Thursday, May 15, 2014


THƯ GỬI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN  (csvn)

Chu Tất Tiến.

Trong khoảng 3 tuần qua, Trung Cộng (chúng tôi gọi là Trung Cộng để tránh sự trùng hợp với Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan), đã thô bạo xâm lăng Tổ Quốc yêu quý của chúng ta qua việc ngang nhiên đem giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng biển của Việt Nam. Khi lực lượng bảo vệ biển của Việt Nam tiến đến gần giàn khoan này, thì bị Trung Cộng tấn công dữ dội, đâm phá nhiều tầu của ta, và bắn bị thương nhiều thủy thủ. Trước dư luận quốc tế đồng loạt phản đối hành động ngang ngược này, Trung Cộng vẫn tỏ ra không quan tâm, mà còn tăng cường sự thách thức này một cách bạo ngược hơn nữa.

Theo tin của VT News ngày 14 tháng 5, 2014:

“Cảnh sát biển cho biết, vào lúc 8h40 ngày 12/5, tại tọađộ 15 độ 22 phút - 111 độ 09 phút, cách Nam giàn khoan Hải Dương 981 khoảng 07 hải lý, tàu Hải cảnh Trung Quốc 3401 sử dụng vòi rồng phun nước vào tàu Trường Sa 22 của Việt Nam. Lúc 9h cùng ngày, tàu CSB 8003 của Cảnh sát biển Việt Nam ởtọa độ 15 độ 31 phút 48 giây - 111 độ 04 phút 30 giây cách giàn khoan Hải Dương 981 khoảng 7,3 hải lý phát hiện tàu Hộ vệ tên lửa của Trung Quốc mang số hiệu 534 cách tàu CSB 8003 khoảng 03 hải lý.
Vào lúc 9h21, 2 tàu Trung Quốc, tàu Hải cảnh mang số hiệu 3411 ở phía sau lái và một tàu Hải cảnh mang số hiệu 3210 ở phía trước mũi Tàu CSB 8003 của Cảnh sát biển Việt Nam, 02 tàu nói trên của Trung Quốc cách Tàu CSB 8003 khoảng 300đến 500 mét. Cũng trong thời điểm này, vào lúc 9h15 đến 9h30 có 01 máy bay trực thăng B.7112 của Trung Quốc bay 2 vòng phía trên tàu CSB 8003 và Trường Sa 22 của Việt Nam với độ cao 250 đến 300 mét khu vực có nhiều tàu Trung Quốc hoạt động. Tàu 3411 và 01 tàu khác của Trung Quốc liên tục bám sát Tàu CSB 8003 và 2013 ởkhoảng cách khoảng 500 mét.”

Tại sao Trung Cộng lại thực hiện những hành động đê tiện, có tính cách xâm lăng bằng vũ lực với Việt Nam trong giai đoạn này?

1-Về Quân Sự: Trung Cộng biết rõ tiềm năng quân sự của Việt Nam, đặc biệt là Hải Quân và Không Quân. Với những báo cáo của các gián điệp quân sự nằm đầy trong các bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trung Cộng nắm vững khả năng của tất cả các tầu chiến, máy bay, ngay cả các tiềm thủy đĩnh Kilo mà Việt Nam mới mua của Nga, mỗi loại có thể bắn được bao nhiêu hỏa tiễn, tầu mang bao nhiêu pháo nặng, tầm xa của hỏa tiễn, tầm hoạt động của tầu… Trung Cộng biết rõ khả năng kém cỏi của không quân Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, phi công miền Bắc lái Mig 19, 21…chỉ là cáiđích cho Fantom của Mỹ bắn rơi. (Để che đậy khả năng kém cỏi đó, Bộ Chính Trịcho tuyên truyền lếu láo là “phi công tiêm kích của ta núp trong mây, chờ phi cơ địch bay qua, là phóng ra, bắn hạ! Phi cơ Mỹ rụng như sung!” và “Dân Quân miền Bắc chỉ cần súng trường cũng bắn hạ được giặc lái…cũng như bịa ra con sốmà máy bay Quân đội Nhân dân bắn rơi máy báy Mỹ, mỗi phi công Bắc Việt có thểhạ được cả chục chiếc Cánh Cụp Cánh Xòe, Con Ma, Thần Sấm…).

Thực tế, các phi công hiện nay, cho dù đã được huấn luyện bởi chính các phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa sau 1975, cũng chưa lái được F.5 một cách chuẩn xác. Với các loại phi cơ tối tân nhất của Việt Nam hiện tại như Mig 21, SU 22, vài chiếc Su-27SK/UB, vài máy bay trực thăng chống tàu ngầm Ka-28, và 4 thủy phi cơ Be-12 của Liên Xô, Kamov Ka-27, EC225 Super Puma, DHC-6 Twin Otter…nếu đem so sánh với Không Quân của Trung Cộng thì chỉ đồ chơi trẻ con, vì trong khi Trung Cộng dồn tiền vào việc trang bị sức mạnh quân sựhàng chục tỉ đô la một năm, thì Việt Nam chỉ lo xây cầu “xi măng cốt tre”, chỉcần vài chục người “đi bộ nhanh” thì đã sập. Ngoài ra, Việt Nam lo mở sân golf và trung tâm giải trí nhiều hơn là lo trang bị quân đội, là những người lính lúc nào cũng thiếu ăn, ngoài bột ngọt, rau muống, nước mắm. Với sự đầu tư và huấn luyện nhỏ giọt cho quân đội như thế, thì hệ thống phòng không Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa lại có nhược điểm là hay bắn lầm bạn! Trong trận chiến Việt Nam trướcđây, nhiều trường hợp SAM bắn rớt Mig 19, Mig 21! Hơn nữa, nếu xẩy ra môt trận không chiến với Trung Cộng, phi cơ Việt Nam sẽ có thể thiếu xăng để chiến đấu trong vòng 30 phút, trong khi đó, máy bay của Trung Cộng sẽ cất cánh từ các phi trường quân sự mới xây dựng ở Hoàng Sa, hay Trường Sa, tuy còn nhỏ hẹp, nhưng cũng đủ cho phi cơ Trung Cộng rượt đuổi phi cơ Việt như mèo vờn chuột trước khi bắn hạ.

Về Hải Quân, thì lực lượng của Trung Cộng sẽ đè bẹp hải quân Việt trong vòng môt tiếng đồng hồ vì hải quân Việt chưa từng có kinh nghiệm chiến đấu trên biển, và những tầu tuần dương hạm tịch thu được của Việt Nam Cộng Hòa chưa đươc bảo trì bằng những trang thiết bịmới của Mỹ, sẽ chạy ọc ạch, chưa đánh đã chìm. Quân Đội Nhân Dân đang hãnh diện với các phương tiện mới như tầu đổ bộ LST-542 có chiều dài 100m, khả năng chởhơn 100 lính Hải quân đánh bộ, xe tăng, xe bọc thép, 2 xuồng đổ bộ bộ binh, và boong tầu rộng đủ để trực thăng hạng trung cất và hạ cánh. Ngoài ra còn các tàuđổ bộ hạng nhẹ như ST1200, vài tàu đổ bộ Polnocny B của Ba Lan chế tạo, có 2 cụm pháo phản lực 140mm, 8 nòng để đánh chiếm bờ biển, máy bay chống tầu ngầm Beriev Be-12… Kể ra thì nhiều nhưthế, nhưng thực tế là trước sự phát triển kỹ thuật quân sự nhanh chóng của toàn thế giới, cả lực lượng Hải Quân và Không Quân Việt Nam hiện tại chỉ là những mớvũ khí lộn xộn, èo uột, chỉ một trận đánh lớn là “tan tành xíu quách”. Nếu coi lại những đoạn phim gần đây khi Trung Cộng tấn công tầu Việt Nam, thì thấy tầu Trung Cộng khổng lồ đè bẹp anh chim chích Việt Nam dễ dàng, không cần dùng đến súng đạn, chỉ cần cái vòi rồng phun nước đã làm cho tầu Việt Nam rách nát te tua… Thật xấu hổ!

2-Về Chính Trị: Sựthua thiệt về chính trị còn dễ hiểu hơn về quân sự, vì toàn thế giới đã biết, từlâu nay, Việt Nam bị Trung Cộng khống chế về chính trị. Từ Bộ Chính Trị, xuống Ban Lãnh Đạo Đảng, hầu như tất tật đều là những đàn em ngoan ngoãn của Trung Cộng, bảo đâu, “dạ” đó. Bốn Tứ Trụ Triều Đình: Hùng, Dũng, Sang, Trọng chỉ có phát triển hai chữ “Sang Trọng”, còn không có chút nào Anh “Hùng”, tí nào “Dũng” Cảm cả. Trước sự kiện Trung Cộng xâm lăng thô bạo như thế, diễn ra từ bao ngày nay rồi, mà Tứ Trụ Triều Đình vẫn im như ngậm hột thị, không dám thốt lên một lời chống đối nào ra hồn. Trong khi nhiều tỉnh, thành xôn xao xuống đường biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng, thì Tứ Trụ vẫn giữ thái độ “Yên Lặng Là Vàng”, không dám kêu Đại Sứ Trung Cộng lại cảnh cáo, không tống cổ Đại Sứ Trung Cộng về nước, không dám tuyên bố đoạn giao với Đại Ca, hoặc ít nhất cũng mang vấn đề này ra Liên Hiệp Quốc, trong khi chính mình đã là thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc! Thực chất thì cả Tứ Trụ lẫn toàn Ban Lãnh Đạo Đảng, hoặc ít, hoặc nhiều, nhận quà của Đàn Anh Bắc Kinh, từ vài triệu đến trăm triệu đô la, như vụBô Xít Tây Nguyên, Thủ Tướng Dũng đã nhận được 150 triệu đô, có chia cho đàn em trong quốc hội, nhất là cho Ban Thường Vụ Quốc Hội, mỗi đàn em từ vài trăm ngànđến một triệu, để Quốc Hội hủy vụ tố cáo Dũng nhận tiền hối lộ này. Những lần sang “triều cống Bắc Kinh”, Dũng, Trọng, Sang, Hùng đều nhận được quà và những lời cảnh cáo, nhắn nhủ là cố giữ “16 chữ Vàng, bốn Tốt”, để tiếp tục có “vàng”đầy kho, nếu không muốn bị truất phế, mất lâu đài, mất bồ nhí, mất tiền để dành trong ngân hàng Thụy Sĩ hay chính tại Mỹ, qua đống con cháu đi du học làm đầu cầu, mở trương mục ngân hàng, rửa tiền hợp pháp. Vì thế, mà Thác Bản Giốc, 15 tỉnh đầu nguồn phải nhượng cho Trung Cộng, Tây Nguyên dành cho Trung Cộng, một số tỉnh trong Nam thành biến thành Phố Tầu, “nội khả xuất, ngoại bất khả nhập.” (Ngoại = dân Việt!). Người Tầu ùn ùn sang Việt Nam khỏi cần “visa”. Hàng Tầu tự do chuồn sang Việt Nam, giết chết hàng Việt; thực phẩm độc hại của Tầu tự do tràn lan khắp nơi giết dần con dân Việt; Tầu khựa tự do lấy gái Việt, biến thành dân Tầu; công ty Tầu tự do trúng thầu từ Nam chí Bắc… Nhục nhã nhất là vì đã nhận lệnh Tầu Khựa, nên bất cứ ai mở miệng đòi bảo vệ lãnh thổ Tổ Quốc liền bị Tứ Trụ này ra lệnh bắt nhốt, không cần nguyên do, không cần cãi lý. Những Điếu Cầy, Tạ Phong Tần, Ba Sàm, Trần Huỳnh Duy Thức, Đỗthị Minh Hạnh.. bị tội gì, ngoài tội chống Tầu cướp nước? Nhà Nước bắt giam những người này chỉ vì phải theo lệnh của quan Thầy Trung Cộng mà thôi.

Trung Cộng cũng rành rẽ các cuộc đấu tranh giành dật chức chưởng trong nội bộ, khiến cho Đảng bị xẻ thành tư, thành tám, xào xáo, không ai muốn đoàn kết với ai, chỉ chờ cơ hội là cho đối thủ “đi mò tôm” ngay. Cho nên, với những sự kiện mất nước, mất biển này, cả Bộ Chính Trị đều chưa tìm ra giải pháp, ngoài giải pháp “Xin, Cho”. Xin đàn anh Trung Cộng nghĩ tình đàn em từ bao thập niên nay, đã trung thành với Đàn Anh mà nới tay cho đàn em, nếu cóđánh đàn em, thì xin đánh nhe tay nhe! Thủ Tướng nước ta, Nguyễn Tấn Dũng, mớiđây có phát biểu vài lời về vụ Trung Cộng xâm lăng này, nhưng nếu nghe kỹ thì chỉ thấy tiếng rên nho nhỏ, chứ không thấy lời nào của Lý Thường Kiệt, của Trần Hưng Đạo.. Ngu Xuẩn và nhục nhã nhất là ý kiến của Đại Tá Đại tá Nguyễn Đình Trương - Nguyên Cục trưởng cục Đông Bắc Á - Bộ Công an khi nói chuyện với Phóng Viên Trí Thức Trẻ: “Trong trường hợp nhấtđịnh nào đó, mình vẫn có thể giữ nguyên giàn khoan Trung Quốc như một đơn vị nước ngoài vào đầu tư, nhưng phải có nguyên tắc và lợi ích của ta là phải thật đảm bảo!”(Trong hơn 4000 năm dựng nước, chưa hề thấy có câu nào ngu hơn câu này!)

-Về Chính trị quốc tế, Mỹ và Asean: Như thế giới đã thấy, trước tình hình gay cấn, một mất một còn với Việt Nam như vậy, mà thế giới hầu như giữ thái độ đứng ngoài lề! Mỹ chỉ nhấn mạnh đến âm mưu tiếm đoạt đất biển của Phi và Nhật, trong khi thì tỏ thái độ bàng quang với Việt Nam. Asean cũng không tuyên bố điều gì quan trọng để bênh Việt Nam cả. Trong cuộc hội nghị cấp cao vừa qua, không có lấy một bản lên tiếng nào về việc Trung Cộng xâm lăng Việt Nam. Lý do: thế giới đã chán với hệ thống tham nhũng từ lãnh đạo xuống tới thứ dân của Cộng Sản Việt Nam và sự khiếp nhược của Việt Nam trước Trung Cộng. Quốc tế cũng dư biết câu “16 chữ vàng”, “Môi hở, răng lạnh” mà Bộ Chính Trị bắt dân Việt phải học thuộc lòng từ hồi nẩm. Họ đều tiên đoán rằng, Việt Nam sẽ phản đối rất nhẹnhàng, Trung Cộng sẽ trả lời rất cương quyết, hai bên sẽ cùng tìm ra một biện pháp: “Thôi, chuyện gì đã lỡ xẩy ra, cho qua luôn! Cãi nhau chút chút, rồi sẽ đâu vào đó, cái dàn khoan vẫn tiếp tục trụ trì ở đó, coi như chẳng có chuyện gì xẩy ra…” Cho nên, quốc tế thấy không cần phải lên tiếng với sự “cha, con” hục hặc nhau làm gì! Cha có đòi lại tiền đã cho con, con có cãi lại, rồi tình cha con lại“vũ như cẫn”, nhất là khi Cha lại cứ lo tập thể dục, già mà vẫn còn mạnh quá, còn con thì ham chơi: chơi lâu đài, chơi golf, và chơi gái. Thế thì hàng xóm can thiệp làm gi!

Dựa vào những yếu tố trên mà Trung Cộng ra tay cướp đất, cướp biển, cướp vùng trời của Việt Nam, chẳng sợ quái gì. Cho dù dân chúng có nổi lên tại Hà Nội, Saigon, Bình Dương, Hà Tĩnh.. chống Trung Cộng, cho dù dân có đốt phá vài cơ sở của người Trung Hoa (Trung Cộng và Đài Loan).. chết vài mạng người, Trung Cộng biết rằng chỉ cần hô lên một tiếng là “thằng con Việt Nam” sẽ ngoan ngoãn đi dẹp biểu tình, bắt nhốt vài trăm thằng phản động, rồi chương trình chống Tầu sẽ qua đi…

Nhưng, còn với dân Việt chúng ta thì sao? Nhớ lại Hịch Trần Hưng Đạo và các lời nhắn nhủ của tiền nhân:

“Nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoàiđường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình. Đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.”

Và:

“Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha..”

Và những lời tiên đoán và nhắn nhủ của Vua Trần từ vài trăm năm trước:

Họa Trung Hoa !

Tự lâu đời truyền kiếp !

Kiếm cớ này bày chuyện nọ ! TÀ MA !

Không tôn trọng biên cương theo quy ước

Tranh chấp hoài ! Không thôn tính được ta

Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo

Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy !

Gặm nhấm dần

Giang Sơn ta nhỏ lại

Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di

Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới

Canh cánh bên lòng “ ĐẠI SỰ QUỐC GIA “!

Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT

Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa !

VẬY NÊN:

CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN

MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI CŨNG KHÔNG ĐỂ LỌT VÀO TAY KẺ KHÁC.

HÃY ĐỀ PHÒNG QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA !

LỜI NHẮN NHỦCŨNG LÀ LỜI DI CHÚC

CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA.

Cũng bồi hồi nhớ lại bao trận đánh như cuồng phong, bão lửa, đánh quân Tầu chạy dạt về Tầu, Thái Tử Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn, Quân Mông Cổ từng đi đến đâu, cỏ không mọc đến đấy mà khi đến Việt Nam, đã chạy tan tác như thỏ dại. Hàng chục vạn quân Thanh chen nhau chạy trốn khiến xác ngập sông Hồng. Những danh tướng Tầu, võ nghệ kinh hồn, mà khi sang đến đất nước nhỏ bé có những con người nhỏ bé này, đều rơi đầu, bỏ xác.

Riêng với Quân Đội Nhân Dân, thì lại nhớ đến câu kinh nhật tụng xạo láo: “Trung Với Đảng, Hiếu Với Dân, Kẻ thù nào cũng đánh thắng…” Anh hùng như thế, vậy mà nay, núp đâu hết cả rồi! Thấy kẻ thù xâm chiếm nước ta, lại đi trốn hay sao mà không hề thấy lên tiếng? Hay chỉ biết hợp tác với Công An, nhào vào làng xã, cướp đất cướp nhà của những người từng là “Mẹ Chiến Sĩ”, “Mẹ Anh Hùng”, đánh Mẹ đổ máu mồm, xé rách quần áo Mẹ te tua?

Bộ Chính Trị gồm toàn kẻ bán nước đã đành, còn các bạn “Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân”, những chiến sĩ “Bộ Đội ta Đánh Mỹ tài ghê”, những chiến sĩgái nhỏ bé, tay không bắt sống giặc Mỹ khổng lồ, những Anh Hùng bắn hạ Phi cơMỹ ngụy, sao không thấy xông ra, bắt nhốt những kẻ đầu não bán nước, rồi đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương Tổ Quốc? Sao không thấy hát tiếp những bài hát: “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh…”, hoặc “Ta Vượt trên triền núi cao Trường Sơn, Đá mòn mà đôi gót không mòn”? (có lẽ bây giờ nhận thấy mình chuyên nói láo, gót mòn lòi xương ra rồi, nên im lặng để khỏi xấu hổ?)

Những anh hùng lấy thân mình lấp lỗ châu mai đâu rồi? Anh hùng kéo pháo? Anh Hùng Điện Biên? Anh hùng không quân Nguyễn Văn Cốc đã bắn rơi 9 máy bay địch trong đó có 2 F4, 5 F 105 và 2 máy bay không người lái? Phi công Phạm Thanh Ngân và Nguyễn Hồng Nhịmỗi người bắn rơi 8 chiếc?” Họ đâu cả rồi? Hay đã biến thành Phù Đổng Thiên Vương, sau khi bắn hàng loạt máy bay Mỹ thế thì cũng cất cánh bay lên trời với ông Phù Đổng? Còn chiến sĩ Nguyễn Văn Bảy, chỉ học lớp 3, mà lái được Yak-52, sau đó lái luôn Mig 15, Mig 17, và chỉ với Mig 17, chiến sĩ này đã hạ 2 chiếc F105, và 5 chiếc F4? Ghê thật đấy? Chữ nghĩa không có, mà biết điều khiển hàng trăm cái nút trên máy bay, biết bóp cò súng đại liên trên máy bay một cách chính xác như thế, thì đúng là “người Trời” rồi! Bây giờ ở đâu? Hay đang trồng khoai mì? Theo tin Wikipedia, thì “Năm 2011, ông lại được lên báo khi trồngđược củ khoai mì nặng 22,5 kg và được người dân trong vùng vui mừng nói: Anh hùng không quân bắn máy bay Mỹ và trồng khoai mỳ cũng anh hùng!Sao không ai mời người hùng trồng khoai mì này trở lại bắn những chiếc máy bay Trung Cộng đang cướp nước ta? Thật uổng!

Các bạn Quân Đội Nhân Dân,

Đọcđoạn văn trên, chắc các bạn phải vừa cười vừa khóc, vừa nhục, phải không? Làm người lính bảo vệ quê hương mà chỉ biết đánh giặc như kẻ mù, không nhận thấy chính những kẻ lãnh đạo mình đã nói xạo như máy, đã lợi dụng thân xác mình đểxây dựng lâu đài cho chính lãnh đạo? Sao không nhận thức được rằng, 15 người trong Bộ Chính Trị kia, chỉ là những tên đeo mặt nạ, nhẫn tâm xây lâu đài gái, rượu trên hàng triệu xác lính, để hưởng thú vui vật chất, nhà cho to, gái chođẹp, quyền lợi mênh mông… Sao không hiểu rằng chính bọn chúng đã hô hào “bảo vệ Tổ Quốc anh hùng” để các bạn chết tàn lụi bên bờ, bên bụi, cho chúng điềm nhiên bán đứng Tổ Quốc cho giậc? Gia đình các bạn, cha mẹ, anh em các bạn, người yêu các bạn, ngày nào cũng nước mắt dàn dụa, cầu mong cho các bạn yên lành trở về, đừng què chân, cụt tay, đừng méo mồm, dị dạng.. trong khi bọn lãnh đạo thì cười ha hả bên những chai rượu ngoại cả chục ngàn đô la, uống một ngụm là tiêu cả vài trăm đô la, không tiếc xót! Còn các bạn chỉ có rau muống, bột ngọt và gạo hẩm, sống bên nguy hiểm, sống chết cận kề…

Sao mà chúng khốn nạn, vô lương tâm đến vậy?

Trên hết, sao các bạn vẫn còn, cho đến hôm nay, cúc cung phục vụ chúng như nô lệphục vụ thần thánh?

Hãy tỉnh ngộ lại đi! Hãy mở mắt ra để thấy những cục gạch trên bức tường lâu đài mà lãnh đạo xây cất chính là xương cốt của chiến hữu các bạn đó! Hãy nhận thức rằng những ly rượu đỏ au mà chúng ngày nào cũng uống kia chính là máu của chiến hữu các bạn đó!

Hãy trở về với Nhân Dân, với Dân Oan, những bà Mẹ đang bị chúng dồn vào đường cùng, không tương lai, khi nhà cửa bị tịch thu cho chúng xây sân golf, xây biệt thự,khách sạn bán cho nước ngoài! Hãy so sánh tiền lương của các bạn với sự tiêu pha hàng triệu, hàng tỷ đô la cho những tham vọng không bờ của chúng! Chúng xài hàng tỷ đô la cho những dự án rỗng không trong khi vẫn mổ mồm ra kêu gọi các bạn hy sinh? Hy sinh cho ai? Cho mục đích gì? Cho bao nhiêu cái Vinasin nữa? Cho bao nhiêu Phố Tầu ngông nghênh mọc lên trên đất ta, mà các bạn bị cấm bước vào?

Nhục lắm, đau lắm, các bạn ơi!

Xin hãy cùng nhân dân vùng lên, như đúng câu hát Quốc Tế Ca: VÙNG LÊN, HỖI CÁC NÔ LỆ CỦA THẾ GIAN! Hỡi các bạn Nô Lê Quânđội Nhân Dân!

Cũng xin nhớ một điều mà bọn Trung Cộng kia không biết: Dân Việt tuy yếu, súng đạn tuy tầm thường, nhưng một khi đã đoàn kết chống ngoại xâm thì thật sự: KẺ THÙ NÀO CŨNG ĐÁNH THẮNG! CHẾ ĐỘ BẠO TÀN NÀO CŨNG SỤP ĐỔ!

Cầu mong cho có ngày tất cả chúng ta, người Việt khắp năm châu bốn biển, được nắm tay nhau cùng hát bài Tự Do, Nhân Quyền trên quê hương yêu dấu.

Vài hàng viết trong nước mắt.

Chu Tất Tiến, một cựu Quân Nhân Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, Tự Do, Dân Chủ.

 

Saturday, May 10, 2014

HAPPY MOTHER'S DAY
 
NHỚ MẸ
Hoàng Nam Trần Việt Hải
Ngày mai là ngày lễ Mẹ, tôi xem bài của người bạn văn Trần Trung Đạo trong ý nghĩ tán đồng và tâm tư rung động qua dòng văn của anh. Tôi nghe kể anh không may mắn như nhiều người. Me. anh mất khi anh còn tấm bé. Vì thế nên khi anh mô tả sự bao la của tình mẹ trong nỗi niềm cần thiết một bóng hình người mẹ đi bên cạnh cuộc đời. Anh dẫn nhập bài viết bằng câu ngạn ngữ ví hình ảnh người mẹ như sau:
"Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ” Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.
 
Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc.
Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang đôi dép ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con mãi mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gủi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha sâu thẳm."
 
Mọi người nói chung dễ dàng đồng thuận một kỳ quan vĩ đại nhất của thiên nhiên vẫn là người hiền mẫu, như Trần Trung Đạo viết dáng mẹ hiền dù có nhỏ bé, gầy guộc, nhưng lòng của mẹ thương con cái chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha sâu thẳm.
Trần Trung Đạo là một nhà văn, anh chọn viết về những đề tài thuộc khuynh huớng xã hội và nhân bản. Anh còn là một nhà thơ. Tôi còn nhớ bài thơ gây nhiều xúc động là "Đứa bé và viên sỏi", về chuyện vượt biên buồn thảm, cha mẹ mất, cháu bơ vơ, nhạc được nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ nhạc. Bài thơ khác của Đạo được giới văn học chú ý là "Đổi Cả Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười", được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc. Lời thơ sâu sắc thắm đượm tình mẹ, trích dẫn:
"Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Ðốt lửa cho đời tan khói sương"
Rồi cuối bài, anh cho 2 câu kết như một câu nói bất hủ trong văn chương hay đời sống:
"Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười."
Trích bài "Happy Mother's Day 2009: Mẹ và Quê Hương", rồi Đạo tâm sự thêm:
"Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
 
« Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.”
 
Bài thơ đơn giản và dể hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8 năm.
Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội."
Bạn bè của Đạo biết bà mẹ Hòa Hưng là mẹ nuôi, nhưng trong cái tâm đạo của người con, Đạo rất qúy bà như mẹ ruột.
"Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía Nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
Tôi kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.
Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.
Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm."
Nói về hình ảnh mẹ, điển hình qua âm nhạc, nhạc sĩ Y Vân sáng tác cho mẹ mình bài ca bất tử mà đời sống và văn học biết ơn cho tác phẩm thật tuyệt vời này:
"Lòng Mẹ chan chứa trên bao xóm làng gần xa.
Tình Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để nghe,
Lời ru xao xuyến núi đồi suối rừng rặng tre.
Sóng ven Thái Bình im lìm khi tiếng Mẹ ru.
Một lòng nuôi nấng vỗ về những ngày còn thơ.
Một tình thương mến êm như tiếng đàn lời ca.
Mẹ hiền sớm tối khuyên nhủ bao lời mặn mà.
Khắc ghi bên lòng con trẻ muôn bước đường xa.
Thương con Mẹ hát câu êm đềm,
Ru lòng thơ ấu quản gì khi thức trắng đêm.
Bao năm nước mắt như suối nguồn.
Chảy vào tim con mái tóc trót đành đẫm sương.
Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu.
Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu.
Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu.
Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu"
(Lòng Mẹ)
Tôi có cô bạn khi theo chồng sang định cư tại Paris, Hải Yến xúc động mỗi khi cô ca đoạn cuối của bài hát này vì câu hát nói về ước muốn gặp mẹ, nhớ mẹ từ xa: “Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu".
Một bài ca khác tôi muồn nói đến là bài Khóc Mẹ Đêm Mưa của nhạc sĩ Anh Bằng, mà nội dung nhớ người mẹ đã quá vãng với lời nhạc thật xót xa như sau:
"Có những lần con khóc giữa đêm mưa
Khi hình mẹ hiện về năm khói lửa
Giặc đêm đêm về quê ta vây khốn
Bắt cha đi mẹ khóc suốt đêm buồn
Ôi thương mẹ vất vả sống nuôi con
Đi vội về sợ con thơ ngóng chờ
Nhưng mẹ đi không bao giờ về nữa
Ngã trên đường tức tưởi chết trong mưa
Mẹ ơi mẹ ơi tan chiêm bao nước mắt thành dòng
Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng
Mẹ ơi mẹ ơi có nghe chăng lời con vang vọng
Tới mộ phần trên vuông đất quê hương
Con lang thang giữa đời quạnh hiu quá
Đâu cũng sống nhưng không đâu là nhà
Còn quê mẹ xa nửa vòng thế giới
Con không về từ ngày mẹ ra đi
Đêm tha hương con gục đầu tưởng nhớ
Trên đời này mẹ con không gặp nữa
Trên đời này không bao giờ gặp nữa
Mẹ ơi mẹ con khóc giữa đêm mưa"
Nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự với tôi khi ông tiễn đưa mẹ của một người bạn trẻ, bạn ông thương, khóc mẹ như mưa. Tối về khi cơn mưa đến bên ngoài, ông dâng nguồn thơ ý nhạc từ sự kiện người mẹ của người bạn qua đời, ông nhớ đến thân mẫu của mình trong ray rứt nhớ thương, để rồi bài hát này đóng góp tích cực vào kho tàng những bài ca về mẹ. Trở lại với Trần Trung Đạo, anh sáng tác bài thơ "Đổi Cả Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười" vào một đêm mưa nhớ mẹ Hòa Hưng. Trong đoạn văn khác anh tâm sự về mẹ ruột ở làng Mã Châu, anh nhớ đến ngôi mộ chôn cất mẹ trong hoang phế, khi ấy anh còn bé lắm với bao suy tư về cuộc đời và về thân phận của mình, tôi hiểu tư tưởng và lòng anh lắm. Bài viết này tôi xin gửi đến Trần Trung Đạo, Anh Bằng, Võ Tá Hân, Hải Yến, Thụy Trinh, Bạch Hạc, Vân Khanh, Mỹ Hạnh, Vương Hà, Mai Ngọc Lý, Khánh Trang, cũng như Quỳnh Giao và Thúy Anh,... nhiều nguời bạn mà tôi có dịp trao đổi ý tưởng về mẹ.
Hãy nghe tiếp lời của Trần Trung Đạo:
"Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.
Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.
Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra."
Đại thi hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin là người có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và toàn châu Âu. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evgeny Onegin", "Con gái viên đại úy", "Con đầm pích", "Boris Godunov",... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn và tả chân của nước Nga và châu Âu thế kỷ 19. Pushkin làm thơ gửi mẹ nuôi mà ông thương, kính trọng như nhũ mẫu của mình:
"Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước đời con!
Rừng thông thăm thẳm cô đơn
Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông
Trong phòng khách bên song cửa sổ
Như người canh, thương nhớ mênh mang
Tay già lần mũi kim đan,
Như đang đếm bước thời gian chậm buồn
Mẹ thẫn thờ nhìn đường thăm thẳm
Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu
Buồn thương, linh cảm, lo âu
Lại càng chất nặng thắt đau ngực già..."
Từ Aleksandr Sergeyevich Pushkin đến Trần Trung Đạo đều có mẫu số chung, dù dưỡng mẫu hay nhũ mẫu, hai nhà thơ đã dành những tâm tư trang trọng nhất cho 2 mẫu người mẹ trong văn học, thực vậy từ Âu sang Á, sự xúc cảm về mẹ cho văn chương mẹ mãi mãi thăng hoa.
"Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.
Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.
Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.
Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẻ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình. Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình."
Tôi xin dùng kết luận của Trần Trung Đạo để chấm dứt bài viết "Mother's Day Nhớ Mẹ" này vì chính lời văn và thơ của anh tạo cho tôi nguồn suy tư về Trần Trung Đạo và Alexander Pushkin chia sẻ những ẩn ý về Mẹ trong văn học:
"Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng. Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại. Trần Trung Đạo".
Mẹ già như chuối ba hương
như xôi nếp một như đường mía lau
"Mẹ" là tiếng gọi thương yêu, "Mẹ" ban cho con cái tình thương vô bờ bến trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là "Mẹ" đương đầu với những thử thách khó khăn, những cơn nguy khốn, những nhọc nhằn đầy lo âu và "Mẹ" luôn nhấp nhận những vô lý nhất của cuộc sống. Nhưng trái tim của "Mẹ" vẫn là sự thủy chung với cha và sự lan tỏa hơi ấm cho đàn con thơ dại. Tôi đọc chuyện "Mẹ Tôi" của tác giả Chinh Nguyễn trong say sưa, trong nỗi đoạn trường của nước mắt sầu vơi. "Mẹ" của tác giả là một phụ nữ miền Bắc sống trong vùng nông thôn, mà khi nông thôn hiền hòa, chất phác ấy bị đe dọa bởi bom đạn chiến tranh giữa giặc Tây thực dân và phe Việt Cộng tàn ác (núp bóng dưới danh nghĩa Việt Minh) xâu xé và tranh giành quyền kiểm soát người dân và lãnh thổ. Sự tàn ác khi giặc Tây bắn giết bừa bãi, hãm hiếp gái tơ, bọn Việt Cộng cưỡng ép dì Chúc làm bé, chúng chặt đầu những ai không tuân lời chúng, sự khủng bố đe dọa người dân thấp cổ bé miệng, bao nhiêu chuyện thê lương, bạn tác giả là một đứa trẻ thơ ngồi khóc bên xác mẹ vì bị trúng bom giết chết. Nỗi nghiệt ngã trong gia tộc là người chú ruột của tác giả theo CS, cha tác giả theo QG, nhiều lúc anh em tranh cãi như muốn tàn sát nhau, ông bà nội tác giả là chứng nhân của sự thực khổ sở. Cả chú và cha ra đi biền biệt theo kháng chiến.
"Mẹ" lo cho 3 con thơ dại những ngày tấm bé, khi chiến tranh tàn phá nông thôn "Mẹ" đành dắt díu con thơ về thành làm nghề phụ thợ hồ khuân vác xi măng làm kế sinh nhai. Vì quá cực nhọc nên "Mẹ" đau nặng, những đứa con thơ dại chạy đó đây lạy lục xin thuốc men cứu "Mẹ". Tôi chợt ngó tủ thuốc nhà tôi trong thoáng buồn trong ý nghĩ. "Mẹ" bị cảm, nhưng vì lao lực quá sức làm "Mẹ" kiệt sức. Tôi biết tác giả viết lại hoài niệm về "Mẹ" trong ngậm ngùi, xót xa, hãy đọc tiếp:
"Đêm lạnh mẹ ôm lấy anh em tôi trong nước mắt yêu thương che chở và nỗi buồn riêng thở dài thâu canh, sáng mẹ đã đi thật sớm trong khi anh em chúng tôi còn đang co quắp ngủ trên chiếu lạnh, chiều muộn mẹ về với quần áo đầy hồ xi măng và chân tay mẹ xước da chảy máu. Sau này hỏi ra tôi mới biết rằng mẹ tôi đã làm phu hồ, một công việc nặng nhọc của đàn ông nhưng mẹ tôi cố xin cho được công việc này hầu có chút tiền đem về nuôi anh em tôi."
Tâm sự của trẻ thơ trong gia đình nghèo khổ khi miếng ăn không đủ thì làm sao dám mơ ước đến trường, "Mẹ" đau lòng lắm chứ, "Mẹ" đã khóc vì bất lực trong tình huống khó khăn. Vì nhà nghèo, có những hôm tác giả phải ăn cắp rau muống từ bờ ao của chùa gần nhà cho bữa cơm ngon miệng. Tôi quý tất cả những đoạn văn mà tôi trích dẫn, vì chính nó cho thấy tâm tư, sự can đảm và lòng thành thực của tác giả khi nhắc về cái dĩ vãng đầy nghiệt ngã, thương đau, cái thuở hàn vi non tuổi đời của mình. Vì chính sự thực có những giá trị riêng của nó:
"Vì mẹ nghèo nên tôi và hai em đã không còn được đi học như khi còn ở trong làng quê. Mỗi lần mẹ nhìn đám trẻ cắp sách đi học là mẹ lại nhìn chúng tôi với hai dòng lệ chảy trên gò má khô cằn vì đói khổ và nắng mưa đơn độc một mình làm nuôi ấp ủ ba con trong cảnh Hà-Nội xô bồ kiếm sống.
Mẹ tôi dạy tôi nấu cơm cho hai em ăn và dặn tôi phải bảo vệ thương em. Tuy nhiên tôi chỉ nấu cơm còn thức ăn là vại cà muối mặn và hũ mắm tôm mà mẹ đã làm sẵn cho ba anh em ăn cả năm. Đôi khi em tôi đòi ăn rau muống và chỉ xuống ao của chùa, tôi đành nhìn quanh để phòng ngừa có ai đang đi tới, và bảo hai em chạy về nhà nấp trong lều. Trong khi hai em tôi kéo tay nhau vội vã chạy về nhà, tôi nhẩy xuống bờ ao hái vội vàng một ôm rau rồi leo lên bờ chạy thục mạng. Đôi khi tôi theo ông đánh lưới ven sông Hồng xin vài con cá long tong dính lưới đem về nhà kho mắm tôm mẹ làm sẵn, những bữa ăn có rau cá như thế đã làm anh em tôi vui và ăn cơm thật ngon miệng."
Để đỡ bớt vất vã của nghề phu khuân vác cho thợ hồ, "Mẹ" học được nghề làm bánh cam. Chính những chiếc bánh cam "Mẹ" làm đã nuôi con từ Hà Nội vào Nam. Tôi thật sự trân quý hết tất cả các bà mẹ buôn thúng bán bưng trên khắp nẽo đường đất nước, tôi chứng kiến nhiều bà mẹ Bắc 54 đã đến bán trong khu cư xá nơi tôi ở, họ giới thiệu tôi những món ăn ngon do họ làm, nào là những bà mẹ bán bún riêu, bán bánh ướt chả lụa, bán xôi cúc, xôi gấc và xôi bắp, bán bánh gai, xu xê, bánh cam,... Món bánh cam là loại bánh mà tôi mê từ thuở tấm bé. Trên đôi vai gầy guộc của những bà mẹ hiền đã gồng gánh các thứ lỉnh kỉnh của gánh hàng rong đó là tương lai của đàn con bước vào trường, rồi bước vào đời cùng xây dựng miền Nam, trong số đó có tác giả bạn tôi, Chính Nguyễn, một sĩ quan Không Lực VNCH.
Nay "Mẹ" quá lớn tuổi rồi, "Mẹ" không còn thấy rõ nữa, khi thanh xuân tuổi trẻ "Mẹ" sống tại miền bắc trông tin chồng mà có những chiều tác giả kể lại nước mắt "Mẹ" buồn rơi khi nhớ chồng. Rồi khi tác giả đi "học tập cải tạo" thì "Mẹ" lại trông đứng trông ngồi. Khi tác giả vượt thoát ra xứ ngoài, dù "Mẹ" biết con mình bình yên, nhưng tình "Mẹ" thương nhớ con để nước mắt mẹ già lại tiếp tục rơi từ bên kia Thái Bình Dương.
"Mẹ tôi bây giờ đã chín mươi với những nếp nhăn nhọc nhằn hằn trên gương mặt già nua cằn cỗi theo tháng năm, và mắt đã kém luôn mờ lệ nhắc tên từng đứa con và ước ao trở lại quê nội ngoạị khi nằm xuống. Tay mẹ tôi đã run không cầm được đũa để ăn, đôi chân đã yếu chậm chạp bước đi trong patio, nhưng mẹ vẫn không yên được nỗi lo cho mấy đứa con còn lại bên kia biển Đông...
Lòng mẹ tôi đã chia hai trong nỗi sầu xa xứ, thương con mỏi mòn trên nước ngoài, xót đoạn trường cho những đứa con còn lại quê nhà: Bao giờ con khóc ôm chân mẹ,
Là lúc mẹ hiền khuất chia ly
Luôn mãi đời con sầu đất lạ,
Đâu còn ai nữa dẫn con đi…!
Những năm tháng dài trong cuộc đời, tôi cũng chưa làm được gì cho chính tôi…! Mẹ tôi cũng đã có những bước đi run rẩy, lúc nhớ lúc không, lúc nói thật nhiều, lúc ngồi yên như tĩnh tâm và nhìn đời bằng đôi mắt lạc thần cằn cỗi…!
Đời mẹ đã bao lần đi tỵ nạn Cộng Sản, chiến tranh…!
Mẹ tôi đã không có mùa xuân…!
Mẹ, Mẹ đời con nghèo thân vất vưởng
Nợ quê hương gánh mãi tuổi xế chiều
Ba mươi năm lẻ vẫn mang hận lụy
Đời bèo trôi sông lạ tủi nhục nhiều
Mẹ, Mẹ ba mươi tháng tư rồi đấy
Thân mẹ gầy cúi mãi mỏi lưng còng
Con lưu lạc tìm đường về cố quốc
Mẹ đừng buồn, cùng đừng đứng chờ mong
Mẹ, Mẹ con quì đây, đầu vái lạy
Quay hướng nhìn con dõi mắt hướng đông
Khóc thương mẹ, tủi quê nghèo vận nước
Ước một ngày đường hoa chợt đơm bông...
Mẹ đó, con đây… Cánh tay nào vươn ra cho con nắm được tay Mẹ, trong khi lòng Mẹ, lòng con như biển động sóng gào, và nước mắt Mẹ, nước mắt con đã làm cho biển mặn thêm…!
Mẹ ơi…! có mùa Xuân nào sẽ đến để cho con vui hát bên Mẹ những bài ca đồng dao quê nội xứ Bắc. Có mùa Xuân nào sẽ tới cho con được ôm chân Mẹ, để con được Mẹ dỗ dành bằng tiếng hò yêu dấu ngàn đời trên sông Hương, vang vọng núi Ngự. Có mùa Xuân nào thanh bình để con về tắm giữa dòng Cửu Long, hầu rửa sạch những đớn đau chua xót hận thù một kiếp…!
Mẹ…! Lưng Mẹ còng, còm cõi nhưng vẫn dựa vào cha hùng tráng bên dãy Trường Sơn, mặt Mẹ vẫn trông ra biển Đông và tóc Mẹ vẫn rũ xuống trải dài trên biển vắng về khuya để khóc đợi con về…
Mẹ… Mẹ ơi…! Chúng con vẫn gọi Mẹ… Mẹ Việt Nam ơi… muôn đời và muôn kiếp không thôi…!"
Tôi xin hân hạnh giới thiệu tác phẩm "Mẹ Tôi" của tác giả Chinh Nguyễn, bằng văn phong của nhân chứng sống qua những năm tháng chiến tranh của hai cuộc chiến chống Pháp và Quốc Cộng, và qua tâm sự đời anh gói ghém nhiều chi tiết sống động lồng trong sự trải dài lịch sử khổ đau của dân tộc. Sách cho thấy bối cảnh người dân quê quá nhọc nhằn, quá tội nghiệp, và quá thương tâm khi tranh tối tranh sáng giữa hai lằn đạn, mà những thế hệ con cháu chúng ta tại hải ngoại này có thể xem đây là chuyện hoang tưởng. Ngoài chuyện "Mẹ Tôi" được dùng làm đề tựa ra còn có (9) tác phẩm khác nữa như: Trở Giấc, Nỗi Buồn Mang Theo, Nỗi Băn Khoăn, Mùa Xuân Trong Lòng, Những Mùa Noel Cũ, Bạn Tôi, Anh Em Tôi, Bay Vào Lòng Mẹ, và Niềm Riêng. Tôi thấy rằng mỗi bài có những nét hay riêng, mỗi bài làm lòng tôi bâng khuâng, chùng xuống trong ý nghĩ man mác như khi đến đoạn cuối của bài "Nỗi Băn Khoăn", tác giả kể về dì Chúc, tức người em ruột của "Mẹ". Khi "Mẹ" đau dì bán chiếc khuyên vàng lo thuốc thang cho "Mẹ", vào những ngày hàn vi trước 54, như chi tiết trong bài "Mẹ Tôi" kể lại. Tôi muốn để chữ Mẹ trong ngoặc kép như tên gọi, cùng ám chỉ một danh từ riêng thân thương. Trong ý tưởng chung hay riêng thì lòng Mẹ bao la, tình Mẹ bao giờ cũng chứa chan nhân ái; Với tôi, tôi thích đọc tất cả những bài văn tri ân đấng sinh thành. Hôm anh email tôi bản thảo để đọc. Bài viết đầu tiên thu hút những ấn tượng đáng nhớ lắm về "Mẹ Tôi", đã khiến tôi vô cùng xúc động với những gì tác giả ghi nhận từ ký ức cũ của mình.
Điểm sau cùng là người bạn đời Mỹ Thanh của tác giả, chị đã chia sẻ tất cả những nỗi khổ đau của đời anh, và chính chị đã khuyến khích anh viết lại và xuất bản sách này. Hôm Tết Nguyên Đán 2006 tôi gặp anh trong buổi tiệc liên hoan của Thời Luận, anh kể tôi chị Mỹ Thanh đôn đốc anh hãy viết lại những tháng ngày hàn vi nơi đất Bắc. Giờ đây anh đã hoàn tất một tuyển tập truyện ngắn dầy khoảng 150 trang như lời cổ động của người hiền thê. Hình bìa sách là bức tranh mẫu rất đẹp mắt, vẽ cò mẹ cùng đàn cò con dại như chuyện gia đình của cụ Tú Xương thuở trước. Riêng với "chị cò" Mỹ Thanh, tôi xin dâng đóa hoa hồng để cám ơn những khuyến khích đáng quý và nó cũng là nổ lực cần thiết của chị để anh hoàn thành văn tập này vậy.
Việt Hải Los Angeles

Tuesday, May 6, 2014

Những Cánh Đại Bàng Sau Cơn Bão Lửa 
 Phạm tín an Ninh

 Mùa hè Cali có những cơn mưa bất chợt. Riêng buổi chiều nay dù ngoài trời chói chang nắng hạ nhưng trong lòng tôi mơ hồ như đang ngập những cơn mưa. Trước mặt tôi hôm nay là những cánh đại bàng đã phải trải qua một cơn bão lửa. Cái hình ảnh bi tráng ấy thực sự đã gây trong tôi bao điều cảm xúc.
Tôi được một người đàn anh, cũng là cấp chỉ huy của tôi ngày trước, mời đến tham dự Buổi Họp Mặt Khóa Võ Bị Đà Lạt của anh. Buổi họp măt được đặt tên: Bảy Mươi Tuổi Đời – Năm Mươi Tuổi Lính. Chỉ mới nghe qua cái tên thôi, cũng đủ cảm thấy ngậm ngùi. Bởi ở tuổi bảy mươi, liệu các anh còn được gặp lại nhau bao nhiêu lần nữa, để cùng nhắc nhớ một thời trẻ trung, trận mạc. Thời mà hầu hết các anh đã từng là những cánh chim đại bàng xoải cánh trên các trận chiến hào hùng, oanh liệt, nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận một kết cuộc tức tưởi, oan khiên.

Cách đây năm mươi năm. Buổi sáng ngày 11.11.1960, hai trăm mười người trai trẻ, xếp bút nghiên chọn đời binh nghiệp, nhập học Khóa 17 VBQGVN. Vì nhu cầu chiến trường, họ đã ra trường sớm hơn dự định. Chỉ sau các niên trưởng Khóa 16 ba tháng. Ngày 30.3.1963, đúng một trăm tám mươi Tân Thiếu Úy tốt nghiệp, hành trang văn võ song toàn, như những cánh chim non rời tổ với đôi cánh sẵn sàng thử thách trước phong ba, theo những mũi tên từ chiếc cung của vị thủ khoa Vĩnh Nhi, bay đi khắp bốn phương trời lửa đạn.
Hôm nay, sau bao vinh nhục, thăng trầm, những chàng trai trẻ ấy giờ đã trên dưới bảy mươi. Từ khắp nơi qui tụ về đây với những mái đầu đã bạc. Nếu không phải vì cái tình đồng môn Võ Bị, có lẽ hầu hết đều đang sống lặng lẽ ở đâu đó, như những cánh đại bàng sau cơn bão lửa, xếp mảnh tàn y giữ lấy cho mình một chút hào khí ngày xưa, dư âm của một thời tung hoành ngang dọc, sống chết cùng đồng đội anh em, để tạm quên bớt phần nào đau đớn từ những vết thương không lành được trong lòng.

Gặp lại nhau, gọi tên nhau mừng rỡ. Ngỡ mình như những chàng sinh viên sĩ quan trai trẻ, ngày nào đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nhựng rồi sau khi hướng về lá Quốc Kỳ cùng hát bài Quốc Ca năm xưa, tất cả đều thấy lòng chùng xuống. Bởi còn có một điều gì đó làm họ đau đớn hơn vết thương trong lòng họ: Quê Hương và Bạn Bè đã mất. Chương Trình được bắt đầu bằng Buổi Lể Tưởng Niệm Truyền Thống Võ Bị, tưởng nhớ và tạ tội cùng Núi Sông, đồng đội, đặc biệt những đồng môn Võ Bị đã hy sinh, mà họ đã chưa trả được món nợ máu xương này. Những mái đầu bạc lại cúi xuống ngậm ngùi, thổn thức theo từng lời bi hùng như phảng phất đâu đây bao oan hồn tử sĩ, của bài truy điệu mà tác giả là vị Chị Huy Trưởng lỗi lạc vang tiếng một thời:
"Lúc bấy giờ...
Nơi cánh đồng chiêm Bắc Việt
Bên con rạch nhỏ Đồng Nai
Trong cánh rừng sâu Trung Việt
Phút chốc... Liệt vị... đã trở nên người thiên cổ
Sự nghiệp đang công đeo đuổi
Thôi cũng đành đứt đoạn nửa đường
................
Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến
Đám sương mù tàn tạ mảnh chinh y...
...................
Chí tuy còn mong tiến bước
Nhưng sức không kham nổi đoạn đường."

Trên bàn thờ, tám mươi hai ngọn nến được thắp lên, tượng trưng cho tám mươi hai vị đồng môn đã lần lượt hy sinh lẫm liệt ngoài chiến trường, hay bị giết dã man trong các trại tù Cộng Sản. Con chim đầu tiên gãy cánh, Thiếu úy Phan Tất Trí, chỉ mới bảy ngày sau khi trình diện Sư Đoàn 2 BB, đã anh dũng hy sinh. Thiếu úy Đặng Ngọc Khiết, trưởng toán Biệt Kích Delta, nhảy xuống miền Bắc, sa vào tay giặc, bị xử tử tại chợ Ninh Bình năm 1964. Vị thủ khoa Vĩnh Nhi, với biết bao hào quang đón chờ trước mặt, cũng đã bỏ mình bên bờ sông Bảo Định, Mỹ Tho, vào buổi chiều mồng ba Tết Mậu Thân. Người mang cấp bậc cao nhất, Đại Tá Võ Toàn, vị Trung Đoàn Trưởng nổi danh của SĐ1BB, đã mất theo cùng vận nước vào ngày cuối cùng của Quân Đoàn I. Xác thân ông nằm lại ở một nơi nào đó trên quê nhà. Và người tử trận cuối cùng, vào giờ thứ 25 cuộc chiến: Trung Tá BĐQ Đoàn Đình Thiệu, hy sinh vào lúc 10 giờ sáng ngày 30.4.75 tại Mặt Trân Phú Lâm, khi quyết tử chiến cản đường địch quân tiến chiếm Sài Gòn. Sau ngày cuộc chiến kết thúc trong tức tưởi, Trung Tá Võ Vàng, một cấp chỉ huy nổi danh ngay từ lúc còn là Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, bị bọn CS giết một cách man rợ và hèn mạt tại trại tù Kỳ Sơn, Quảng Nam. Trung Tá Huỳnh văn Lượm, vị Lữ Đoàn Phó của binh chủng TQLC hào hùng, cũng đã chết một cách đau lòng trong trại tù Z30A Xuân Lôc. Tôi cũng thấy đau nhói trong lòng khi được nghe các anh kể lại một đồng môn tài ba, sống anh hùng và chết hiên ngang: Trung tá Phan ngọc Lương, một tiểu đoàn trưởng nổi danh ở SD 1 BB bị trọng thương, cụt chân và phải giải ngũ năm 1972. Sau đó anh làm quân ủy trung ương của đảng Đại Việt, được Tướng Ngô Quang Trưởng mời làm cố vấn chính trị cho Ông. Sau ngày miền Trung mất vào tay giặc, anh tổ chức và tham gia hoạt động quân sự chống lại nhà cầm quyền cộng sản. Không may, anh cùng một số chiến hữu lãnh đạo sa lưới và bị tử hình vào ngày 9 tháng 9 năm 1979. Đúng vào một ngày gió mưa tầm tã. Cái chết oai hùng của anh gây rất nhiều xúc động cho nhân dân thành phố Huế.

Hôm nay, cũng có mặt bà quả phụ Võ Vàng và cháu Võ Hải, trưởng nam của Đại Tá Võ Toàn, đến họp mặt cùng với những đồng môn của phu quân, thân phụ, mang theo nỗi niềm cùng ánh mắt u uẩn của người thân đã mất. Tiếng chiêng trống cùng âm vang não nùng của bài truy điệu làm nhiều người rơi lệ, dẫu nước mắt của họ có lẽ đã khô cằn cạn kiệt. Trong hội trường, hầu hết những vị đã từng là Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, Liên Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, Liên Đoàn Phó Biệt Cách Nhảy Dù, Phi Đoàn Trưởng Không Quân và một số vị Tiểu Đoàn Trưởng nổi danh trên trận mạc. Tôi hình dung tới những cánh đại bàng từng một thời oai phong lẫm liệt trên khắp các chiến trường mịt mù lửa đạn. Sau ngày mất nước, hầu hết đều bị kẻ thù giam cầm hành hạ hơn 13, 14 năm trong các trại tù Nam-Bắc. Ngày trở về, cũng có bao gia đình chia lìa tan tác. Vậy mà trong gần hai ngày được ở bên cạnh họ, tôi không hề nghe một ai tự ngợi ca thành tích, chiến công, hay có một lời oán trách các vị chỉ huy, những Tướng Lãnh đã bỏ họ ra đi trong giờ phút tử sinh.

Đứng trước họ, tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi. Thoáng xấu hổ về những chiến công, tù tội, cùng sự mất mát đã từng kể lể với bạn bè. Tôi cũng đã từng bị thương tích trong chiến tranh, tù đày ở các trại tù Nam- Bắc. Cha tôi cũng đã bị chết trong một trại tù khi ở tuổi 70. Vợ con tôi cũng đã phải sống cảnh nheo nhóc khốn cùng sau ngày mất nước. Nhưng so với họ, các điều ấy trở nên quá đỗi bé nhỏ, tầm thường. Ngày xưa, tôi đã từng ngưỡng mộ họ, khi họ là những con đại bàng lẫm liệt tung cánh trên khắp miền trận mạc, thì hôm nay, tôi vô cùng cảm phục, dẫu cung kiếm không còn, họ chỉ là những con đại bàng thương tích, mỏi mòn với năm tháng tha hương. Nhưng ở đâu đó trong họ, tôi vẫn bắt gặp hào khí của người lính chiến, lòng vị tha và nhất là tư cách của một cấp chỉ huy.

Tôi lại nhớ tới cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi nghiệp cho điều mong ước và những dự tính của của Ông đã phải đứt đoạn nửa đường. Khi quyết định thành lập Trường Võ Bị Quốc Gia, Ông luôn kỳ vọng vào những sĩ quan trẻ tuổi, xuất thân với đầy đủ khả năng văn võ để trở thành những vị Tướng Lãnh liêm khiết tài ba, lãnh đạo Quân Đội, Đất Nước sau này. Tiếc là vận nước điêu linh quá sớm. Chỉ cần vài ba năm nữa, trong số những người đứng trước mặt tôi hôm nay, sẽ có nhiều vị Tư Lệnh tài đức vẹn toàn, giữ vững được giang sơn.
Khóa 17 được chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt tên Lê Lai. Có lẽ cái tên này đã quyện vào số mệnh của họ. Dù tài ba thao lược đến đâu, cuối cùng họ cũng chỉ là những Lê Lai, mà không bao giờ có thể trở thành Lê Lợi được.

Người đàn anh của tôi hôm nay, cũng từng là một vị Trung Đoàn Trưởng trẻ tuổi, thao lược can trường. Chiến thắng Kontum và giữ vững được Cao Nguyên trong Mùa Hè Đỏ Lửa , anh đã góp một phần không nhỏ. Ngày 13.03.75, khi cùng toán quân đầu tiên của Trung Đoàn từ Hàm Rồng, Pleiku đổ xuống Phước An, biết tình hình không thể nào cứu vãn được Ban Mê Thuột, nơi có vợ con mình ẩn trốn trong trại gia binh, anh vẫn hiên ngang đi đầu cùng những người lính khinh binh. Từng đoàn xe tăng T 54 và đại quân Cộng Sản theo QL 21 tràn xuống Khánh Dương, bao vây Bộ Chỉ Huy nhẹ của anh trên đỉnh đèo Chu Cúc, anh cùng vị Sĩ Quan Hành Quân thoát được vòng vây. Nhưng đó cũng chính là lúc anh cảm thấy tuyệt vọng nhất trong suốt cả đoạn đời binh nghiệp. Bị tù đày hơn 13 năm. Sang Mỹ muộn màng theo diện HO, nhờ trình độ Anh Văn khá, anh kiếm được việc làm sớm đủ để lo lắng cho các con ăn học. Bây giờ anh sống lặng lẽ cùng với gia đình ở ngoại ô thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm và nghiên cứu về Thiền Học. Gặp lại anh em đồng đội cũ, anh luôn dang rộng hai tay như muốn ôm lấy hết cái tình huynh đệ, một thời cùng sống chết bên nhau. Và chỉ có những lúc ấy, chúng tôi mới nhìn thấy đôi mắt anh sáng lên cùng với nụ cười rạng rỡ.
Nếu trong sách sử, có những trang từng ca tụng những người lính chiến bại, thì hôm nay, tôi xin được viết thêm những dòng nhỏ nhoi này để xin ca ngợi các anh, những cánh đại bàng hào hùng sau một cơn bão lửa, vẫn luôn giữ được hào khí và cung cách của mình. Cho dù, đối với các anh, bất cứ một lời ca tụng nào cũng đã trở thành phù phiếm, thừa thải tự lâu rồi.

Đất nước đang ngày một tan tác điêu linh trong tay của đám người bất lương chiến thắng. Nhất định có lúc, dân tộc sẽ viết lại những bản hùng ca dành cho những người bại trận oan khiên tức tưởi năm xưa.

Phạm Tín An Ninh