thủ Đức . Ngôi trường tọa lạc trên dãy đồi thấp thuộc xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Từ đó trường liên tục được xây cất và chỉnh trang, trở thành một trong những trường Võ Bị, đẹp và lớn nhất vùng Đông Nam Á.Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin , Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng danh xưng Liên Trường, vẫn còn được xử dụng, vì tại Trung vẫn có ba trường hiện diện :
.
.-Trường Bộ Binh
-Trường Thiết Giáp
–Trường Võ Thuật Thể Dục Quân Sự.
.
Chương trình huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức gồm hai giai đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn uý trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung tâm trở lại danh xưng củ ‘ Trường Bộ Binh Thủ Đức ‘.
.
Sau 24 năm hoạt động, trường đã đào tạo được 69 khóa Sĩ Quan trừ Bị, với 80.000 Sĩ Quan. Trong số này nhiều người đã trở thành tướng lãnh rất có tên tuổi như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (Tư Lệnh TQLC, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giam Đốc CSQG)…Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức , tại địa điểm củ ở đồi Tăng Nhơn Phú. Sáng 30-4-1975, xe tăng T54 của cọng sản Bắc Việt tấn công trường nhưng cả 4 chiếc đều bị sinh viên sĩ quan tiêu diệt bằng đại bác 105 bắn trực xạ cũng như M72 và lựu đạn lân tinh.
.
* TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG:
Tọa lạc tại đường Duy Tân Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới tháng 7-1955, trường mới thuộc chủ quyền hoàn toàn của VNCH.Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải có Chứng chỉ Tú Tài 2-Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên có trình độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu Úy Hải Quân. Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên HQ chỉ học 18 tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đã đào tạo được 2538 Sĩ Quan Hải Quân và 15.050 Chuyên viên Ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới 1-4-1975).
.
* LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI:
Nếu trên bộ có Biệt Kich-Biệt Cách, thì dưới nước có Người Nhái. Họ là những thanh niên thời đại, sống bằng lý tưởng nên xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, khi được giao phó những nhiệm vụ đặc biệt, vô cùng nguy hiểm như ngăn chống lại Đặc Công Thủy của Bắc Việt, vớt mìn, gở thủy lôi, cứu tù binh..Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là ‘ Liên Đội Người Nhái’, được huấn luyện tại Đài Loan. Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái Mỹ ( Seal West Coast ), phụ trách huấn luyện cho Người Nhái VNCH, tại các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn trở thành Biệt Hải, Người Nhái..các quân nhân phải trải qua nhiều khóa huấn luyện gian khổ, giống như sự đào tạo một Điệp Viên Ngoại Hạng, trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả cac loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối Cọng Sản, biết cách hoạt động, mưu sinh cũng như đào thoát , vì địa bàn hoạt động bao giờ cũng nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ. Thời gian huấn luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ Địa Ngục. Từ năm 1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người và trở thành Liên Đoàn Người Nhái , gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ Đạn Dược, Trục Vớt, Phòng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn Luyện Người Nhái và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái là Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp.
.
3- CÁC VỊ TƯỚNG LÃNH CỦA QLVNCH :
Từ ngày thành lập cho tới khi sụp đổ, QLVNCH có hơn 100 vị tướng lãnh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH. Nhiều tướng lãnh đã tử trận trước ngày 30-4-1975 như Cố Đại Tướng Đổ Cao Trí, tướng Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên, Trương Quang Ân, Lê Đức Đạt, Nguyễn Văn Hiếu. Ngày 30-4-1975, khi TT Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, các tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ ..đã lần lượt tự sát để bảo toàn danh dự quân đội và khí tiết của kẻ sĩ. Các tướng Lý Tòng Bá, Nguyễn Vĩnh Nghi,Phạm Văn Sang, Trần Văn Cẩm..bi sa cơ giữa trận, còn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, bị VC hành quyết tại Cần Thơ vào ngày 1-5-1975 vì không tuân lệnh đầu hàng.Sau đó hơn phân nửa các tướng lãnh không bỏ chạy, đều bị bắt đi tù tại các trại giam khổ sai từ Nam ra Bắc, tận biên giới Viêt-Lào-Hoa. Chịu cảnh tù tội gần 17 năm, lâu nhất là các tướng Lê Minh Đảo, Trần Quang Khôi, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Thân và Trần Bá Di.Từ ngày thành lâp cho tới khi rã ngủ ngày 30-4-1975, QLVNCH có hơn 100 tướng lãnh. Nhiều vị đã anh dũng nằm xuống giữa chiến trường như Đổ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên..hoặc bỏ xác trong chốn lao tù cọng sản tận miền biên giới Hoa-Lào-Việt. Nói chung chỉ có một số rất ít, tham sống bỏ binh sĩ thuộc cấp, đeo máy bay Mỹ chạy ra ngoại quốc để chết già chết nhục trong sự quên lãng và cười khinh của miệng đời.Nhưng may thay, giữa những kẻ hèn hạ cúi mặt ra đi, trong hàng ngủ tướng lãnh Miền Nam, còn có rất nhiều khuông mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác, nêu tấm gương bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu trí thức Hồng-Lạc và trên hết là cái TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ Huy, Lãnh Đạo : ‘Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần – Nhất tướng công thành vạn cốt khô nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành ‘. Những danh tướng VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai..ngay khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt QLVNCH buông súng, rã ngủ đầu hàng Cọng Sản Đệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh diện cho màu cờ và sắc áo của QLVNCH, mãi mãi trong dòng sử oai hùng Nước Việt
.
* THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ :
Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, từng tham gia Mặt Trận Điện Biên Phủ năm 1954. Nguyên Tư Lệnh Quân Đàn II từ 1974-1975. Viết về Tướng Phú, hầu như các sử gia cận đại trong và ngoài nước, phần nào quy trách nhiệm cho ông, trong trận Ban Mê Thuộc thất thủ vào tháng 3-1975. Kế tiếp là cuộc lui quân từ Pleiku về Tuy Hòa, trên Liên Tỉnh Lộ 7-B hoàn toàn thất bại, làm tan vở gần hết lực lượng hùng hậu của Quân Đoàn II.Hậu quả lam hằng trăm ngàn đồng bào vô tội và binh sĩ các cấp đã chết thảm trong khi di tản, vì các cấp chỉ huy cuộc lui quân từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cho tới ngoài mặt trận, chia rẽ đố kỵ, làm mất hết yếu tố thành công, khác xa với cuộc lui quân đêm 20-4-1975 của SD18BB
.
+LD1ND
+ TK.Long Khánh
+ TD82BDQ
do tướng Lê Minh Đảo đi bộ chỉ huy, trên Liên Tỉnh Lộ 2, lính và dân hầu hết đều được về tới Bà Rịa, kể cả TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế, đoạn hậu trong cuộc lui quân thần tốc này.Tự biết mình là vị tướng trấn giữ biên cương, không làm tròn trách nhiệm trước đồng bào và quân sĩ dưới quyền, tướng Phú đã khẳng khái kết thúc đời mình bằng độc dược ngày 1-5-1975, dù ông có phương tiện để chạy ra ngoại quốc như một vài tướng lãnh khác. Ông chết trước là để tạ tôi với quốc dân và trên hết là chứng tỏ với giặc Cộng, cái uy vũ của người làm tướng Miền Nam, không phải ai cũng hèn hạ như VC từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp..khi sa cơ đã tàn nhẩn bán rẽ đồng đội mình cho địch,, để đổi lấy tiền bạc và mạng sống cá nhân
.
* THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM :
Tư Lệnh quân đoàn IV tại Cần Thơ. Ông sinh trưởng trong một gia đình danh giá đạo đức tại Thừa Thiên và xuất thân từ Binh chủng Nhảy Dù. Trong cuộc đời binh nghiệp, Ông là một trong những tướng lãnh Miền Nam, cho tới ngày cuối cùng, luôn được tiếng là liêm chính, nghiêm minh và đạo đức.Ngày 30-4-1975, dù Sài Gòn bị VC tấn công tứ phía nhưng gần hết lãnh thổ Quân Khu IV, quân lực VNCH và các cấp chỉ huy tại các tiểu khu vẫn còn nguyên vẹn và giũ vững tinh thần. Khi Tổng Thống Minh nghe theo sự xúi giục của Nguyễn Hửu Hạnh và đám VC nằm vùng, bắt QLVNCH buông súng đầu hàng. Tướng Nam tuân hành theo lệnh thượng cấp và kỷ luật quân đội nhưng nhất quyết không bỏ chạy cũng chịu nhục trước giặc xâm lăng. Vì vậy ông đã dùng súng tự kết liểu đời mình, ngay trong văn phòng Tư Lệnh quân đoàn tại Cần Thơ, trong sự vô cùng thương tiếc của thuộc cấp và binh sĩ dưới quyền, trong đó có cố Đại Tá Tỉnh trưởng Chương Thiện là Hồ Ngọc Cẩn, cùng binh sĩ, không chịu buông súng đầu hàng
.
* THIẾU TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG :

Ông sinh năm 1933 tại Hốc Môn, tỉnh Gia Định. Nguyên Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó quân đoàn IV. Là người hùng, khi còn là Tư Lệnh SD5BB, đã cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, lúc còn làm Tỉnh Trưởng Bình Long, đã giữ vửng An Lộc, trong suốt 68 ngày bị 4 SD Bắc Việt vây hảm, trong mùa hè đỏ lửa 1972. Từ năm 1973, Tướng Hưng về làm Tư Lệnh SD21BB, sau đó là Tư Lệnh Phó QDIV.Ngày 30-4-1975, sau khi Dương Van Minh đầu hàng giặc, Thiếu Tướng Nam tuẩn tiết tại văn phòng tư lệnh. Tướng Hưng về nhà, từ giả thân quyến, bạn bè và binh sĩ dưới quyền, rồi tự sát lúc 8 giờ 30 tối cùng ngày, để mãi mãi cùng với các anh hùng liệt nử, đi vào thanh sử VN muôn đời.
.
* CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ :

Nguyên Tư Lệnh SD5BB, một SD dã chiến từ Bắc Việt di cư vào Nam từ năm 1955, trải qua nhiều vị tư lệnh nổi tiếng như Woàng A Sáng, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Hưng và cuối cùng là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ từ 1974 cho tới khi tàn cuộc chiến. SD5BB đã trấn giữ nhiều năm vùng đất, tuy sát nách Sài Gòn nhưng hung hiểm, bao gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Tướng Vỹ đả bảo toàn được lãnh thổ gần như nguyên vẹn, cho tới khi có lệnh đầu hàng. Noi gương tiền nhân bất khuất, trước toàn thể sĩ quan các cấp thuộc Bộ Tư Lệnh SD5BB tại căn cứ Lai Khê – Bình Dương, Tướng Vỹ đã dùng khẩu súng lục Beretta 6,35 ly, từng đeo bên mình nhiều năm, để bắn vào đầu tự sát.
.
* CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI :

Ông xuất thân khóa 7 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, sinh năm 1926 tại Cần Thơ (tài liệu của Nguyễn Thanh Vân). Ông xuất thân từ Binh chủng Biệt Động Quân và là một trong những người có công lớn, trong việc hoàn thành Trung tâm huấn luyện BDQ. Dục Mỹ năm 1961. Đây là lò luyện thép đúng nghĩa, trong việc đào tạo quân nhân các cấp của binh chủng biệt động, chuyên hành quân rừng núi sình lầy. Trước khi trở thành Tư lệnh SD7BB. Chuẩn tướng Hai, đã giữ chức Chỉ Huy Trưởng BDQ/QLVNCH, góp phần lớn trong việc đánh đuổi cọng sản đệ tam quốc tế, ra khỏi thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, trong trận Tết Mậu Thân 1968.
.
Theo bước các cấp chỉ huy tại quân đoàn IV anh hùng là Thiếu Tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng..nên ông đã tự sát tại căn cứ Đồng Tâm của BTL.SD7BB vào trưa ngày 30-4-1975. Thi hài ông đã được thuộc cấp, nhân lúc cọng sản đang say men vơ vét chiến lợi phẩm, mang về tận Sài Gòn giao cho gia đình an táng.Đúng như lời nhận xét thật vô cùng chí lý của Thiếu tướng Mỹ George Wear’ khi quân sĩ VNCH được chỉ huy bởi các cấp lãnh đạo cũng như tướng lãnh giỏi, đạo đức, thì Họ chiến đấu xuất sắc như bất kỳ một quân đội của các nước trên thế giới, mà điển hình nhất là trận đánh cuối cùng tháng 4-1975 tại Xuân Lộc-Long Khánh, đã làm cho tập đoàn lãnh đạo cọng sản, tại Bắc Bộ Phủ phải run sợ và la làng, vì bị thương vong và thiệt hại quá to lớn, hơn bất cứ một trận đánh nào đã xảy ra trong chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975).’Câu nói trên đã được chứng minh một cách trung thực về khả năng tác chiến thần thánh của QLVNCH, trong viêc ngăn chân và tiêu diệt giặc Bắc xâm lăng. Nhưng tiếc thay những bậc sĩ quan các cấp, đạo đức tài giỏi thì bạc mệnh, đa truân cũng như những cấp lãnh đạo anh minh, lại vô quyền bất lực.
.
Tình trạng VNCH như thế làm sao không mất nước vào tạy đệ tam cọng sản quốc tế, y như nước Sở thời Chiến quốc, vua u mê, quần thần xu nịnh ngu dốt, nên cuối cùng bị Tần quốc thôn tính tiêu diệt
.
.4-NHỚ ƠN ANH : NGUỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH

Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đã có 250.000 gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính , càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ , xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Đã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Đầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Đức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi , là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu..đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại.
.
Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Định Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội..mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam.
.
Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục. Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bảo tàn, độc đảng.
.
Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng.
.
Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình
.
..+ NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ĐÂM SAU LƯNG :

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất và thời gian để đâm thọt, phá hoại.Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn.
.
Nói chung tùy theo lý tưởng,ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ. Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
.
MỸ BÁN ĐỨNG VNCH CHO CỌNG SẢN

Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đã lén lút đi đêm với nhau tại Paris, để tìm cách đổi chác trên thân xác của VNCH. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Đức Thọ vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ mới đây của Kissinger, trong hồi ký ‘ The Kissinger Transcripts ‘, trong đó đã ghi chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để ve vãn Trung Cộng, chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên, thì Kissinger đã làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được mục đích. Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đã xử dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện phi lý, mà Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải ký kết trong bản hiệp định ngưng bắn năm 1973. Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật cũng đâu có hãnh diện gì hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đã liên kết với nhau, chắc chắn Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy, một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho VC mở hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày quốc hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi năm đắm chìm trong cảnh nghèo đói, lầm than, hận thù vì vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên đàng xã hội chủ nghĩa.Người Mỹ đã ký kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissingertiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ.
.
Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa gì tới tương lai cũng như số phận của người Việt, nước Việt.Sau này, khi VNCH đã sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê bình sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của mình. Chính TT. Nixon cũng đã xác nhận lỗi lầm của mình trong tác phẩm ‘ No More VietNam’ rằng tôi đã thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đã không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đã xâm nhập về Bắc. Còn M. Gauvin , đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS) tại VN, đã tuyên bố ‘ VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ.
.
Riêng cái hiệp định ngưng bắn ký kết tại Ba Lê năm 1973, đã không phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam, là muốn sống hòa bình và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cọng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đã phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn VC’. Nhưng phê bình một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson ‘ Sự sống còn của Nam VN, đã bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước mình bị khỏi bị sâu xé tan nát. Một điều nghịch lý khác là cọng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng ‘
.
Noài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đã đem được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ còn bội ước, khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như các thỏa ước đã ký kết . Sự bất công vô lý, đến đổi Tuỳ Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đã phải viết ‘ Người Lính VNCH do đó, đã phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới mức bình thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp, vì bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc ‘. Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc phòng thời TT.John Kenedy, thì vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm của mình, trong tác phẩm ‘ In Retrospect : The Tragedy and Lessons Of VN ‘, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Đao, Phan Nhật Nam, Ttần Đại Sỹ, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lý Tưởng..đều đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến, có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972..nhưng Họ đã can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển thắng thành bại.
.
Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đã quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của Dương Văn Minh, mới chịu rã ngủ.Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Pategon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi ký của Kissinger..đều cho thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người Mỹ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cọng sản Bắc Việt, được Tập Đoàn Cọng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự thả dàn, thì QLVNCH bị Hoa Kỳ qua Viện Trợ, chèn ép bắt bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngã để sinh tồn. Theo Harry H Noyes, qua tác phẩm ‘ Herdic Allies’, với tư cach là một sĩ quan cao cấp của Mỹ , đã chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên đã có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép mệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên, thì thái độ bêuxấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào cũng tự xem mình là văn minh, đứng trên các dân tộc khác.
.
Một điều quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân tây phương và Hoa Kỳ, đã bị điệp viên của khối cọng sản, củng như KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm tình với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lý. Để trả lời, nhiều người đã hỏi ngược lại người Mỹ rằng ‘ vậy thì từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đã rời VN, vậy ai đã chiến đấu với bộ đội Bắc Việt ?’. Còn về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Đốn, là đem gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự cần tiêu diệt.
.
Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH ?Còn trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu diệt cọng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa quân Đồng Minh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (Bình Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Đoàn 33-35/Biệt Động Quân/VNCH đảm trách. Đặc biệt tại Điện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dư, đó là TD37- BDQ, thuộc Liên Đoàn 1/BDQ của Quân Đoàn I.Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội Tổ Quốc và đồng bào mình, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng Miền Nam, những người muôn năm trong dòng sử Việt, được bia đời phong cho danh hiệu là ‘ TRI’ THỨC CHỒN LÙI’, còn các lãnh tụ cọng sản như Stalin, Mao Trạch Đông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI vì suốt kiếp chẳng làm được một điều gì tốt hay ích lợi, để giúp cho đất nước và đồng bào.
.
Bọn trí thức này theo chân Người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền thế như lúc còn trà trộn trong các Đại Học, Chùa-Nhà Thờ, Tòa Báo, trên các trang sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một chút gì, dù phong trần đã nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng đã nói là ĐÃ ĐI HẾt BIỂN nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng, để hưởng Vinh Hoa Phú Quý, Tự Do Dân Chủ..trong Xã Nghĩa Thiên Đàng, như chúng hằng ca tụng.Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lãnh đạo của VNCH. Riêng sự bảo rằng VNCH không có lãnh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Đình Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có khác gì việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân đội Hoa Kỳ.
.
Nhưng mai mĩa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger , khi cho bách hóa các tai liệu cũ liên 1uan tới chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975 ) ‘ Mỹ đã chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy thì bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Định Paris 1973, cũng đâu có gì lạ ? ‘Sự thật, QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn. Họ được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á thời đó như Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát..cũng như Trường Đại Học Quân Sự.Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
.
..xin vì chàng, xếp bào cỡi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng..
’( Chinh Phụ Ngâm – Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm)
.
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.Thử hỏi trong cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Trong lúc đã có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Trong số này có rất nhiều người đang dấn thân lo chuyện non nước. Không biết trong tâm tư của họ, có một giây phút nào, do lương tâm xao động, khiến họ chợt nghĩ tới những người xưa đã VỊ QUỐC VONG THÂN ? Cũng may hầu hết người Miền Nam, xưa nay vẫn biết ơn người lính năm nào, nhất là sau ba mươi năm qua, đã biết hết cảnh đổi đời oan nghiệt.Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
.
‘..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô..
.
Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường lưu xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở địa ngục xã nghĩa.Người lính cũ giờ này không cần gì hết vì cái gì họ cũng đã có, kể cả tình thương yêu cuối đời mà đồng bào cả nước đã dành cho họ, như trong những truyện ngắn của nhà văn trong nước Vũ Ngọc Tiến vừ a được phổ biến. -/

-Xóm Cồn

tháng 6-2006