Sunday, October 31, 2010



Tâm Tình Người Lính VNCH Tỵ Nạn Thái Lan
( Trích trong hồi ký : Cuộc Đời Đổi Thay )
Mũ xanh Nhuyễn Minh Châu

Thưa quý vị,
Mỗi năm tới ngày lễ Halloween là tôi nhớ đến ngày đầu tiên tôi bước chân đến mảnh đất tự do để tạm dung thân. Tôi đã được may mắn vô cùng, trong khi có hàng vạn người thật vô phước đã không bao giờ tìm được hai chữ Tự Do. Một số người đã bỏ mình vì bị chìm ghe bởi sóng to gió lớn của biển cả và một số người khác bị hải tặc hãm hại đến chết hoặc bị tàu của hải tặc đánh chìm. Trong số những người bất hạnh nầy có ông Cảnh, Phó quận hành chánh của tôi ở Đức Hoà bị chết chìm khi lội vào bờ biển của xứ Thai Lan và một ông Phó quận hành chánh khác của tôi bị bọn cướp Thái Lan ném xuống biển lúc ông đã chống đối lại khi chúng làm hại vợ ông. Vì tôn trọng người quá cố và không muốn gợi lại nỗi buồn và đau khổ cho gia đình ủa ông nên tôi không tiện nêu tên ra.

Hai ông Phó quận nầy là hai vị Đốc sự hành chánh có khã năng nghề nghiệp và rất giỏi giắn. Hai ông đã giúp tôi tôi rất nhiều về việc điều hành cơ quan hành chánh quận, xã và ấp. Tôi rất buồn vì Hai ông đều vắn số, nhưng tôi được nghe những cựu viên chức của quận Đức Hoà và Dĩ An cho biết là vợ con của các ông ấy đã có cuộc sống rất ổn định nơi xứ người. Vợ chồng chúng tôi xin chia mừng cùng các bà và các cháu. Chúng tôi nghĩ là hai ông cũng yên phận nơi chín suối.

Lộ trình vượt biển.

Trong những tháng dài hơn một năm sống ẩn dật vì trốn việt cộng địa phương bắt tôi lại để trả thù khi tôi được miền Bẳc thả ra sớm hơn vì lý do tàn phế, vợ tôi đã tìm đường và đưa tôi đi vượt biển hai lần tại Nha Trang, nhưng bị bại lộ phải trở về Saigon và một lần thứ ba tại Cà Mau mà chuyến đi bị đình hoản quá lâu nên chúng tôi đành bỏ cuộc.

Nhưng rồi cuối cùng lần thứ tư, tôi đi lọt trên chiếc thuyền con chỉ dài có hơn chín thước do người em trai của vợ tôi tổ chức đi ra cửa Vàm Láng Gò Công. Tôi chỉ tốn tiền mua một cái hải bàn của ghe đánh cá thường dùng đi biển và tôi làm hoa tiêu để hướng dẫn con thuyền đi đến vùng vịnh Thái Lan.

Tất cả phụ nữ và co nít đều được dấu dưới khoan ghe, còn vài người đàn ông chúng tôi giả dạng dân đánh cá ngồi phía trên và thay phiên nhau lái ghe và tát nước khi những lượn sóng to đưa nước vào thuyền.

Chúng tôi xuất phát bằng xe đò từ bến Xóm Củi Chợ Lớn đến quận lỵ Cần Giuộc, rồi đi bộ đến bờ sông Cần Giuộc để lên ghe nhỏ và bắt đầu chuyến đi giữa ban ngày. Khi chiếc thuyền của chúng tôi bắt đầu nổ máy thì tên du kích trong làng phát giác biết được là ghe vượt biên bèn bắn mấy phát súng AK 47 để chận chúng tôi lại, anh tài công xả hết ga và chạy thoát.

Chúng tôi ra khỏi cửa biển lúc trời sẫm tối và còn thấy lờ mờ những ánh đèn của Thị xã Vũng Tàu. Nhưng, ánh đèn pha thật sáng trên đỉnh núi Lớn vẫn còn hiện rõ phía sau lưng chúng tôi. Nhờ cái đèn pha nầy mà tôi dễ định được vị trí của con thuyền và nhắm hướng ra khơi dễ dàng.

Tuy ghe nhỏ nhưng dùng đầu máy mạnh và chở ít người nên thuyền của chúng tôi đã mau đến vùng hải phận quốc tế rất an toàn vào lúc lúc trời ẩm tối ngày hôm sau. Tất cả trên ghe ai cũng đều thở phào nhẹ bổng vì chúng tôi đã thoát khỏi bàn tay khát máu của cộng sản.

Lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng nếu có chết chìm trong chuyến hành trình trên biển chúng tôi cũng được chết giữa dòng nước trong lành hơn là chết tức tửi trong dòng nước hôi tanh mùi máu của bọn cộng sản Việt Nam. Bây giờ tôi cứ giữ con thuyền cho đúng hướng mà đi tiếp giữa vùng trời biển cả bao la rất đẹp. Chúng tôi đã qua khỏi những giờ phút sợ hãi và không còn :

Phập phòng bao nỗi lo âu
Bôn ba trốn chạy, trông mau thoát nàn
Có đâu tâm trí ngắm nhìn
Trăng sao, mây nước, để làm thành thơ

( Trich trong bài thơ Vượt Biên thơ của vợ tôi )

Bây giờ chúng tôi đang lênh đênh trên vùng biển quốc tế, tâm trí được thảnh thơi, tôi nghĩ ngay tới cái đèn pha Vũng Tàu và cám ơn nó đã giúp tôi làm điểm chuẩn để ra khơi.

Rồi một vài kỷ niệm vui buồn thoáng qua trong tâm tôi vì tôi đã nhớ lại là tại đỉnh núi Lớn nầy tôi đã lái chiếc xe Jeep lên đó vài lần để ngắm nhìn cảnh bình minh của biển Vũng Tàu thật là ngoạn mục. Lúc bấy giờ là đầu năm 1965, thời gian Tiểu đoàn 3 TQLC được nghỉ dưởng quân tại Bải Dâu Vũng Tàu một tuần lễ sau cuộc hành quân mệt mỏi tại đảo Phú Quốc khoảng ba tháng và hành quân tại vùng núi rừng Bình Gỉa hai tháng.

Từ cuối năm 1964 chiến trường miền Nam bắt đầu gia tăng khi Cộng sản đã cho xâm nhập các đơn vị của chúng từ cấp Trung đoàn để mở các cuộc hành quân đánh phá các đơn vị của chúng ta. Bắt đầu là trận Bình giã ( 31/12/1964 ) rồi các trận Ba Gia, Phụng Dư, Đồng Xoài, Đức Cơ, Bố Đức, Pleime, …TĐ3 TQLC đang hành quân tại đảo Phú Quốc được cấp tốc không vận tiếp cứu cho TĐ4 TQLC tại Bình Gỉa.và hành quân truy kích các Trung đoàn Q761 và Q762 tại vùng Xuyên Mộc, Long Lễ, Bà Rịa. Xong được không vận ra vùng 2 Chiến thuật để giải tỏa áp lực của SĐ 3 Sao vàng CSBV đang uy hiếp các quận Bồng Sơn, Tam Quan, An Lão, Phù Cát, Phù Mỹ vv…thuộc tỉnh Bình Định. Nơi đây Trung tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy Chiến đoàn TQLC gốm có TĐ2, TĐ3 và TĐ4 làm cho SĐ 3 Sao vàng phải chịu nhiều tổn thất rất nặng nề tại các trận đánh đèo Bình Đê, Chợ Bộng thuộc quận Bồng Sơn…và chúng phải nể danh các đoàn quân TQLCVN.

Các đơn vị tổng trừ bị và thiện chiến phải hành quân liên miên trong những năm dài gian khổ để truy lùng và tiêu diệt quân Cộng sản hoăc mở các cuộc hành quân tiếp viện. Tôi bèn nhớ lại những thuở mà anh em chiến sĩ chúng tôi đã tung hoành trên bốn miền Chiến thuật và được dịp nhìn thấy nhiều cảnh rất đẹp của quê hương Việt Nam mà ngày hôm nay tôi bắt đầu phải bỏ xứ để ra đi không biết ngày trở về.

Đến khoảng 1 giờ sáng ngày thứ nhì, ghe nhỏ vẫn tiếp tục lướt sóng ngoài biển khơi thì bị một cơn mưa bảo với sóng to gió thổi mạnh. Nước vào ghe nên mọi đàn ông thanh niên phải rán sức mà tát nước. Chúng tôi thấy cái chết trong gang tất. Nhưng tôi vẫn bình tỉnh điều khiển ghe cố gắng lướt sóng ngang mà đi tới.

Thật là may mắn, sau bốn ngày đêm lênh đênh trên biển chúng tôi vừa cạn hết nước uống thì được tàu đánh cá Thailand cứu vớt vì ông thuyền trưởng nhìn thấy chiếc ghe nhỏ quá mà có phụ nữ và trẻ con, nếu ông không giúp thì chắc chắn ghe không chịu nỗi những lượn sóng to của đại dương, chúng tôi sẽ là mồi ngon của loài cá mập. Toán người vượt biển chúng tôi phải theo tàu họ đánh cá suốt hai tuần lễ rồi họ chở cá bán cho Singapore và luôn tiện thả thuyền nhân vào bờ. Trong hai tuần lễ trên tàu chúng tôi được họ nuôi ăn ở rất thoải mái và đối xử rất tử tế.

Lúc tàu đánh cá chạy gần tới bờ biển Singapore thì phi cơ tuần biển của nước nầy phát giác ra một số thuyền nhân nên báo cáo về nhà cầm quyền Singapore. Chúng tôi hồi họp và nôn nóng cả ngày chờ đợi sự chấp thuận của chính quyền cho nhập cư hay không. Nhưng sau rốt Singapore chẳng cho tàu Thái vào hải cảng bán cá lại còn cho một chiếc tuần dương hạm kè chiếc tàu Thái trở về tới biên giới Thái và Mã Lai.

Ông thuyền trưởng không dám cho tàu đánh cá vào sát bờ để thả chúng tôi xuống đất liền và ông cũng căn dặn kỷ là không cho chánh quyền Thái biết là tàu của ông đã giúp chúng tôi. Ông cũng không cho biết danh tánh và địa chỉ của ông để sau nầy chúng tôi có thể liên lạc. Ông đích thân điều khiên thuỷ thủ đóng một chiếc bè cho chúng tôi đẩy vào. Phụ nữ và trẻ con ngồi trên bè, đàn ông và thanh niên cặp theo bè lội vào bờ.

Vì tay và chân mặt tôi bị yếu nên tôi đã đánh rớt chiếc túi nhỏ trong đựng bộ đồ tôi mặc lúc vượt biên và vài bộ đồ lót. Khi lên tới bờ thân tôi chỉ còn mỗi một chiếc quần đùi rách mông để che thân.

Tôi còn tiếc mãi bộ đồ tây nầy mà tôi đã từng mặc đi tù từ Nam ra Bắc, rồi mặc từ Bắc trở về Nam và mỗi lần chuyển trại tù cũng với bộ đồ nầy. Ba lần tìm đường vượt biển cũng bộ đồ nầy, rồi lần cuối cùng đi vượt biển lọt tôi cũng đã mặc lấy nó. Tôi dự định khi qua tới nước Mỹ sẽ giữ lấy bộ đồ phong trần nầy làm vật kỷ niệm qúi giá vô cùng, như một kỷ vật lịch sử của đoạn đường đời của tôi đầy gian truân.

Tới bến bờ tự do.

Chúng tôi đến bến bờ Thái Lan an toàn và cảm thấy vui sướng vô cùng đến xúc động vì biết là tôi còn sống. Tôi bèn hít một hơi thở thật dài và rất khoan khoái trên mảnh đất không có cộng sản. Từ nay tôi sẽ được sống an toàn và tự do mặc dù nơi vùng trời xa lạ. Tôi nghĩ chắc mọi thuyền nhân khác cũng như tôi rất vui mừng như được tái sinh vì đã thoát chết lúc đi biển.

Số phận tôi đã yên, nhưng vợ con tôi còn bị kẹt lại nên lòng vẫn ưu phiền vì nỗi nhớ vợ thương con và nỗi nhớ quê hương không biết bao giờ được trở lại. Tôi buồn lắm ! vì :

Mang Thân mất nước lưu vong
Lạc loài xứ lạ kiếm tìm tự do
Nước ta xứ bé nhỏ nghèo
Nhưng không đâu sánh cho bằng Việt Nam
Và :
Gẫm thân xa xứ lạc loài
Buồn nhiều vui ít ôi đời ly hương .
(Thơ Bơ Vơ. TN)

Nơi chúng tôi đổ bộ vào bờ là một quận ở tận cùng phía Nam của đất Thái, bên kia con sông thuộc vùng đất Mã Lai. Chính quyền địa phương cho toán thuyền nhân tạm trú trên một sân khấu công cộng dùng để trình diễn văn nghệ cho dân chúng xem vào những dịp lễ hay ngày cuối tuần và sân khấu nầy nằm ngay trung tâm quận lỵ.
Nghe tin đồn thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam mới tới đây, dân Thái Lan nơi quận gồm có đàn ông, đàn bà và con nít lũ lượt đến xem chúng tôi mỗi lúc càng đông. Họ xí xô xí xào bằng tiếng Thái, chỉ chỏ đoàn người tỵ nạn và cười thích thú mà tôi không biết họ nói những gì. Tôi cũng bật cười vì tưởng chừng như họ đi xem chúng tôi như xem đoàn khỉ của một gánh xiệc. Chắc là dân nơi đây họ chưa thấy người Việt Nam bao giờ.

Từ người lớn tới đứa bé gái nhỏ hai tuổi trong toán thuyền nhân chúng tôi đều bơ phờ và hốc hác vì thiếu ăn, thiếu ngủ và thiếu nước uống. Thời tiết thì ngày thật nóng bức, đêm lại lạnh căm. Riêng tôi làm hoa tiêu nên phải ngồi trên mũi ghe suốt bốn ngày đêm dưới ánh mặt trời nóng cháy da và đêm lạnh nên mặt tôi bị nứt nẻ và nám đen như anh Chà Ấn Độ.

Một chuyện buồn cười mà tôi không bao giờ quên là mỗi khi tôi di chuyển qua lại trên sân khấu tôi phải lấy tay bụm cái mông lại vì cái quần càng rách to ra mỗi lần tôi xê dịch. Một cô giáo Thái ở nhà bên cạnh thấy tôi như vậy cô cười thương hại nên mang qua cho tôi cái quần tây cũ của cô màu vàng sáng chói, nhưng tôi cắt hai ống dài bỏ ra thành một cái quần short mặc vào cũng thoải mái.

Tôi cảm thấy tủi thân lắm ! vì mới năm nào trước đây mình là một cấp chỉ huy trong binh chủng TQLC, và một quận trưởng đã chỉ huy một cơ quan hành chánh và đã từng chỉ huy bao nhiêu chiến sĩ thuộc quyền mà bây giờ tôi chỉ là một kẻ vô quốc tịch, vô gia cư và vô nghề nghiệp. Tôi không còn một manh áo để che thân. Nhưng, tôi hy vọng người Mỹ sẽ chấp nhận tôi vào đất nước của họ theo diện tỵ nạn và rồi từ đây tôi sẽ cố gắng vươn lên để tạo dựng lại cuộc sống mới.

Tại vùng đất hứa nơi tôi sẽ tới
Quyết vượt khó khăn dựng lại cuộc đời
MC

Trại tỵ nạn Songkhla, Thailand.

Trong thời gian ở quận Tarkpay, Thailand, mỗi ngày toán thuyền nhân chúng tôi được chính quyền quận cung cấp thức ăn và chúng tôi cũng được dân chúng lai rai tiếp tế nên không sợ bị đói khát. Nhưng chúng tôi rất lo âu chờ đợi quyết định cho nhập cư hay không của chính quyền cao cấp hơn.
Sau ba tuần lễ ăn ở và làm trò vui cho dân chúng địa phương trên sân khấu công cộng của quận Tarkpay, đoàn thuyền nhân chúng tôi được chánh quyền Thái cho phép vào trại tỵ nạn Songkhla nằm phía Nam của Thủ Đô Bangkok. Thật là mừng vui không thể tả vì trước khi chúng tôi tới trại nầy cơ quan chánh quyền quận định cho chúng tôi tháp tùng một chiếc tàu chở chật ních người đi theo diện đăng ký để kéo ra khơi, vì lúc nầy họ không được phép nhận thuyền nhân nữa.


Số hồ sơ Tỵ nạn - 60-662

Trại Songkhla trước đây mấy năm nằm trong đất liền, nhưng nay vì dân số thuyền nhân càng ngày càng đông nên nhà cầm quyền Thái cho dời ra vùng đất trống nằm sát bờ biển có vị trí rộng rãi hơn. Những dảy nhà tôle không đủ để cho mấy thuyền nhân tới sau ở nên chúng tôi phải xin hoặc mượn tiền của những người tới trước có thân nhân trợ giúp để mua tre và lá xây dựng tạm những mái che mưa nắng và làm sạp để ngủ.

Điều kiện sống thật là dơ bẩn nên ruồi lằn đầy dẫy khắp nơi dễ sanh ra nhiều thứ bịnh cho thuyền nhân. Trại không đủ nhà vệ sinh cung ứng cho số người quá đông đảo. Tội nghiệp cho một số người vì không thể sắp hàng dài lê thê phải đứng xa tít phía sau mà chờ đợi lâu, nên bất cần sự kín đáo riêng tư, họ ngồi đại ngồi càng ngoài đồng trống trải không có gì để che thân, trông thật là kỳ cục nhưng thật tội cho họ, không biết làm gì hơn trong lúc khẩn cấp quá đi.

Mỗi ngày những thuyền nhân được Cao Uỷ Tỵ Nạn cung cấp thức ăn như thịt cá và đường cát trắng tương đối đủ sống hằng ngày. Gạo Thái Lan trắng thơm ngon thì được cấp quá dư thừa. Tôi nhìn những đống cơm thừa cá cặn bị đổ bỏ phung phí mà cảm thấy tội nghiệp cho vợ con tôi bên nhà phải ăn bo bo cứng như đá và thiếu thức ăn để dinh dưởng.

Tôi đã từng sống trong cảnh nghèo khổ lúc còn thơ ấu, nhưng chưa bao giờ thấy cái nạn thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu mọi nhu cầu cho cuộc sống của đồng bào Việt Nam quá khổ sở dưới sự thống trị của bọn cộng sản vô lương tâm.

Trong thời gian chờ đợi để được phỏng vấn tôi tận lực trao dồi Anh ngữ qua sách báo để ôn lại và học hỏi thêm từ ngữ Anh văn. Khả năng Anh văn của tôi chỉ có thể nói chuyện thông thường được chút ít nhờ trong thời gian làm việc phải tiếp xúc với cố vấn Mỹ. Nhưng dù sao đi nữa tôi cũng có chút căn bản hơn nhiều người không biết một chữ sinh ngữ Anh và Pháp. Có một số người mang sách vở Anh văn đến nhờ tôi giảng nghĩa và tôi rất sẵn lòng giúp đở đồng thời để học ôn lại luôn thể và họ quí trong tôi như một ông thầy dạy học.

Bây giờ tôi nhớ lại mà buồn cười cho cái thân tôi vì không khác gì câu chuyện mà người đời hay nói rằng “ giữa một nhóm người mù tôi là thằng chột được làm vua “.

Ngoài ra tôi cũng có dạy kèm Pháp văn mà tôi còn chút vốn vì lúc xưa đã học chương trình Pháp. Nhờ dạy kèm Anh và Pháp ngữ mà tôi được cung cấp mỗi ngày hai bưa cơm cũng đở đói lòng trong hoàn cảnh cô đơn nơi trại tỵ nạn.

Trong thời gian sống nơi trại Songkha tôi có viết thơ cho vài bạn bè để báo tin mừng và thăm hỏi cùng với dụng ý muốn xin tiền để sắm một bộ đồ mặc đi Mỹ mà ngại ngùng không dám nói ra. Tôi rất vui mừng nhận được một bức thư đầu tiên với số tiền $50.00 của Thượng sĩ Nguyễn Văn Phẳng, trước là Hạ sĩ quan thường vụ của Bộ chỉ huy Chi khu Dĩ An. Ông mừng rỡ khi nhận tin tôi nhắn trong báo Việt ngử bên Mỹ gởi qua cho dân tỵ nạn đọc. Trong thư ông có lời xin lỗi tôi vì ông đã không tuân lịnh tôi ở lại cố thủ mà đào ngũ để xuống tàu di tản trước ngày 30 tháng 4.

Tôi rất thông cảm ông vì các nhà Lãnh đạo cùng nhiều Tướng lãnh và nhiều sĩ quan Cao cấp đã bỏ biết bao lính tráng dưới quyền để bỏ nước ra đi. Chi khu của chúng tôi có mất đi một Thượng sĩ mà nhằm nhò gì ? Lý do mà ông Phẳng phải bỏ tôi ra đi mặc dù ông rất quí mến tôi là vì ông đã biết rõ sự gian manh của bọn Việt Minh mà ông thường hay kể cho vợ chồng chúng tôi nghe những gì ông đã chứng kiến vào những ngày cuối cùng của thời hạn di cư vô miền Nam sau Hiệp định Génève năm 1954. Lúc đó ông còn là binh sĩ của đơn vị Commando của Pháp ở ngoài Bắc.

Tôi cũng có nhận được năm mươi dollars của cựu Đô Đốc Cang gởi cho và $20.00 của anh Trung tá Nguyễn Thế Thứ, người đã thay thế chức Quận trưởng Dĩ An khoản một năm và vào lúc cuối tôi lại trở về Dĩa An từ quận Đức Hoà. Một trăm hai mươi dollars bên Thái lúc bấy giờ là một số tiền khá lớn đủ cho tôi sắm sửa và may quần áo.
Ngoài ra tôi chẳng được một chữ hồi âm nào của một vài anh bạn rất thân với vợ chồng chúng tôi và rất kính nể chúng tôi trước kia. Thật buồn ! Lúc mình sa cơ rồi mới thấy rõ tình đời bạc trắng như vôi.

Ông Thượng sĩ Phẳng đã mất vì bịnh tim hơn mười năm nay tại thành phố Denver tiểu bang Colorado. Tôi vẫn còn nhớ thương ông rất nhiều vì lúc xưa ông rất gần gủi vợ chồng chúng tôi, và ông là cứu tinh của tôi trong lúc túng thiếu nơi trại tỵ nạn. Tôi cũng nhớ ơn cựu Đô đốc Cang và anh Thứ đã sốt sắn giúp đở tôi.

Phong trào phục quốc.

Lúc nầy mọi người dân trong nước đều rất mong chờ một phong trào phục quốc từ bên ngoài về để quang phục quê hương đang sống dưới sự cai trị độc tài của loài quỉ đỏ. Đã có rất nhiều tin đồn trong nước rằng nơi nầy có ông Đại tá …đã trở về nước và đang chỉ huy một đoàn quân tại núi Bà Đen, Tây Ninh, nơi kia có một ông Tướng… về nước chỉ huy Sư đoàn TQLC tại khu rừng Sát vv…

Tôi là một cựu Trung tá với 21 năm trong quân đội và đã làm Quận trưởng tám năm nên tôi biết rất nhiều cấp chỉ huy trong quân đội và trong cơ quan hành chánh. Mặc dù một số đã di tản trước 30 tháng 4, nhưng cũng còn rất nhiều cấp chỉ huy ở lại trong nước. Riêng trong binh chủng TQLC mà tôi đã từng phục vụ, từ vị Tư Lịnh Phó Sư đoàn đến vài Lữ đoàn trưởng và Tiểu đoàn trưởng hầu hết đã vào rọ rồi, còn ai đâu mà chỉ huy binh lính. Khu rừng Sát sình lầy có vị trí nhỏ hẹp chổ đâu mà cho binh lính của một Sư đoàn đóng quân. Chỉ có người thường dân không hiểu biết về quân sự mới tin những lời đồn nhảm đó mà thôi.

Trước khi vượt biển vợ chồng chúng tôi đã biết trước là thế nào cũng có phong trào nầy phong trào nọ và phục quốc vv…bên các trại tỵ nạn. Vợ tôi đã tiên đoán chuyện sẽ xảy đến, nên có khuyên tôi rằng : Em thấy cuộc đời nhà binh của anh đã quá gian khổ, nào là thương tích bị tàn phế, đi tù rồi về nhà bị bắt lại thoát chết và sau đó sống ẩn dật quá khổ sở. Mấy đứa con nhỏ của chúng mình thì sống nheo nhóc, con đau em phải bán từ cái quần cái áo để mà lo thuốc men cho con. Anh thấy không ? bây giờ gia đình mình tự gánh chịu đủ thứ vất vả trong cuộc sống đau đớn ê chề. Em nghĩ là bổn phận của anh với đất nước cũng là tạm đủ rồi. Hậu quả là nay anh và vợ con anh được cái gì ? bây giờ có ai giúp gì cho gia đình mình không ?. Hơn nữa anh chỉ còn lại cái thân tàn ma dại. Nếu anh qua tới trại tỵ nạn họ có lôi kéo anh vào con đường phục quốc nữa thì anh nên dứt khoác đi. Anh không còn sức để mà chiến đấu nữa đâu. Qua tới Mỹ anh lo tìm việc làm để ổn định cuộc sống và gởi tiền về lo cho các con anh.

Khi anh đã vượt biển lọt rồi, em cũng sẽ tìm cách dẫn con rời bỏ cái quê hương nầy mà theo anh để cho con chúng mình có một tương lai vững chắc. Em biết bọn cộng sản chúng nó không bao giờ cho con mình ngóc đầu lên nổi.

Tôi nghe những lời vợ tôi khuyên răn và giải thích mà cảm thấy thấm thía cho cuộc đời mình đã dấn thân 21 năm trong binh nghiệp và buồn rũ rượi muốn rơi nước mắt.

Thật đúng như sự tiên đoán của vợ chồng tôi, khi tôi mới bước chân vào trại Songkhla vài ngày thì có ông Lê Quốc Tuý từ bên Pháp qua, ông mời tôi và một số cựu sĩ quan, công chức và giáo chức đến Ban chỉ huy trại nghe ông ấy nói về tổ chức phục quốc của ông. Ông Tuý tự giới thiệu ông là cựu sĩ quan Không quân của thời Pháp và theo thành phần của chánh phủ Trần Văn Hữu sống lưu vong bên Pháp từ khi cố Tổng thống Ngô Đình Diệm về nước. Ông Tuý cũng cho biết là ông lãnh đạo phong trào nầy và lo về mặt ngoại giao, nên ông đi đến các trại tỵ nạn vận động và tuyển mộ binh lính. Ông cũng cho biết sẽ có hai cựu Tướng lãnh lo về việc chỉ huy mặt trận. Ông nầy nhờ quen biết với em của Phó Thủ tướng Thailand giới thiệu nên ông được tự do vào các trại tỵ nạn Thailand dễ dàng để mộ quân.

Vì ông được biết tôi là cựu Trung tá Quận trưởng ra tù từ Yên Bái nên ông đưa ra vài hình ảnh của hai cựu Tướng lảnh mà tôi thường tiếp xúc trước kia và hình của hai cựu Đại tá bạn của tôi để chứng minh và để lấy lòng tin của đồng bào trong trại.

Tôi có hỏi ông Lê Quốc Tuý về thể thức đưa quân trở về Việt Nam bằng ngỏ nào và nước nào đứng ra yểm trợ phong trào nầy. Ông Tuý trả lời rằng : quân sẽ được đưa về từ ngả Cambodia và phong trào nầy do Trung cộng yểm trợ. Tôi có ý kiến sơ qua với ông ấy là hiện nay đã có cả chục Sư đoàn cộng sản Việt Nam đang chiếm đóng trên đất Miên thì không dễ gì những toán quân phục quốc qua lọt được cái hành lang đó. Một điều nữa mà tôi không đồng ý là miền Nam đã bị bọn cộng sản Việt Nam cưởng chiếm bây giờ lại nhờ thằng cộng sản Tàu giúp thì không khác nào chạy ô mồ lại mắc ô mả.

Sau đó vài tuần ông Tuý và anh cưu Đại tá bạn tôi đã bắt đầu trở vào trại Songkhla nhận người tình nguyện gia nhập phong trào và lập danh sách.

Lúc bấy giờ trong trại Songkhla rất sôi nổi về chuyện phục quốc. Có đa số ghi danh gia nhập là thanh niên, một ít cựu quân nhân các cấp mà lúc đó chỉ có vài cựu Đại uý còn đa số là Hạ sĩ quan và Binh sĩ. Mấy em thanh niên nầy chưa bao giờ đi lính và rất hãnh diện và hãn iện với cái tiếng “ người hùng sắp trở về cứu nước “.

Tôi đã trả lời dứt khoát là tôi không tham gia, tuy nhiên các ông Tuý và Đại tá bạn tôi nhờ tôi trả lời dùm nếu anh em có hỏi thì tôi cho họ biết rằng mấy ông nầy là người của quốc gia thật sự để anh em đừng có nghi ngờ họ là những người do Việt cộng gài vào để bắt bớ ai có tinh thần phục quốc.

Có một số anh em cựu quân nhân hỏi tôi rằng : Ông thầy nhận xét thế nào? Tụi em rất muốn tham gia phong trào nầy và xin cho tụi em biết ý kiến là có được hay không?
Vì việc phục quốc là một cuộc chiến đấu có chính nghĩa cao cả mà tôi chưa biết hư thực ra sao nên tôi không có ý kiến là nên hay không nên tham gia. Nhưng tôi cảm thấy xót xa cho sự trở về của anh em và tôi chỉ nói với mấy em ấy rằng công cuộc phục quốc là đại chính nghĩa của người có lòng yêu nước nhưng mấy em cũng phải biết rằng con đường phục quốc sẽ đầy cam go và gian khổ lắm. Tuỳ sự lựa chọn của mấy em, tôi không khuyến khích mà cũng không ngăn cản.

Sau khi lập danh sách rồi hai ông trong tổ chức phục quốc thông báo ngày giờ họ sẽ cho xe vào trại để rước đoàn quân phục quốc xuất trại và lên đường. Tới ngày đã được ấn định, họ mang xe GMC vào trại và loa phóng thanh kêu gọi những người đã ghi tên lên trình diện tại Ban chỉ huy để được di chuyển ra khỏi trại Songkhla đi đến một nơi khác. Nhưng loa phóng thanh cứ gọi mãi mà chỉ có khoảng hơn một tiểu đội cựu quân nhân trình diện tại sân cờ, còn mấy trăm người khác trốn tránh không chịu ra trình diện.

Sau khi chính thức được nhận nhập cư tại Mỹ tôi được đưa về Bangkok để làm thủ tục và khám sức khoẻ trước khi sang Hoa Kỳ. Tôi có đến thăm hai anh cựu Đại tá trong Ban tham mưu phục quốc đang tạm trú tại một ngôi biệt thự ngay trung tâm Bangkok. Họ có cho tôi biết là một ngày nữa một vi cưu Tướng lãnh sẽ đến và ông nầy sẽ là Tư lịnh chỉ huy trực tiếp lực lượng phục quốc. Tôi có gặp lại mấy anh em đã sống trong trại Songkhla với tôi đã được đưa đến tạm đóng quân tại đây để chờ ông Tuý đến các trại tỵ nạn khác ở vùng biên giới Thái Miên tuyển thêm quân.

Lúc ấy tôi rất cảm thương mấy anh em nầy vì biết rằng anh em sẽ rất gian khổ và tôi kính phục vô cùng sự hy sinh lớn lao của anh em với tấm lòng yêu nước cao cả. Sau khi tôi qua Mỹ vài tháng thì hay tin ông Tuý và Bộ tham mưu hành quân gồm có hai cựu Tướng lãnh và các cựu Đại tá bạn của tôi đã bất đồng chánh kiến và tan rã. Tất cả những người trong mặt trận nầy đã trở về Mỹ.

Vài năm sau tôi nghe tin là phòng trào nầy đã về Việt Nam hoạt động với những nườc từ bên Pháp và bị bại lộ nên đại sự không thành. Tuy nhiên tôi rất khâm phục tấm lòng của ông Tuý cùng những vị hết lòng yêu nước đã can đảm dấn thân vào cuộc quang phục quê hương. Tôi đã nghe tin tinh buồn là ông Tuý đã qua đời tại nước Pháp trong nhiều năm qua và ông Trần Văn Bá đã bị tử bọn Việt cộng xử tử hình. Tôi kính cẩn nghiêng mình tưởng mộ chiến sĩ Trần Văn Bá và một số chiến sĩ nữa không nhớ rõ tên đã anh dũng hy sinh vì tổ quốc .


Khi mới vào trại Songkhla tôi đã nghe nói rằng bên xứ Mỹ nầy : Nhứt là phái nữ, hai con nít, ba là … rồi mới tới bọn đàn ông chúng tôi là hàng thứ kế.

Mà quả thật như vậy, trong hai tháng ở Songkhla tôi nhận thấy những người phái nữ có chút nhan sắc mặn mà và dễ coi qua cặp mắt xanh của các anh Chờ đợi phỏng vấn.

Mỗi thuyền nhân phải qua cuộc phỏng vấn của các phái đoàn của nước mình muốn xin định cư tỵ nạn. Có người được đi theo diện bảo lãnh từ các nước mà thân nhân đang sống. Còn những cựu quân nhân như chúng tôi thì được người Mỹ chấp nhận cho định cư theo điều kiện ba.

Một điều làm tôi chán ngán và bất mãn vô cùng là những anh trong phái đoàn Mỹ phỏng vấn có những thái độ rất là bất công và không còn coi chúng tôi là những ngưới lính đồng minh của quân đội Mỹ đã chiến đấu sát cánh bên nhau trong thời chiến tranh Việt Nam trước đây.
phỏng vấn cũng là yếu tố để được chấp thuận cho định cư dễ dàng. Xin lỗi có thể mấy chị em ăn chơi nét đẹp duyên dáng còn có giá hơn chúng tôi.

Trong khi đó những anh em cựu quân nhân bị hạch hỏi đủ điều mà tôi cho là quá đáng. Có những anh em sĩ quan trẻ bị mấy anh Mỹ trong ban phỏng vấn hạch hỏi rằng cây súng lục hiệu Colt 12 cân nặng bao nhiêu và dài mấy inches ?

Tôi nghĩ thật cho buồn tủi cho người lính bại trận mất nước lưu vong. Thuyền nhân mới vừa bước chân tới bến bờ đất Thái như chết đi sống lại, thể xác và tinh thần còn tả tơi, tên tuổi của vợ con mình chưa chắc còn nhớ hay không mà làm gì nhớ những cái thứ lẩm cẩm nầy ? Có một em cấp Thiếu uý than thở với tôi rằng : ông thầy ơi! họ bảo em tả hình dạng cây súng Colt thì em còn nhớ được, nhưng khi ông Mỹ hỏi em sức nặng và kích thước em nói trật nên họ nói em khai gian, họ nói em là sĩ quan tại sao không biết rõ kích thước của cây súng lục. Họ bảo em về chờ để xét lại rồi sẽ quyết định. Và mỗi lần được phỏng vấn lại phải mất mấy tháng nữa nên em nản quá !

“ Những điều nầy làm cho tôi có nỗi suy tư và rất buồn cho thân phận của một nước Việt Nam nhỏ bé phải chịu biết bao ảnh hưởng của chính trường quốc tế “.

Sau cuộc chiến mà dồng minh đã tháo chạy và bỏ lại một miền Nam đau khổ và chúng tôi, những cựu quân nhân và công chức của chế độ cũ bị đày đoạ trong các trại tù khổ sai, mất cả nhân phẫm của con người. Các vị cựu lãnh đạo của miền Nam, các vị chỉ huy Cao cấp cũ trong Quân đội của chúng tôi có lẽ vì bận lo ổn định cuộc sống mới nơi xứ người nên không có thì giờ mà nghĩ đến việc cứu sống sống sinh mạng anh em trong tù .

Nước Mỹ đồng minh và cả thế giới đều bỏ mặc hay quên lãng chúng tôi ?, mặc tình cho bọn cộng sản tha hồ đày đoạ.
Chúng tôi đã từng ngày mong ngóng và lắng nghe những tiếng nói của các vị đã bỏ nước đi trước và thế giới bên ngoài với lương tri nhân loại sẽ binh vực và cứu giúp chúng tôi. Nhưng niềm mong đợi của chúng tôi chỉ là sự tuyệt vọng. Tôi tưởng chừng như Việt Nam lúc bấy giờ bị bức màn sắt ly cách với thế giới bên ngoài. Tha hồ cho bọn cộng sản là kẻ chiến thắng mặc tình thao túng.

Người dân Việt không thể sống nổi dưới chế độ của chúng phải đánh liều mạng sống mà vượt trùng dương bằng những chiếc thuyền con để đổi lấy hai chữ tự do.

Chúng tôi là cựu quân nhân đã bị tù đày cộng sản thật là nhục nhã, bây giờ cũng cảm thấy nhục lắm vì phải xin xỏ để được một nước thứ ba chấp nhận cho định cư tỵ nạn. Khi lên gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn vài em chiến sĩ trẻ nhẹ dạ cũng muốn xón đái lên rồi, bởi vì nếu bị bác lần phỏng vấn nầy là phải chờ đợi thêm một thời gian mấy tháng dài mới được gọi phỏng vấn lại.

Tôi may mắn được anh cựu Thiếu tá Mỹ giúp đở tận tình. Lúc bấy giờ ông ấy là Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thailand. Lúc xưa ông không có phục vụ tại Việt Nam, nhưng ông có làm cố vấn cho Quân đội Cao Miên. Ông nghe nói có một cựu Trung tá của QLVNCH đã đi tù ngoài Bắc mới vào trại. Ông ta đã mời tôi lên văn phòng để hỏi tình hình trại tù ra sao. Tôi kể lại rõ ràng tất cả những tình trạng mà tôi đã sống ngoài Yên Bái. Tôi có khai cấp bực và chức vụ cũ, khai cả ba huy chương Mỹ mà tôi nghĩ rằng cũng là yếu tố để chứng minh. Tôi cũng có cho biết rằng trong thời gian tôi làm Quận trưởng Dĩ An, Biên Hoà, ông Đại sứ hiện tại tên White House tại Bangkok là Lãnh sự tại Biên Hoà trước năm 1975. Vị Cao uỷ nầy rất tin lời khai của tôi và ông đã tận tinh giúp tôi. Tôi vẫn còn nhớ chiếc áo thun TQLC mà ông đã tặng tôi. Ông cũng giúp tôi ưu tiên được phỏng vấn thật sớm.

Trong thời gian khoảng hai tháng tại trại Songkha tôi đã chứng kiến tận mắt và nghe tận tai những hành động man rợ của bọn hải tặc Thái. Lúc đó có vô số người đã chết vì bị hảm hiếp hoặc bị đấm chìm giữa lòng đại dương thật quá đau thương chỉ vì hai chữ Tự Do.

Trong những năm chiến tranh, các chiến sĩ đồng đội của tôi đã phải bỏ nhiều xương máu trong chiến cuộc vì chiến đấu cho chính nghĩa tự do, nhưng nay cũng vì đi tìm một cuộc sống tự do mà anh em đồng đội chúng tôi lại tiếp tục hy sinh máu xương thêm nữa trên đường vượt biển. Những hậu quả nầy là do bọn cộng sản bạo tàn gây ra cho một dân tộc triền miên đau khổ.

Sau cùng tôi được một gia đình Mỹ bảo trợ và lòng tôi cảm thấy vui, buồn và lo âu lẫn lộn. Tôi rất vui là sắp bước chân lên vùng đất tự do. Tôi lo là vì qua xứ Mỹ văn minh mà không có một cái nghề nghiệp gì và chân tay lại không được khoẻ mạnh như người bình thường. Tôi vẫn còn nỗi ưu phiền là vì vợ và con còn kẹt lại bên nhà mà đến nay đã xa nhau mấy tháng rồi vẫn chưa có tin tức. Tôi không biết được chuyện gì lại xảy ra cho vợ con tôi bên nhà ?

Và tôi không quên những anh em chiến hữu của tôi còn lại trong trại tỵ nạn đang hồi họp chờ đợi phái đoàn Mỹ chấp thuận cho định cư càng sớm càng tốt. Nếu vì lý do gì mà họ bị kẹt lại sáu tháng, một năm hoặc hai năm thật là thời gian uổng phí cho cuộc đời.

Thân tôi đã yên phận rồi
Nhưng còn bao nỗi âu sầu đắn đo
MC

Kỷ niệm ngày mới bước chân lên đất Mỹ tỵ nạn đúng lễ Hallowen.

Monday, October 25, 2010

Đưa anh về nhà

Trần Như Hùng
Đây là bài ghi lại nguyên văn câu chuyện do em gái cố Th/U Lưu Đức Linh, phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn TQLC thuật lại.

Th/U Lưu Đức Linh, khóa 3/72 Trừ bị Thủ Đức, đầu tiên được bổ sung về TĐ 9 Mãnh Hổ, sau đó thuyên chuyển về phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến SĐ. Tháng Ba năm 1975 anh mất tích ở Đà Nẵng khi SĐ/TQLC triệt thoái về Nam. Ba mươi hai năm sau, các em anh về lại VN tìm được di cốt và cải táng, đưa anh về nằm bên cạnh mồ mẹ.

Cuối tháng Ba 1975, ở Sài Gòn khi nghe tin toàn bộ Sư đoàn TQLC ở Đà Nẵng di tản về Vũng Tàu bằng đường thủy Ba em có ra đó để đón anh Linh. Chờ hoài không thấy, Ba em hỏi thăm những người về, có người thì nói thấy anh Linh em bơi ra
(Th/U Lưu Đức Linh (Phòng TLC) đứng bìa trái, kế đó là 3 MX không rõ tên, đứng bên bìa phải là Th/U Đặng Phạm Hùng, Phòng ANQĐ/SĐ)
biển nhưng bị chết chìm, người thì nói anh Linh bị chân vịt của tàu chém vào chân nên bị chìm … Oái oăm là có người bà con phía bên Ba em nói chính mắt ông thấy anh Linh chết trên biển. Nghe tin như vậy xong, Ba em trở về SG đi thẳng vào tiệm hớt tóc cạo đầu trước rồi mới về nhà. Đến nhà Ba nói với Má em thằng Linh chết rồi xong ông đi thẳng lên lầu. Má em òa lên khóc vật vã làm cả nhà náo loạn, chúng em còn quá nhỏ cũng chỉ biết ngồi bên cạnh ôm Má khóc theo, không giúp được gì. Cả nhà chìm trong đau thương, dù Ba Má em trong thâm tâm vẫn tin (hay vẫn ước mong?) rằng anh Linh còn sống và thế nào rồi cũng sẽ về với gia đình.

Qua tháng Tư 1975 khi làm sóng di tản ở Sài Gòn bắt đầu ồ ạt, gia đình em cũng có tên trong danh sách đi Mỹ bằng phi cơ qua phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Ba em quyết định chờ xem anh Linh có về không. Và ngày 30/4 đến. Thế là xong.

Sau ngày 30/4/1975 Ba Má và chúng em vẫn tiếp tục chờ, nhưng ngày này sang tháng nọ anh vẫn biệt tăm. Đến năm 1976 thì Má em có lẽ đã tuyệt vọng nên cuối tháng Ba 1976 bà làm mâm cơm cúng rồi bảo tụi em “tụi bay cúng anh Linh bay đi”. Thế nhưng chúng em không cúng và cãi lại “anh Linh chết hồi nào mà Má kêu tụi con quỳ cúng”. Mặc cho Má khóc tụi em nhất định không cúng!

(Cũng trong năm 1976, một hôm có một anh tới nhà nói với Má em rằng “con là bạn của Linh, cùng bị bắt chung. Chúng con có giao với nhau ai trốn thoát về được thì ghé nhà người kia báo tin. Con vừa trốn về được nên ghé đây báo ngay”. Khi tụi em đưa 2 tấm hình, 1 của anh Linh, 1 của anh Tư em ra, anh đó chỉ đúng hình anh Linh. Má em mừng lắm, hỏi “ con có thể chỉ giùm bác chỗ giam để bác đi thăm Linh không?” . Anh ấy nói để ghé về Đà Lạt thăm gia đình rồi sẽ quay trở lại cho biết tin chi tiết nhưng rồi từ đó hoàn toàn bặt tin, gia đình em không hề gặp lại. Em không biết tên anh đó là gì.

Có người nữa thì nói với chúng em là trước đó có biết anh Linh (từng cùng nhau đi nhậu ở Huế), khi mất Đà Nẵng thì gặp anh Linh cũng bị bắt tập trung tại 1 trường học, sau đó phân tán mất tin.

Tháng Tám 1978 chị Ba em sinh bé trai đầu lòng. Được vài tuần, một tối chị nằm mơ thấy anh Linh về. Chị hỏi “ anh đi đây đây?” thì anh trả lời “ Tao nghe mày sanh nên về thăm, nhưng thôi để tao lên lầu thăm Ba Má đã”. Sau đó anh trở xuống nắm tay chị Ba em kéo đi. Chị Ba em không biết gì cứ theo anh Linh, đi, đi mãi. Một lúc sau anh Linh dắt chị Ba em rẽ vào một lùm cỏ tranh, anh đi trước hai tay vẹt cỏ tranh, chị Ba em theo sau. Đi một đoạn thì thấy ngôi mộ có bia đề tên “Lưu Đức Linh”, ngay trước mặt có con suối nhỏ. Rồi chị Ba em tỉnh giấc, kêu cả nhà dậy và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ai cũng nghĩ “nếu đúng vậy thì anh Hai em đã chết trong rừng nhưng biết anh chết ở tỉnh nào, nơi nào mà đi tìm?” Chúng em rất phân vân vì nhớ đến trước đó có nhiều người nói anh Linh em đã chết ngoài biển, mà nay linh hồn anh lại về báo mộng là chết ở đất liền? Sau đó chị Ba em đi coi bói, đưa tấm hình của anh Linh thì người coi nói liền “anh này chết rồi, chết trên đồi núi cao, không chết sông chết biển …”

Thế rồi sau đó trong năm 1978, Má em cố gắng xoay sở cho chúng em lần lượt từng đứa vượt biển. Chuyện này dài giòng, em xin bỏ qua, vì nghĩ chắc mấy anh cũng hiểu, sau khi đến được bến bờ tự do, chúng em, như mọi người, cũng lo bương chải, vật lộn với cuộc sống nên quên mất việc tìm kiếm tin tức người anh xấu số của mình. (Viết tới đây mà em không cầm được nước mắt vì thấy ân hận đã quá có lỗi với linh hồn anh Linh em!)

*

Bẵng đi một thời gian, đến năm 2006, em Việt gửi thư cho trang web Tổng Hội TQLC nhắn tin nhờ tất cả các bạn của anh Linh hay các anh trong TQLC tìm giúp tin tức về anh. Có một vài anh cùng khóa liên lạc lại và nói để hỏi thăm tìm kiếm, nhưng rồi … cũng chẳng có tin gì. Chúng em buồn vô cùng, vì như vậy, chính các anh cũng không biết tin gì về anh Linh hết.

Đầu năm 2007 chúng em họp lại, bàn bạc và thưa với Ba em xin phép về Việt Nam đi tìm tung tích anh Linh. Ba em gạt đi bảo rằng cát bụi trở về cát bụi, đi tìm làm gì nữa. Chúng em đồng phản đối, thưa với Ba rằng Ba Má cho tụi con qua đây, nay tụi con được sống sung sướng tại sao không quay về tìm cho được xem anh nằm ở đâu để đưa xương cốt anh về chứ tội nghiệp anh nằm bơ vơ xa gia đình đã 32 năm rồi; và mặc cho Ba nói gì thì nói, tụi em quyết định với nhau là phải làm cho được chuyện này.

(Trước đó năm 2006 có người cùng quê với Ba em là chú Lan từng về Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nhờ được 1 ông thầy tâm linh tên là thầy Quýt giúp đã tìm được cốt người mẹ vợ của ông trước kia chết vì bị Pháp bắn và chôn sống. Chú Lan liên lạc hứa sẽ giúp đưa chúng em đến tìm ông thầy Quýt để nhờ tìm anh). Chúng em nhờ người bà con ở Huế ra Đồng Hới trước, tìm gặp ông thầy Quýt, đưa ngày tháng năm sanh của anh Linh cho ông ấy xem. Vừa xem xong ông ấy nói ngay “anh này chết rồi”. Hỏi làm sao chết thì ông ấy nói “anh ấy là lính bên kia, đang lao động làm cỏ thì có người rủ đi trốn nhưng 5 người trốn thì bị bắt lại 3…” Nghe vậy chúng em háo hức vô cùng mong từng ngày cho đến lúc về đi tìm anh Linh. Khi chúng em lên đường, lúc đó Ba mới nói các con đi kiếm được anh Linh rồi thì thiêu đem về đây cho Ba ôm nó một chút, Ba nhớ nó lắm.

*

Lần đầu về Việt Nam

Tháng Hai năm 2007, 3 chị em gái tụi em cùng về Việt Nam. Nghỉ 1 đêm ở nhà trọ, hôm sau chúng em lên thăm mộ bà nội và má rồi bay ra Huế. Phi cơ đáp xuống Phú Bài lúc gần 5 giờ chiều, chúng em lên taxi đi ngay ra Đồng Hới.

Tới Đồng Hới thì trời đã tối khuya nên chúng em thuê phòng khách sạn ngủ qua đêm để sáng hôm sau sẽ đến nhà thầy Quýt. (Đêm đó cả 3 đứa chập chờn, trằn trọc không ngủ được, mới 2 giờ sáng đã lồm cồm dậy hết ngồi bó gối mong cho trời mau sáng!) 9 giờ sáng chúng em tìm đến nhà thầy Quýt, đến nơi ông đang xem cho 2 gia đình khác nên chúng em phải ngồi chờ. Đến lượt chúng em, đợi chị Ba em thắp nhang trước bàn thờ Phật bà Quan Âm xong thầy Quýt nói “tìm gì nữa đây? Bữa trước tôi có mách cho người tới đây tìm anh ấy rồi mà”. Tụi em thưa “ Dạ đúng, tụi con có nhờ người bà con tới hỏi nhưng nghĩ lại nếu đích thân tới hỏi Thầy thì chính xác hơn”. Rồi tụi em đưa hình anh Linh cùng ngày tháng năm sinh của anh và xin thầy “chỉ vẽ giúp anh con còn sống hay chết và chết thì chết ở đâu”.

Bàn tay của thầy bỗng run lên , thầy lấy tấm giấy vẽ bản đồ và nói “anh ấy chết rồi, chết trong trại học tập”.

Thầy vẽ hình “con đường đi lên núi, chú thích con đường rất hẹp, tới đó có 1 miếng đất hình vuông, đi vào trong thì có nhiều nấm mộ mới của những người mới chết, có bia xong mới tới mộ của anh Linh, kế bên có 1 cái mộ đã bốc đi rồi , còn lại mộ anh và mộ 1 người khác nằm gần ngay đó”. (Anh có biết ngôi mộ đã bốc đi là mộ của anh Lê Đình Lời, TQLC không? Người bạn tù chôn anh Lời khi được về đã chỉ cho gia đình anh biết để ra bốc mộ anh).

Thầy nói với tụi em “ anh muốn về nhà lắm rồi 32 năm rồi linh hồn của anh vẫn ở giữ cái mộ đó không đi đâu hết, tội nghiệp anh lắm, đưa anh về đi” Thầy cũng nói rõ là “ mộ trên trại Bình Điền, chung quanh có lính gác” và nói thêm “ sẽ có 2 người giúp đỡ, 1 người khoảng 70 tuổi và 1 người cụt tay”…

Quay về Huế , sáng hôm sau chúng em nhờ 1 người quen ở Huế cùng đi dẫn lên trại Bình Điền, cô L. này có 1 người bạn học cũ thời Trung học, bây giờ làm Trại phó trại Bình Điền. Cô L. gọi điện thoại cho hắn thì hắn bảo tới chợ Bình Điền thì ngồi chờ gọi hắn sẽ xuống. Tuy nhiên tới chợ Bình Điền ngồi chờ 1 lúc lâu hắn lại kêu chúng em lên thẳng Trại. Chúng em thuê honda ôm , 2 người 1 xe, đến cổng đi bộ vào văn phòng gặp hắn. Bấy giờ hắn bảo sẽ còn phải lục tìm hồ sơ xem có tên Lưu Đức Linh không đã, rồi lấy xe chở đưa chúng em lên núi đến khu nghĩa trang chỉ cho xem nhưng thấy trong đó toàn là mộ có bia của những người mới chết. (Trong thâm tâm em nghĩ nhờ anh Linh phù hộ nên hắn có vẻ dễ chịu với chúng em). Hắn cho xe đưa chúng em xuống núi, bằng con đường khác để tìm hỏi một số người dân lúc trước 1975 sống tại khu vực trại Bình Điền này. Em gặp 1 gia đình sống ở đó đã rất lâu. Chị chủ nhà nói “hồi các anh lính Cộng Hòa bị bắt học tập, mỗi lần các anh bị đi lao động ngang nhà, tui thường luộc sắn và khoai lang để sẵn ở 1 góc nào đó cho các anh”. Em gởi chị này ít tiền, nhờ chị hôm sau lên khu nghĩa trang phát cỏ tranh vì thấy cỏ quá cao. Người CA quen với cô L. chở tiếp chúng em tới 1 khu trại nữa cùng khu vực này nhưng lúc đó đang giải tỏa làm đường, hắn nói là sẽ mang tất cả hài cốt của lính Cộng Hòa và cả bộ đội VC chôn ở đó sang nơi khác, bởi thế không vào được. Trên đường ra hắn đưa chúng em ghé nhà 1 người cai tù cũ ở trại 4 Bình Điền tên là Bình, hỏi có biết ai ở đó từng là cai tù ở trại 1 hay không. Người tên Bình nói “ tất cả đều đã về hưu, đa số là về Quảng Trị, chỉ có mỗi mình tôi (Bình) sau khi về hưu xin ở lại Bình Điền” rồi chỉ cho chúng em cách đi tìm mấy người cai tù (của trại 1) nay sống ở Quảng Trị.

Về lại Huế nghỉ một đêm, sáng hôm sau chúng em chia làm 2 toán, 1 đi ra Quảng Trị tìm nhà mấy người cai tù cũ như được chỉ, 1 toán thì trở lại Bình Điền. Khi tới chợ Bình Điền cô L. lại gọi điện thoại cho viên CA trại phó nhờ giúp thì hắn bảo “ cứ ghé nhà chú Bình chú ấy sẽ đưa đi”. Ông ta dẫn chúng em đi theo 1 con đường hẹp và dốc khá đứng (y như lời thầy Quýt chỉ!). Từ chân núi đi lên chúng em vừa đi vừa thở, vừa than thầm Trời ơi! Từ nhỏ tới lớn có bao giờ đi thế này, bây giờ nghĩ mới thấy thương các anh ngày xưa leo đèo, leo núi hành quân cực khổ ra sao …Thật là mệt gần chết! Lên tới nơi, ngay chỗ nghĩa trang mà chúng em đã tới hôm trước, mấy đứa chúng em đốt bó nhang lớn chia nhau thắp khắp nơi, vừa cắm vừa van vái thầm anh Linh khôn thiêng chỉ cho chúng em tìm ra mộ phần của anh… Bỗng dưng có tiếng chim rất lạ kêu lên, không hiểu sao em nghe thấy tiếng kêu thật thảm thiết và sợ run người . Chúng em lần mò đạp lên đám cỏ tranh (đã nhờ người cắt) len lỏi đi qua khu mộ mới có bia, tới khu trong đường đi khúc khuỷu, khó khăn, lên dốc, xuống đồi , có chỗ phải len lỏi như đang đi xuống vực. Chị Ba của em trượt chân té , cả người chị tuột xuống dốc, chị hoảng hốt đưa tay chụp đám dây leo chằng chịt, nhằm bụi gai bị đâm chảy máu tay ròng ròng … Chúng em tự nhủ “không lẽ đây là máu mủ tình thâm, anh Linh chỉ cho chúng em thấy chỗ chôn rồi hay sao?” Thế nhưng nơi chị Ba em té xuống là đất bằng phẳng , không có dấu vết của ngôi mộ nào hết, đi xuống phía dưới một chút thấy có dòng suối nhỏ . Quanh quẩn mãi đến chiều mà không tìm thấy gì cả, chúng em phần thất vọng, phần mỏi mệt quá nên đành quay về Huế.

Người em họ của em ra Quảng Trị quay về cho hay không tìm được tung tích của những người cai tù trại 1 cũ như được chỉ vì kẻ thì đã chết, người thì đi vào vùng kinh tế mới làm nương rẫy cả rồi … Đêm hôm đó mấy đứa em không ngủ được ngồi bàn với nhau lấy tấm họa đồ thầy Quýt đã vẽ ra xem thì thấy“con đường đi lên núi nhỏ hẹp thì đúng rồi, đi vào đám cỏ tranh, ngang qua khu các mộ mới có bia cũng đúng mà đi xuống nữa thì có thấy ngôi mộ nào đã được bốc đi như ông thầy vẽ đâu?” Loay hoay tụi em cứ nghĩ hoài mà không ra và lại thêm một đêm mất ngủ ( hầu như mấy đêm liền tụi em chẳng đêm nào ngủ được, cứ chừng 2, 3 giờ sáng là mấy chị em lại thức dậy cùng nhau bàn, nghĩ ngợi rồi thở dài!)

Sáng dậy em quyết định trở ra Đồng Hới tìm thầy Quýt. Mấy đứa em quỳ hết xuống năn nỉ thầy cùng đi để tìm giúp mộ anh Linh. Thầy Quýt nói “nếu như anh chết nằm ngoài CôngAn quản lý thì tôi đi với các anh chị”. Chúng em nghe vậy thì thở dài (chứ biết nói gì) Thầy lại nói “ Lúc trước tôi đã đi tìm mộ cho cả 2 bên, tìm được cả ngàn ngôi mộ rồi, tôi là đảng viên, cấp trên thấy vậy tước quyền Đảng viên của tôi, sau này tôi tìm được mộ cán bộ cao cấp hắn đến nói trả lại Đảng viên cho tôi. Nhưng tôi trả lời, tôi không cần nữa, tôi làm việc tìm mộ này là vì lương tâm đạo đức thôi chứ tôi không cằn Đảng nữa đâu, mấy ông lấy đem về đi”. Rồi một lần nữa thầy lấy giấy ra vẽ lại sơ đồ giống y lần trước, thầy còn nằm dài xuống nền gạch, nói “anh nằm đây nè, ở ngay phía dưới là con suối chảy”. Đứng dậy, thầy vỗ 2 tay lên đầu , nói “ anh muốn về với gia đình lắm rồi”. Chúng em chẳng biết nói gì hơn đành đứng lên cám ơn để về Huế. Trước khi đi chúng em nhờ thầy coi giùm Ba em ra sao, thầy nói “Ba đang đau đầu đó, đưa anh về đi. Đưa anh về là Ba hết đau đầu liền”. Chúng em nhìn nhau, không biết nói gì mà lòng thì khâm phục thầy (bởi vì trước khi tụi em về Việt Nam 2 tuần Ba bị bệnh đau đầu, mà đau ghê lắm, phải đưa đi Bác sĩ, tới ngày tụi em đi Ba mới đỡ đau đôi chút!)

Trở lại Huế, bữa sau tụi em quyết định trở ra Quảng Trị lần nữa để tìm người cai tù (trại 1) hôm trước người em họ chưa tới được, không ngờ lần này tụi em lại gặp và thấy ông này … bị cụt tay (!). Tụi em nói rõ là đi tìm mộ anh Hai và nhờ giúp. Ông ta kể là về làm ở trại Bình Điền năm 1977 và nói muốn dẫn tụi em tới 1 ông thầy ở Quảng Trị cũng “hay lắm” để nhờ gọi hồn xem. Tụi em bàn nhau nên đi để xem ông này nói có ăn khớp với thầy Quýt ở Đồng Hới không. Bữa đó ông thầy này không tiếp, hẹn sáng sớm ngày mai quay lại. Tụi em về Huế , sáng hôm sau ra Quảng Trị sớm.

*

Sáng hôm sau đến nhà ông thầy Quảng Trị sớm lắm, chúng em vào cúng, đưa tên tuổi anh Hai cho thầy. Chờ một lúc thầy thắp nhang, khấn vái rồi nói “ anh đây bị đưa đi tất cả 3 trại tù, trại thứ nhất là Phong Điền, (trại thứ hai tên gì bây giờ em không nhớ), rồi trại thứ ba là Bình Điền, anh tù , đói và bệnh nên chết”. Rồi ông chỉ cô em thứ chín của em nói “anh về sẽ vào người cô này nè”. Em Chín của em ngồi im không nhúc nhích hồi lâu rồi cứ lạy bàn thờ và lạy thầy. Thầy nói “ bây giờ anh mở miệng nói đi, người nhà đi tìm anh về đó” . Chúng em ngồi chung quanh mới hỏi “ Anh chết ở đâu, nói cho chúng em biết để tụi em đưa anh về nằm gần Má. Má thương nhớ anh lắm nên Má mới chết, còn Ba nữa, Ba cũng nhớ anh lắm và đang đau đầu nặng lắm.. anh nói đi, nếu anh không nói được thì anh viết ra cho tụi em biết …”. Em lấy cây viết và tờ giấy đưa cho “anh”. “Anh” viết từng nét một, có nét dài, nét ngắn, rốt cuộc đọc ra chữ Điền, xong buông viết xuống khóc một cách tức tối … Thầy nói “có chuyện gì uất ức thì nói ra đi, mở miệng ra nói đi ..” nhưng “anh” không nói mà chỉ khóc và khóc hoài thôi . Em mới hỏi “anh có biết em là ai không” thì không trả lời mà gật đầu, rồi ngả đầu trên vai em và lại khóc nữa. Chúng em cũng khóc và nói “tụi em xin lỗi anh, xin anh đừng giận nữa, 32 năm chúng em muốn nhưng không biết anh ở đâu mà tìm, hơn nữa thời điểm đó chúng em đều còn nhỏ quá, mà Ba có đi Vũng Tàu rồi lại ra Đà Nẵng tìm anh mà tìm không ra …”. Chúng em đứa nào cũng xin lỗi, xin “anh” tha thứ mà “anh” không mở miệng được. Thầy mới nói với anh “ thôi chuyện đã lỡ rồi, đừng buồn nữa, thôi mời các anh chị đây uống bia đi”. “Anh” bèn nín khóc và đưa tay ra mời “uống bia”. Trước khi tụi em rời nhà thầy, “anh” có quỳ lạy bàn thờ.

Tới Bình Điền, tụi em cùng ông Bình đi lên núi theo con đường xe hơi chạy được. Tới ngay nơi bữa trước đã ghé, em gái em nhảy liền xuống xe, đi tới sát bờ vực, tụi em phải giữ chặt sợ em té. Em đứng ngó một hồi rồi qauy lại đi vòng vòng … tụi em đi theo mà chẳng thấy có dấu hiệu gì của một ngôi mộ nào hết . Em Chín ngồi xuống bưng mặt khóc rưng rức một hồi, rồi nói ngộp thở quá, ngộp thở quá và xỉu. Tụi em phải đổ nước cho em tỉnh dậy rồi rủ nhau về Huế. Lúc đó tụi em thất vọng vô cùng, đứa nào cũng rầu rĩ vì nghĩ chẳng lẽ mình đành bó tay? Đêm đó tụi em lại ngồi suốt đêm bàn tính và quyết định sáng bữa sau lên Bình Điền lần nữa.

*

Lần này tụi em cũng mang theo họa đồ , nhang đèn, trái cây và bông hoa. Nhưng trên mặt đất (chắc vì bao năm mưa đổ kéo theo đất đá trên cao xuống lấp hết dấu ) nên không biết đâu là mộ anh hết. Tụi em đi xuống phía dưới chút nữa thì có con suối nhỏ (vậy là đúng như thẩy Quýt diễn tả). Quay trở lại thì quả thiệt, tụi em tìm được dấu của ngôi mộ đã bốc đi và cục đá mà thầy Quýt nói giống cái nấm rơm và nhìn thật kỹ thì đúng là như có ai chặt chém gì trên cục đá đó. Tụi em bày hoa quả nhang đèn ra cúng (oái oăm là tụi em ngồi cúng ngay trên đầu mộ anh mà không biết !) rồi về lại Huế.

Đêm đó cậu em họ của em bày hôm sau tới nhà 1 ông thầy tên Sinh ở Vỹ Dạ thỉnh ông đi theo cúng thì mới mong tìm ra mộ. Lúc đó tụi em nghe ai có ý kiến gì cũng đồng ý vì có lẽ bối rối quá không biết níu vô đâu. 3 giờ sáng tụi em mới đi nằm, mà cứ trằn trọc hoài. 6 giờ sáng cậu em họ chạy qua đập cửa, miệng ú ớ kêu tụi em qua phòng nó . Tới cửa phòng hắn chỉ tay lên cánh cửa thì thấy 1 con bướm màu nâu đen lớn lắm, bằng nguyên bàn tay mình xòe ra, em chưa thấy con bướm lớn như vậy bao giờ. Cậu em nói hay là anh Linh về?

Tụi em ghé mời thầy Sinh cùng đi lên núi và thầy đồng ý. Khi ra xe, anh biết em thấy gì không? Một con bướm đen cũng lớn bằng con bướm đã thấy hồi nãy bay theo vào trong xe. Và đi cùng chúng em lên núi. (lúc này thì đứa nào cũng tin là vong linh của anh Hai đã về cùng đi theo tụi em).

Tới nơi thầy Sinh cúng, khấn vái Sơn thần, Thổ địa xin cho phép gặp thân nhân (ông đọc tên tuổi của anh Linh em). Thầy nói thứ tiếng gì tụi em nghe chẳng hiểu gì hết (nghe như tiếng Tàu mà không phải tiếng Tàu). Thầy cầm cây nhang đi vòng quanh, tới 1 gốc cây quơ tay như tóm lấy một vật gì trong không khí và lấy tờ giấy đỏ gói lại. Thầy chỉ một chỗ dưới đất nói đó là nơi mộ của anh và dặn đi đâu cũng phải mang anh theo (tức gói giấy đỏ này). Chúng em đưa thầy về Vỹ Dạ, tạ ơn rồi quay về khách sạn. Lần này thì tụi em quyết định bữa sau nhờ cô L. gặp tên CA Trại phó xin hắn cho đào ngay chứ trễ quá rồi (tụi em xin nghỉ phép về VN được có 2 tuần, mà bữa đó đã là ngày thứ 10).

Gặp viên CA tụi em trình bày là có coi thầy Sinh và được chỉ cho chỗ để đào. Hắn nói, theo họa đồ như thầy Quýt vẽ thì có tới 2 mộ gần nhau, nên bắt tụi em phải sắm 2 cái quách, và nếu đào lên có 2 cốt thì phải chôn lại 1 chỗ, chờ khi nào họ tìm và liên lạc được với thân nhân người kia mới cho đem về! (Em rủa thầm trong bụng trời ơi, chết mà vẫn không yên, vẫn còn bị nó quản lý!) Nhưng làm sao được? Hắn cũng buộc điều kiện phải để cho tù nhân trong trại ra đào, tụi em đồng ý liền, nên hắn cho đưa 5 người tù ra đào.

Em nhờ chia làm 2 toán, 1 đào ở trên, phía bên trái –nơi viên cai tù cụt tay ở Quảng Trị nói năm 1977 ông ta về đó đã thấy có 2 ngôi mộ) , còn toán kia đào ở dưới, phía bên phải. Đất đai gồ ghề , khó đào lắm, họ đào mỗi bên sâu xuống 1 thước mà chẳng thấy gì. Loay hoay mãi cũng không thấy gì, hết giờ CA đòi đưa mấy người tù về trại.

Đêm đó tụi em nhờ cậu em họ và người cháu ở Huế bữa sau tiếp tục lên coi sóc việc tìm kiếm, còn tụi em phải về Sài gòn để thu xếp ngày mốt về lại Mỹ .

Rời Huế mà đứa nào cũng lòng thì tan nát, còn người thì mệt nhoài vì suốt 10 ngày hết đi ra đi vào, cứ lên núi xuống núi mà không thấy được dấu tích gì hứa hẹn cả.

*

Về tới Sài Gòn tụi em rã rời, tuyệt vọng như người khHCMn, nghĩ tới lúc về Mỹ mà ngao ngán. Không ngờ sáng bữa sau người cháu họ điện thoại vào báo mừng rỡ “Dì ơi tụi con tìm thấy Cậu rồi.” (Em không biết tâm trạng của người trúng số độc đắc ra sao, chứ em lúc đó thì rõ ràng là mừng hết lớn!). Người cháu kể, trước khi đào có gọi điện thoại hỏi lại thầy Sinh, thầy bảo cứ từ phía dưới chân dốc núi bên phải nơi có con suối đào ngược lên, tới gần gốc cây, dưới gốc cây thấy có tảng đá thì đúng chỗ. Đào theo lời thầy chỉ, sâu gần 1 thước, ba con nhảy xuống rờ thấy đất ươn ướt. Đào sâu hơn nữa, ba con rờ và gõ trên mặt đất thấy hơi gồ lên thì nghĩ đó là cái sọ… nên lấy tay cào cào đất ra thì thấy là tấm poncho …kéo hết tấm poncho ra thì tất cả mọi người đều thấy rõ 1 người nằm nghiêng, co rúm như người bệnh, nhưng chỉ trong tích tắc, bóng người tan đi, xương rã thành bột trắng hết …Công An kêu hốt bỏ hết vô quách, đem lên phía trên núi chôn lại làm dấu chờ quyết định … Con thấy mây đen kéo tới như sắp mưa nên nhảy cuống theo hốt bỏ vô quách, vừa hốt vừa thừa lúc CA ngó lơ bốc một nắm bột bỏ vô túi để đem về cho Dì …” (vì em đã dặn cháu nhớ hốt dùm em một nhúm bột xương để đem về Mỹ thử DNA ). Nghe xong em mừng tới run hết chân tay, nhưng vẫn thấy buồn quá, vì qua bữa sau nữa là em quay về Mỹ lại rồi mà di cốt của anh thì vẫn còn bỏ lại ngoài đó!

Rồi tụi em đi lên Chùa cầu siêu cho anh (tụi em đã có đặt sẵn bài vị cho anh Linh). Hôm sau khi người em họ bay từ Huế vô đưa cho gói bột, chúng em chia hai, một nhúm để lại chùa, một nhúm mang về Mỹ.

*

Một tháng sau khi về Mỹ, chúng em liên lạc được 1 phòng Lab ở Arizona, họ nhận phân tích và thử DNA. Gủi đi xong, hơn 3 tuần sau liên lạc lại, họ cho biết trong phần bột xương gửi tới, chỉ có 0,5% là tro xương, còn lại 99,5% là đất! Và cho hay chỉ có thể xác nhận kết quả là 10%. (Thì ra người cháu của em, khi hốt vội nắm tro đã bốc lộn nhiều phần đất cát trong đó). Thế nhưng chúng em vẫn tin tưởng rằng đó chính là tro cốt của anh mình vì nhiều lý do, em sẽ kể sau.

Mấy chị em tụi em ngày nào cũng bàn bạc băn khoăn, không biết là tháng 10/2007 sẽ về bốc cốt cải táng hay để sang năm 2008 . Chưa kịp quyết định thì một bữa, người cháu em ở Huế gọi sang báo “nói chuyện với thầy Sinh ở Vỹ Dạ thì thầy mới cho biết anh Linh về báo mộng cho thầy, nói rằng nhờ thầy giữa giùm ngôi mộ vì các em sắp về cải táng! Vậy là tụi em quyết định tháng 10/2007 về bốc mộ anh cho xong. Chúng em nhờ người em họ ở Saigon ra Huế tìm gặp tên CA giữ danh sách những người tù trại Bình Điền nộp đơn xin bốc mộ. Hắn xem đơn xong nói rằng “không có tên Lưu Đức Linh trong danh sách học tập, và lần trước khi đào lên thì chỉ có nắm bột, muốn bốc phải viết đơn rằng xin bốc chiếc quách trong có nắm đất và áo quần rách mới được” (Anh nghĩ xem nghe vậy có đau lòng không?)

Tháng Tám 2007 ba em trở bịnh nặng phải nằm nhà thương. Chúng em quyết định xin phép Ba để 1 cô em gái ở lại chăm sóc, còn chúng em tháng 10/2007 về cải táng cho anh.

Về VN lần thứ nhì

Tuần lễ thứ nhì tháng 10/2007 chúng em về đến Saigon. Sau khi thăm mộ Nội Ngoại và má em chúng em đi Huế. Lúc ấy đang mùa mưa, trời Huế mưa dầm u ám vô cùng não nuột.

Tới Huế, chúng em về tận quê Ba cầu xin ông bà tổ tiên phù hộ, sau đó quyết định ra Đồng Hới gặp thầy Quýt, xin ông cùng đi bốc mộ để phối kiểm cho chắc chắn (vì lúc bốc lên không có mặt chúng em, và kết quả thử DNA chỉ có 10% nên nói thiệt tụi em cũng có chỗ bán tín bán nghi!). Lần đầu ông từ chối. Sáng hôm sau đến sớm, định năn nỉ lần nữa thì bất ngờ ông nói liền “ ra xe, tui đi với các anh chị. Đêm qua en về kêu tui đi tìm mộ en. Tui thấy en ở trần, mặc mỗi quần đùi kể với tui là chết vì bị bệnh và đói. Vậy nên tui phải đi với các anh chị!” Em nghe xong vừa mừng, vừa thương anh phải quay đi chùi nước mắt!

Thầy Quýt nói thêm phải ghé nhà một ông già cùng quê nhờ đi cùng để phòng khi anh Linh không nhập vào chúng em được thì sẽ nhập vào ông đó. Gặp ông ta chúng em nhờ đi tìm người thân, ông lặng lẽ lên xe cùng đi. (Nhắc lại cho anh nhớ rằng, lần đầu tiên gặp thầy Quýt ông có nói là có 2 người sẽ giúp chúng em tìm được mộ anh Linh, 1 là viên Công An già về hưu tên Nguyễn Thanh Bình ở Bình Điền đó- và 1 người cụt tay)

Xe tới Bình Điền, chúng em lại nhờ người tên Bình giúp đưa lên núi. Lúc đó trời đã bớt mưa, chỉ còn lác đác. Bước vào lùm cỏ tranh, bàn tay và đầu thầy Quýt cứ lắc lư không ngừng, tới ngôi mộ thầy ngừng lại nói “đây rồi, mộ en đây rồi”. Ông Bình nói không phải, cái này là mộ mới chôn, phải đi xuống phía dưới vực kia mới có”. Thầy Quýt lắc đầu , dậm chân và nói không đi đâu nữa. Lúc đó trờ tạnh hẳn, thầy kêu bày đồ ra cúng và phải thật nhanh vì nếu trời đổ mưa là không tốt cho anh.

Chúng em bày nhang đèn hoa quả ra, thầy thắp nhang, ngồi xổm khấn vái một hồi và kêu chị Ba em ngồi xuống bên cạnh để xem anh Linh có nhập vào không. Một lúc lâu, không thấy gì, thầy Quýt lại kêu đứa em trai ngồi xuống, cầm một cây nhang vái theo thầy. Cũng chẳng xong, thầy bèn nói ông già đi theo cùng ngồi xuống. Ông này mới ngồi chỉ 2, 3 giây thì cây tre treo tấm phướn trắng thầy Quýt đã viết tên họ anh Linh trên đó bỗng dưng bật lên và mảnh vải bay phần phật như là cờ gặp gió mạnh! Bất ngờ ông già đứng bật dậy, mắt nhắm nghiền khiến phản ứng của tụi em là lùi hết về phái sau. Thầy Quýt nói với ông già đi mà nhận người thân đi! Ông đi vòng vòng, tới vỗ vai chị Ba, rồi đến cậu em trai cũng vỗ lên vai nó. Em đang đứng gần cậu em họ, bèn hơi lùi về phái sau thì ông ta đi qua người em họ đến vỗ vai em mấy cái!

Vỗ xong, ông quay lại đi tới chỗ tên Bình (từng là cai tù trưởng trại 4 Bình Điền) và đập túi bụi lên người hắn ta. Tên Bình lùi lại và nói thôi thôi, được rồi. (Lúc đó em bỗng có linh tính , hay là ngày xưa tên này hành hạ tù nhân và cả anh Linh nữa nên hồn anh về mới đập hắn ta thay vì vỗ về như đã làm với chúng em?) .

Sau khi đập thằng cha này xong, ông già đi về phía chị Ba, nắm tay chị, dắt tới đầu ngôi mộ (mới) đưa tay chỉ và nói “tụi bay chôn tao xéo rồi thấy không?”

Thầy Quýt nói với ông già rằng Thôi nhận vậy đủ rồi, ra đi, không thì mệt người ta”. Nghe vậy, ông già lắc lắc mấy cái rồi mở mắt ra, một lúc sau thì trở lại bình thường.

Thầy Quýt lại khấn vái lầm thầm nữa, bỗng dưng thầy kêu lên như đang nói chuyện với ai đó. “Cái gì, đi theo làm gì, ở lại đây đi, cho en đi về với gia đình en, khó khăn lắm mới đưa được en về , đừng theo níu kéo nữa. Sao, tên gì? Họ Phan hả? Nhà ở đâu, cũng ở Sài gòn à?” Và thầy giải thích cho chúng em hiểu rằng có 1 cái vong chết cạnh anh Linh, quyến luyến nên cứ muốn giữ anh ở lại!

Thầy Quýt khấn vái thêm một chút rồi gieo quẻ và nói “vậy thì xin anh ở lại chơi 1 đêm rồi sáng mai anh về nghe?” Quẻ ra là được, thầy kêu chị Ba em gieo thêm một quẻ nữa, khấn y như vậy và cũng được, tức anh Linh chịu ở lại 1 đêm. Thầy Quýt cầm chai rượu rót xuống đất nói Rượu đây, en đi mời bạn bè uống đi để mai về. Xong, thầy kêu thu xếp xuống núi, và ngay lúc đó trời lại tối sầm, xuống khỏi núi thì trờ đổ mưa trở lại (anh thấy có lạ không?) Thầy Quýt dặn sáng hôm sau khi đào mộ đem quách đi phải tránh không để trúng một giọt nước mưa nào hết.

Trên đường về ông già đi theo lúc đó mới quay lại hỏi tụi em là gì của người chết. Như thế khi bắt đầu đi, ông ta chẳng biết gì về tụi em hết, vậy mà đến vỗ chính xác từng người, trừ cậu em họ ra. Anh thấy có linh thiêng không?

Về tới Huế, chúng em tạ ơn thầy Quýt và ông già, rồi về khách sạn gọi điện thoại cho tên CA trại phó, xin hắn ngày hôm sau lên bốc mộ. Hắn đồng ý nhưng dặn phải lên sớm nếu không hắn đi họp thì không được đào.

Đêm ấy trời mưa lớn, em mệt quá nên lên giường ngay, trùm mền đi ngủ lấy sức để sáng hôm sau dậy sớm. Đang nằm lơ mơ chưa ngủ thì nghe tiếng gõ cửa. Em nghĩ bụng chắc 2 đứa em trai và em họ ra ngoài chơi quên không đem chìa khóa nên dậy mở cửa. Ai dè mở ra không thấy ai. Em rủa thầm 2 thằng quỷ phá đám, đi ra tìm. Đi hết cầu thang xuống dưới nhà cũng chẳng thấy ai, không khí vắng vẻ làm em rùng mình chạy về phòng đóng cửa. 15 phút sau lại có tiếng gõ cửa, chị Ba em dậy mở cửa thì 2 thằng em kéo vào. Em la chúng nó tại sao chơi trò gõ cửa rồi đi trốn thì 2 đứa trợn mắt ngạc nhiên nói rằng tụi nó mới vừa ở ngoài phố về! Nghe mà lạnh người. Trong khi đó trời đổ mưa tầm tã như trút làm tụi em đâm lo, mưa như vậy sáng hôm sau làm sao bốc anh được? Cả bọn ngao ngán nằm xuống mà không tài nào ngủ được, trằn trọc suốt đêm!

5 giờ sáng chúng em đã dậy chuẩn bị đi. Trời vẫn còn mưa nên xe không dám chạy nhanh . Sau khi mua trái cây hoa quả, tụi em ghé thầy Sinh ở Vỹ Dạ nhờ thầy đi theo để cúng.

Lên tới Bình Điền, nhờ tên Bình đi theo lên gặp tên Trại phó. Hắn mắng tụi em như tát nước vì phải chờ lâu, sau đó hăn cho 1 tên CA dặt lên núi. Tới nơi tên này nói “các anh chị bốc gì thì bốc cho nhanh rồi đi xống, ông Trại trưởng đi họp nên mới cho các anh chị bốc, chứ có ông ấy ở nhà là không được đâu”. Rồi hắn bỏ đi, để mặc tụi em lại.

Lúc này thì trời bắt đầu tạnh mưa hẳn nhưng chúng em cũng lấy tấm bạt nylon mang theo căng ra đề phòng mưa bất tử. Chúng em đào rất nhanh, bốc chiếc quách lên, làm dấu đầu đuôi xong bọc vào tấm nylon và vội vã xuống núi. Lúc đó thầy Sinh đang chờ ở dưới chân núi vì ông tưởng tụi em vào gặp CA sẽ quay xuống đón ông.

Người tái xế của xe hơi tụi em thuê nhất định không chịu chở chiếc quách nên chúng em phải nhờ xe ôm chở 1 người đưa xuống, còn tất cả lội bộ. Xuống gặp thầy Sinh ông kêu đem tới chỗ ngã ba đường để ông cúng

Và làm phép để đưa về Saigon. Tới ngã ba, đến khúc rất vắng vẻ, thầy Sinh bảo rẽ vào con đương mòn cho khuất. Thầy Sinh thắp nhang đèn khấn vái rồi làm phép bắt vong hồn anh Linh vào cây nhang để tụi em cần theo, và tiếp tục khấn vái. Bỗng dưng thầy Sinh lên tiếng quát như nói chuyện với người vô ình (như thầy Quýt hôm qua). Thầy nói “thôi đưa anh tới đây được rồi, về lại trên núi đi, để anh theo người thân về nhà” Rồi thầy lại hỏi Họ gì? Họ La hả” Nhà ở đâu, ở Bà Rịa à? Được rồi, nhớ rối, về đi”.

Xong thầy lấy 3 cây nhang vẽ bùa gì đó lên tấm vải trắng , rồi đâp chiếc quách, trút mớ cốt vào tấm vải, cột lại giao cho chúng em xách.

Chúng em vẫn thuê 3 chiếc gắn máy , 1 chiếc chở 1 người em ôm quách, 2 chiếc kia chạy kè theo, còn đám đàn bà thì lên xe hơi . Và như lúc tụi em bắt đầu đi, lúc này trờ lại đổ mưa!

Về tới Huế chúng em bàn với nhau là phải đi bằng xe lửa chứ không dám đi máy bay sợ tụi nó scan túi xách thấy gói cốt sẽ làm khó dễ. Thế nhưng khi hỏi thuê được 1 chiếc xe van chịu chở vào Saigon với giá 7 triệu đồng, chúng em mừng quá ngay chiếu hôm đó rời Huế ngay!

Xe chạy suốt đêm, chúng em rù rì nói chuyện chứ không ngủ được, khi tới Phan Rang chúng em ghé quán cơm bán khuya ăn cơm rồi đi tiếp. Gần 3 hay 4 g sáng cậu em họ buồn ngủ nên em kêu ra băng sau nằm ngủ cho khỏe. Mới chừng nửa tiếng nó chồm dậy nói “em nằm mơ thấy có người đi theo mình, nhìn không rõ mặt, chỉ thấy mặc quần áo lính màu xanh mà có rằn rằn màu đen ( Năm 1975 hắn còn rất nhỏ nên không biết chuyện lính tráng đâu, nhưng nghe nó diễn tả em biết ngay đó là áo lính TQLC.)

Trên đừmg về Saigon, chúng em gọi điện thoại trước liên lạc với ông thầy tu trong ngôi chùa nhỏ tại nghĩa trang (do Hội tương tế mời thầy về tu và coi sóc) nhờ thầy mua hộ trước chiếc quách mới.

Chúng em đi thẳng về nghĩa trang, về đến nơi thì trời đã trưa. Cả bọn để hành lý trên xe, đưa gói cốt anh vào chùa ngay.

Chúng em chuyển gói cốt vào chiếc quách mới và rũ miếng poncho cùng manh vải đã sờn rách, mỏng tang để gấp lại, Ngờ đâu có 2 chiếc đinh mục rơi ra, chúng em chẳng hiều đó là đinh ở đâu? Hay là mấy chiếc đinh của cái hòm chôn anh Linh đã bị mục nát thành đất? Chúng em thắp nhang, gửi cốt anh lại cho thầy và xin sáng hôm sau lên làm lễ hạ huyệt.

*

Buổi lễ hạ huyệt này có rất đông bà con họ hàng và người quen với gia đình em đến dự, như một tang lễ bình thường. Chúng em bỏ theo quách manh poncho và miếng vải áo tù rách để cùng chôn cho anh. Sau đó lấp đất và tráng xi măng để hôm sau xây mộ. Mộ anh nằm ngay bên cạnh Má.

Hôm sau cậu em họ đến kể em nghe ngay đêm đó,nằm mơ thấy anh Linh về, mặc quần áo đàng hoàng. Anh vào nhà ngồi ngay vào ghế, mặt tươi tỉnh. Cậu em hỏi, anh đi đâu đây thì anh Linh trả lời, tao về xây nhà chứ đi đâu!

Liên tiếp mấy ngày sau đó, bữa nào chúng em cũng lên xem việc xây mộ để xong là về lại Mỹ ngay ( vì Ba em giục xong thì về liền vì Ba cảm thấy trong người không ổn).

Xây mộ xong, chúng em lên cúng , viếng mộ hai bên Nội Ngoại, Má và anh Linh rồi trở về Mỹ.

Buổi trưa ngày em về tới nhà thì sáng hôm đó Ba em nói với em Chín đưa Ba rời bệnh viện về nhà vì Ba đỡ rồi. Mặt mũi Ba tươi tỉnh, vui vẻ và cho hay là đã hết nhức đầu!

Anh có nhớ là trước khi tụi em về VN lần đầu tìm mộ Ba em đau đầu dữ dội lắm, đau tới nỗi Ba nói muốn đập đầu vào tường cho bớt! Thầy Quýt ngay lần đó đã nói :tìm đưa anh về thì Ba hết đau ngay. Lúc đó em nghĩ rằng à thì ra thầy nói là như thế.

Không ngờ sau khi em về lại Mỹ được 2 tuần, một buổi chiều đi làm về thấy Ba còn ngủ chưa dậy. Em vô thăm thì Ba mở mắt, em nói thôi Ba dậy đi, trời chiều quá rồi. Con đi nấu cơm xong Ba ra ăn nghe. Nói xong em về phòng thay đồ, chưa xong thì nghe tiếng Ba kêu, em lật đật chạy trở lại thì thấy Ba đang cầm ống thuốc quang xuống đất và miệng đang nói một thứ tiếng gì nghe lạ lắm, như đang nói chuyện với người khuất mặt nào đó. Em gọi mấy chị em rồi lật đật chở Ba vào lại bệnh viện ngay. Ba nằm bệnh viện thêm một đêm một ngày nữa thì ra đi. Lúc ấy em mới hiểu câu nói của thầy Quýt.

Chúng em buồn quá vì Má mất đã 23 năm ( từ năm 1984) chỉ có Ba ở với tụi em, nay Ba cũng đi theo Má , và theo anh Linh em sau 32 năm xa cách. Rõ ràng cốt nhục tình thâm, Ba em chờ cho đến khi đưa được anh về mới ra đi.

*

Em có nói rằng dù kết quả thử DNA chỉ có 10% em vẫn tin đó chính là cốt của anh Linh em. Vì những điều trùng hợp với nhau quá rõ ràng, từ những giấc mơ của chị Ba em (2 tháng sau khi sanh đứa con đầu lòng), thấy anh về thăm, dẫn chị đi tới một vùng cỏ tranh, pohia1 dưới có con suối nhỏ, rồi hình ảnh trong mơ của chị Ba, cũng như của thầy Quýt đều thấy anh Linh cởi trần mặc mỗi chiếc quần đùi –dù tụi em không kể gì cho thầy hết- Rồi chuyện thầy Quýt cho hay là phải có 2 người giúp mới tìm ra mộ, một là người Công An già tên Bình ở Bình Điền, người kia cụt tay, tức viên Công An tên Phú ở Quảng Trị.

Như vậy rõ ràng anh Linh em đã chết trong oan khuất nên linh thiêng quanh quẩn giữ ngôi mộ của mình rồi về báo mộng cho người nhà máu mủ ruột thịt đi tìm.

Anh ơi, cần nói thêm là anh có biết phần mộ của anh Linh em nằm trong nghĩa trang sát gần căn cứ Sóng Thần TQLC hay không? Năm xưa bà con dòng họ bên Ba em hùn nhau mua 1 miếng đất để làm nghĩa trang đồng hương và trồng cây ăn trái, nhưng không ngờ lại nằm ngay sát bên căn cứ Sóng Thần. Miếng đất nghĩa trang quá rộng nên bên căn cứ Sóng Thần lúc đó mới qua bên nghĩa trang mượn đất để làm sân tập … Họ có làm giấy mượn đến khi nào nghĩa trang cần đất thì sẽ trả lại … Năm 1975 Cộng sản vô, tịch thu miếng đất đã cho mượn đó luôn ... để rồi sau 32 năm anh Linh em lại được về nằm gần ngay căn cứ Sóng Thần ...

Ghi chú của người ghi lại câu chuyện này

Đêm Đại hội TQLC 2008 tổ chức ở Nam California, mấy người em của Th/U Lưu Đức Linh đến tìm vài người bạn cùng khóa của anh để mời đến nhà nghe chuyện đi tìm anh mình. Nhân dịp này, Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, ngay lúc đó tình cờ có mặt, nghe nói Linh đầu tiên được bổ nhiệm về TĐ 9 nên ông nhân danh TĐT cuối cùng của TĐ 9, thay mặt tất cả anh em trong TĐ cũ chia buồn cùng gia đình. Vài ngày sau đó, số bạn cũ của Linh đã đến nhà để thắp một nén nhang tiễn biệt và nguyện cầu cho anh linh bạn mình vãng sinh nơi chốn vĩnh hằng. Nhân đó, mọi người cũng được nghe các em Linh kể đầu đuôi chi tiết cuộc đi tìm hài cốt của anh để đưa anh về nhà, về với Mẹ và về với binh chủng!

Trần Như Hùng
Trở về đâu trang
-------------------------------------------

Monday, October 18, 2010

*Câu chuyện về người thương phế binh :
Phan Thế Duyệt
Vào năm 2003 trong một chương trình giới thiệu hoạt động của hội “compassion” tại San Jose, California USA, ngay sau khi phát thanh lần thứ nhất, nhiều thính giả đã gọi vào thể hiện tâm tình họ dành cho câu chuyện thật đặc biệt, câu chuyện về một thương phế binh VNCH đang sống trong hoàn cảnh hết sức cô đơn tại một làng quê xa cách chốn phồn hoa đô hội… Câu chuyện có chút đau thương nhưng cũng lại có nhiều thơ mộng và đẹp của tình người.

Anh là một thiếu úy xuất thân từ trường Võ Bị QGVN và cũng đã từng mơ về một tương lai tươi sáng với những chiến công, những vòng hoa chiến thắng được choàng vào cổ từ tay của một nữ sinh sinh đẹp nào đó. Nhưng viên đạn AK47 ác nghiệt đã xuyên qua lưng anh ngay trong trận chiến đầu đời của một tân sĩ quan… Mọi giấc mơ tan vỡ, tương lai trở nên mịt mù và anh đã phải trải qua biết bao nhiêu đau thương sau đó.
Vết thương chưa lành hẳn thì biến cố 30 tháng 4 u.p xuống, anh bị đẩy ra khỏi Quân Y Viện khi viết thương còn rỉ máu, anh được cha mẹ gìa đưa về sống tại Tây Ninh, chẳng bao lâu sau đó anh đã phải cắt bỏ đôi chân vì ung thối để cứu mạng, thế rồi cha mẹ anh cũng lần lượt qua đời, còn lại một mình trong căn nhà nhỏ, anh đã sống 30 năm dài trong nỗi cô đơn tận cùng của kiếp người.
Đối với những người thương binh VNCH khác, hoàn cảnh của anh có lẽ chưa phải là tận cùng bằng số (?) Anh biết rõ điều này, nên không than van, chỉ vì buồn muốn viết thư đi khắp nơi để tìm người tâm sự và không kêu nài trợ giúp, lá thư gởi ra Hải Ngoại đi lang thang và được ai đó đưa lên internet, một cô gái ký tên “H” gởi về anh $50.00 Mỹ kim, anh viết thư cảm ơn…
Một người ở Paris đọc được lá thư anh gởi cho người con gái có tên “H” tưởng là bạn mình nên chuyển qua cho cô BS Hương (Liên Hương) thành viên của “Hội Huynh Đệ Chi Binh” cô BS cảm động vì lá thư lạ đã viết trả lời anh, lá thư cũng đầy tình cảm chan chứa, tường chừng như ở thời còn chinh chiến của một người em gái hậu phương gởi cho anh chiến sĩ nơi chiến trường, lá thư tỏ lòng ngưỡng mộ tuyệt đối dành cho một anh hùng. Anh chính là một “anh hùng” trong mắt cô Liên Hương ở Hoa Kỳ. Thư trao đổi giữa anh và cô BS trẻ với những lời chân tình đã làm nhiều người rơi lệ.
Giao Chỉ


Tây Ninh ……………. 1999
Cô H. thân mến,
Khi cầm bút viết thư này tới cô, tôi rất cảm động vì lần đầu tiên nhận được 1 thiệp chúc Noel và 50 USD. Bao đêm nằm suy nghĩ moi óc tìm về quá khứ xem có quen ai là H. không. Rồi kết luận tôi và cô rất xa lạ chưa 1 lần đối diện. Thế nhưng giữa khoảng không gian xa cách nghìn trùng, giữa lúc bận rộn với cuộc sinh nhai nơi đất khách quê người, mà cô còn có thời giờ hướng về quê nhà, nơi đó có những người nghèo khổ, tàn tật, đang âm thầm trên giường bệnh như tôi. Ngoài ý nghĩa về vật chất, món quà của cô còn có 1giá trị tinh thần rất to lớn, nó an ủi tôi trong những ngày Đông giá để chuẩn bị đón Xuân về. Nghĩa cử cao đẹp của cô chắc chắn sẽ được Thượng Đế đền bù.
Đây là những ngày đầu Xuân. Sau vài ngày Tết tạm quên đi những âu lo phiền muộn thì bây giờ lại suy nghĩ, tính toán cho năm rộng tháng dài. Tôi đã bị loại ra khỏi vòng chiến vào một buổi chiều mây giăng tím ngắt cách nay gần 27 năm dài (bị liệt và cưa 2 chân!).
Trong vòng 27 năm đó, cuộc sống của tôi âm thầm như những đêm không trăng sao. Bốn mùa cứ lần lượt trôi qua, bao đứa trẻ thơ đã trưởng thành, còn tôi đã thấy thấp thoáng con đường tới nghĩa trang!!! Ngày ngày chỉ nằm trên giường ngắm mây bay qua khung cửa sổ, và chiều chiều nghe tiếng chuông giáo đường buồn bã. Rồi đôi khi âu lo khi số tiền trong túi cạn dần.
Chưa bao giờ tôi đủ can đảm ngắm mình qua gương. Tuổi trẻ, tình yêu đã vượt khỏi tầm tay. Đôi khi kỷ niệm hiện về hỗn độn, quay cuồng, tan vỡ như những mảnh thủy tinh sắc nhọn. Tủi thân, phiền muộn là căn bệnh trầm kha kéo dài từ ngày nầy đến ngày khác! Đầu năm chỉ duy nhất một mình trong căn nhà bầu bạn với chiếc tivi, dò hết đài nầy đến đài khác, rồi mệt mỏi lăn ra ngủ. Những lúc đau nặng, bao nguy cơ rình rập, chỉ biết phó mặt cho bàn tay Thượng Đế.
Đã lâu lắm rồi không có cơ hội viết thư nên trong hồi báo này từ đầu đến giờ lẩn thẩn quá phải không cô H? Nếu có gì sơ suất xin cô bỏ qua sự thiếu sót đó. Trước thềm năm mới, tôi chúc cô và gia đình hưởng một mùa Xuân vui vẻ, một năm mới An khang thịnh vượng.
Tôi xin dừng bút nơi đây. Chào cô.
Ký tên: Duyệt
P T D
_

____________ _________ _________ _________ _________ ______

San Jose ngày 1 tháng 8, 2003
Anh Duyệt thân mến,
Có lẽ anh sẽ ngạc nhiên lắm khi nhận được lá thư này. Do một sự tình cờ hay sắp xếp nào đó của Thượng Đế, nếu chúng ta còn tin có Thượng Đế hiện hữu trong cuộc đời này, lá thư của anh đã vượt ngàn dặm hải lý và thời gian phủ bụi mờ để đến tay tôi. Một người bạn của tôi ở Pháp, trong lúc đi sưu tầm trên những trang điện toán đã tìm thấy lá thư này, và chuyển đến tôi. Chỉ vì một sự trùng hợp ở vần tên với một cô gái nào đó mà anh đã viết thư cám ơn 3 năm trước đây.
Lá thư của anh không giống như bất cứ lá thư nào tôi đã đọc trong gần 10 năm qua. Tôi cũng chưa bao giờ trả lời riêng như tôi đang làm ngày hôm nay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi dùng tên thật của mình để viết cho một người chưa biết mặt. Tôi viết như thế để anh hiểu cái ấn tượng sâu đậm, và một phần nào là nỗi xúc động lá thư của anh đã để lại trong tôi.
Trong tuần lễ qua, tôi đã gọi điện thoại về Việt Nam một vài lần theo số anh ghi trong thư, nhưng đáng tiếc vẫn không liên lạc được vì đường giây luôn luôn bận. Cũng có thể vì tôi gọi không đúng cách, một lần nữa lại cho anh biết rằng đây là 1 điều tôi không thường hay làm lắm đâu.
Lá thư của anh đã vô tình nhắc nhở cho tôi về quá khứ, những năm tháng chiến tranh điêu linh của đất nước mà tất cả chúng ta đều muốn quên. Anh không kể nhiều trong thư, nhưng tôi đoán anh chắc phải là 1 người đã có kiến thức của 1 vài năm Đại học, hay ít nhất cũng đã đỗ Tú Tài trước khi đăng lính vào quân đội. Bởi vì 1 người bình thường ít may mắn được đến trường hơn, đã không thể viết một lá thư vừa lắng đọng, vừa lãng mạn dạt dào tình cảm như vậy.
Sự gắn bó của tôi với những người lính cũ có lẽ bắt nguồn từ gia đình tôi vốn đã có rất nhiều người xuất thân từ quân đội miền Nam trước đây. Cha tôi ngày xưa là 1 bác sĩ quân y ở Chẩn Y Viện Trung Ương, và cậu tôi cũng đã từng là 1 bác sĩ giải phẫu chữa phỏng và chấn thương tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nơi tôi vẫn thường xuyên lui đến những ngày còn nhỏ vì căn bệnh riêng của mình. Hình ảnh của những nguời thương bệnh binh quấn khăn băng trắng thẫm máu đỏ hàng ngày được chở về từ mặt trận với tôi vì thế đã không xa lạ lắm. Một trong những người bạn thân nhất của tôi ở đây hôm nay là 1 cựu phi công từng đóng quân ở Phù Cát (Qui Nhơn)…
Tôi viết thư cho anh hôm nay, không phải như 1 người Việt kiều xa xứ được ưu đãi trong 1 đời sống an lành, và thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần, đang nghiêng mình xuống viết cho 1 người đồng loại bất hạnh của mình. Nhưng tôi viết với tâm trạng của một cô gái nhỏ năm xưa đã lớn lên yên ổn giữa thành phố Saigon, nhìn tuổi thơ ấu của mình trôi qua dưới ánh hỏa châu và những tiếng bom đạn hàng đêm vẫn vọng về từ 1 chiến trường xa. Ở đó, bao nhiêu xương máu và nước mắt của cả 1 thế hệ tuổi trẻ đã đổ xuống để che chở cho những cô gái nhỏ như tôi được tiếp tục bình yên đến trường. Ở đó, vẫn có bao nhiêu người chiến sĩ như các anh còn ôm tay súng, chiến đấu đơn độc vào những giờ phút chót để gia đình chúng tôi có cơ hội xuống thuyền ra đi, tìm đến những quê hương hạnh phúc mới bên này bờ biển Thái Bình Dương.
Chính với tấm lòng tri ân và ngưỡng mộ đó mà hôm nay tôi thấy cần phải viết cho anh, cho các bạn của anh những lời các anh xứng đáng được nghe nhưng có lẽ đã chưa bao giờ được nghe từ gần 30 năm qua. Để các anh hiểu được rằng những hy sinh của mình đã không lãng phí, hay vô ích. Những tượng đài có thể bị đạp đổ, nhưng những hình ảnh thần tượng ghi khắc trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thể bị xóa nhòa.
Chúng ta đã mất mát rất nhiều thứ, những người thương binh như các anh đã mất hết 1 phần thân thể, tình yêu và tuổi trẻ, còn những người Việt tỵ nạn như tôi cũng mất cả 1 nơi chốn dung thân để phải tha hương, lưu lạc khắp mọi phương trời. Có 1 điều ngày hôm nay, tôi mong chúng ta sẽ không đánh mất là tình người đến với nhau để khoảng không gian anh đang sống và hít thở bớt đi niềm lẻ loi, và cô độc. Tôi không là 1 bà tiên có đôi đũa thần nhiệm màu để có thể hóa phép trả lại anh thân thể nguyên vẹn. Nhưng tôi có thể trao tặng anh 1 tình bạn, và hy vọng những giòng chữ của mình có thể xoa dịu được những vết thương vẫn còn nhỏ máu trong tâm hồn anh từ 30 năm qua.
Khi nhận được lá thư này, xin anh gửi cho tôi hồ sơ + 1 tấm ảnh hồi đáp qua địa chỉ 1 người thân của tôi ở Saigon, để rồi sẽ có người đem thư về Mỹ lại cho tôi:
Nguyễn Liên Hương
c/o Phạm Thục Tuyết Xuân
tel:
Tôi muốn biết địa chỉ chính xác của anh, để gửi đến anh 1 món quà nhỏ, mà tôi ước mong sẽ đem lại 1 vài tia nắng ấm trong gian nhà lạnh vắng, hiu quạnh của anh hôm nay.
Cũng xin anh đừng phổ biến tên tuổi hay địa chỉ của tôi, vì điều tế nhị thỉnh thoảng tôi vẫn còn trở về Việt Nam trong những công tác xã hội. Thêm nữa, tôi hiểu khả năng giới hạn của mình trong những điều có thể làm. Thật sự sẽ là một điều tàn nhẫn để gieo mầm cho những ảo tưởng, hy vọng không có cơ may được thành tựu.
Cuối cùng, dù tôi không thể gửi nguyên 1 bài hát về, cũng xin cho tôi được gửi tặng anh và những người bạn anh hùng không tên tuổi của anh lời tựa của bài hát, “You are my hero”. Bởi vì cuối cùng, trong cuộc đời này, không có điều gì anh hùng, và cao thượng hơn là hy sinh bản thân mình cho những người khác được quyền sống. Trong mắt tôi, mãi mãi không có những người phế binh thương tật mà chỉ có những người trai anh hùng một thời đã chọn cho mình con đường đi và sống đích thực có ý nghĩa nhất.
Thân ái chào anh, và cầu chúc anh những ngày tháng cuối an lành trong niềm vinh dự và tự hào.
LH

Thursday, October 14, 2010


TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM

Vài hàng để tưởng nhớ
Trung Tá LÊ QUANG TRỌNG
Chỉ Huy Trưởng TQLCVN đầu tiên (1955-1956)


TQLC Ngô Văn Định
Kỷ niệm sinh nhật BC thứ 54-2008

Đã lâu lắm, thời gian hơn nửa thế kỷ, nhưng kỷ niệm vẫn còn trong tâm trí tôi hình ảnh một cấp chỉ huy mà tôi cũng như mọi người trong binh chủng TQLC rất thương kính mặc dầu Ông chỉ ở trong Binh chủng khoảng hơn một năm. Bởi thế mà tôi muốn ghi lại những điều mà chính tôi biết và chứng kiến như một sự tưởng nhớ và cầu nguyện cho Ông mặc dầu muộn màng. Hơn nữa muốn những người trong Binh chủng không được biết đến Ông hiểu rằng những ngày đầu tiên trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước cũng như phương tiện rât thiếu thốn mà Ông đã cố gắng vượt qua.
Trung Tá Lê Quang Trọng. Xuất thân khoá 2 sĩ quan Đập Đá ( Huế ).

Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
Tháng 6 năm 1955 Ông được Phủ Thủ Tướng bổ nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng Binh Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Trung tá Trọng chỉ định Thiếu Tá Phạm Văn Liễu làm Tham Mưu Trưởng, (Thiếu Tá Phạm Văn Liễu là người trách nhiệm tổ chức và điều hành TQLC lúc ban đầu tại trại Trần Hưng Đạo, cạnh Bộ Tổng Tham Mưu QĐVNCH.) Đại Uý Nguyễn Kim Hương Giang trưởng phòng 1, Trung Uý Huỳnh Văn Nhàn trưởng phòng 2, Đại Uý Nguyễn Kiên Hùng trưởng phòng 3, Đại Uý Lê Nguyên Khang trưởng phòng 4.

Thời kỳ phôi thai này Binh chủng TQLC là đơn vị trực thuộc Quân chủng Hải Quân Việt Nam về cả hai phương diện Chỉ huy và Hành chánh. Chỉ huy trưởng TQLC có cấp bậc Trung Tá còn Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam là Hải Quân Thiếu Tá Lê Quang Mỹ ( Hai người cùng họ Lê Quang nhưng không có liên hệ thân thuộc gì với nhau ).

Lúc này TQLC mới có 2 Tiểu Đoàn tác chiến, TĐ1 ở Cồn Dương Nha Trang và TĐ2 đang được thành lập tại Long Hải, Phước Tuy. TĐ1 đã hoàn tất thời kỳ huấn luyện và đã sẵn sàng tham dự các cuộc hành quân độc lập. TĐ1 do Đại Uý Roger Bùi Phó Chí Tiểu Đoàn Trưởng, còn TĐ2 do Đại Uý Nguyễn Kiên Hùng chỉ huy trưởng đơn vị tuần giang số 1 ở Khánh hội ra thành lập và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng.

Trung Tá Trọng dáng người cao, mang kính trắng dầy, diện mạo Ông có dáng dấp như một nhà giáo hay một vị lãnh đạo tinh thần bên Công Giáo hơn là một cấp chỉ huy quân sự chuyên nghiệp
Năm 1955 ông chỉ huy TQLC tham dự Chiến dịch Hoàng Diệu dưới quyền Đại Tá Dương Văn Minh chỉ huy chiến dịch. Đây là cuộc hành quân đầu tiên của Binh chủng TQLC.Trong cuộc Hành quân này tù binh bắt được cho biết Bẩy Viễn có chôn dấu nhiều tiền ở trong khu vưc này. Anh em chúng tôi thuộc ĐĐ3/TĐ1 có nhiệm vụ đào kiếm nơi chôn dấu, khi chúng tôi tìm được hầm chứa rất nhiều Lu bằng Sành đựng tiền, nẳp đậy kín nước không vào được. Khi nghe báo cáo rất nhiều sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân đều có mặt ngay tại địa điểm anh em chúng tôi tìm thấy tiền, Tôi thấy có Đại Tá Dương văn Minh, và nhiều sĩ quan cao cấp trong Bộ chi huy hành quân, tôi cũng thấy có mặt Thiếu Tá Phạm Văn Liễu riêng Trung Tá Lê Quang Trọng CHT/TQLC tôi không nhìn thấy Ông có mặt nơi chúng tôi đào bới tìm tiền.

Cựu Đại Tá Phạm Văn Liễu lúc đó là Thiếu Tá TMT/TQLC viết “ Tôi theo đoàn giang đĩnh vào tận chỗ chôn dấu kho tàng của Bình xuyên. Nhìn thấy thái độ của các giới chức trong BTL tôi không muốn lên bờ nữa, tôi thấy coi khinh bọn người thấy vàng hoa mắt.”( Trích trong Hồi Ký trả ta sông núi trang 329 của Ông Phạm Văn Liễu )
Tiền tìm thấy được đưa xuống tầu nhỏ để mang ra chiến hạm, vì nơi đây rạch nhỏ và nước cạn chiến hạm không vào được. Khi chấm dứt hành quân, trở về hậu cứ tại Nha Trang anh em chúng tôi được Tiểu Đoàn cho mỗi người là bốn mươi bẩy đồng.

TĐ1 cùng các đơn vị bạn như Nhẩy Dù, Hải Quân, Tuần Giang dẹp tan Bình Xuyên khi Bẩy Viễn chạy ra khỏi Saigon và Chợ lớn đi ẩn trốn tại Rừng Sát . Đầu tháng 12 năm 1955 TĐ1 Đổ Bộ di chuyển vào Nam đặt thuộc quyền xử dụng của Phân Khu Sóc Trăng để tham dự chiến dịch Nguyễn Huệ do Đại Tá Dương Văn Đức Phân Khu Trưởng chỉ huy chiến dịch, với một Tiểu đoàn TQLC hành quân nên BCH/TQLC không có tham dự. TĐ1/TQLC được giao nhiệm vụ hành quân tảo thanh và diệt địch ở khu vực Giồng Riềng Rạch Giá, nơi đây là một xã ở phiá Đông phi trường Rạch Sỏi ba mươi lăm cây số, cách thị xã Rạch Giá bốn mươi lăm cây số về hướng Đông Nam, năm mươi cây số về phiá Bắc quận Vị Thanh và khoảng một trăm cây số về phiá Tây nam tỉnh Cần Thơ. Tiểu Đoàn di chuyển bằng ghe Cá Gộc ( Loại ghe cỡ trung bình dân chúng ở Rạch Giá dùng ra biển đánh cá ) và tầu LCVP ( Landing Craft Personnel Vehicle ) của Hải Quân đến vùng Hành quân. Tầu chở được một tiểu đội. nhưng có khi cũng chở cả trung đội.

Ngày 6-12-55, khi Tiểu Đoàn đổ bộ xuống Giồng Riềng, Đại Đội 2 và 3 đã tiến quân được một cây số Tiểu Đoàn 1 đã bị phục kích trên đường tiến quân. Ta tổn thất nặng có nhiều thiệt hại về nhân mạng, Lực lượng Địch sau khi rút đi đã bị Tiểu Đoàn Nhẩy Dù đánh tan lúc đang qua sông ở quận Vị Thanh buồi tối cùng ngày. Lúc này Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà mới được Pháp chuyển giao, phương tiện yểm trợ còn quá yếu kém, Cả Quân Lực chỉ có vài máy bay quan sát ( gọi là máy bay Bà Già ) L19 mà thôi, chưa có pháo binh tầm xa đại bác 105 yểm trợ trực tiếp. Ngay sau khi TĐ1 tổn thất nặng được báo về Saigon, ngày hôm sau Trung tá Chỉ Huy trưởng đã dùng xe Jeep đi đường bộ do tài xế Hạ sĩ nhất Phạm Văn Phùng lái từ Saigon đến Quân Y Viện Rạch giá thăm các thương binh, tử sĩ và trao tặng huy chương. Sở dĩ tôi nhớ rất rõ về tài xế Phùng vì sau khi Trung Tá Trọng rời binh chủng thì Tài xế Phùng trở về lại TĐ1 làm tài xe cho 2 vị TĐT/TĐ1 là Đại Uý Ngụy Văn Thanh ( 1957 ) rồi đến Đại Uý Nguyễn Văn Tài (1958-1960.( Có một lần Hạ Sĩ Nhất Phùng lái xe đưa tôi từ Nha Trang vào Nam đi hành quân, đường dài tâm sự chuyện cũ nên vì lý do đó mà tôi nhớ rất rõ vế anh này). Trở lại với Trung Tá Trọng, Ông ở lại Rạch giá với anh em hơn một tuần lể cho đến khi tất cả thương binh và tử sĩ được đem về đến Rạch giá, hàng ngày Ông đến tận giường bệnh tại Quân y Viện thăm hỏi tình trạng từng người. Phần đông anh em đều được trao tặng Chiến Thương Bội Tinh và Anh Dũng Bội Tinh, Tôi ( Thiếu Úy Định ) và Thiếu Úy Nguyễn Văn Nho được ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi Sao Vàng và Chiến Thương Bội Tinh
Việc tản thương lâu là vì phải chuyên chở bằng xuồng nên mất nhiều thời gian.Tất cả các tử sĩ được đưa về chôn cất tại Nghiã trang Rạch Sỏi. Nơi đây là nơi an nghỉ ngàn thu dành riêng cho các anh em thuộc Đại đội 2 và Đại Đội 3/TĐ1/ Đổ Bộ đã hy sinh trong trận Giồng Riềng ngày 6-12-1955. Trung Sĩ Nhất Phạm Khắc Dật Trung Đội trưởng ĐĐ3 được thăng cấp và sau này là Thượng Sĩ I đã hy sinh tại Mõ Cày 1960. Doanh trại của TĐ1 ở Rừng Cấm Thủ Đức mang tên anh.

Hàng ngày Ông cùng anh em thương binh bị thương nhẹ hoặc còn thể đi lại được ra chợ Rạch giá dùng cơm thân mật tại chợ như những người dân, quân bình thường . Ông có nói với Tôi ( Thiếu Úy Định ) Thiếu Uý Nguyễn Văn Nho và các anh em là “Mặt mũi mình sáng sủa như thế này mà ra ngồi ở chợ ăn thì không tiện, chắc mình phải làm cho mặt mũi đen nhọ đi một chút thì mới coi được”

Một cấp chỉ huy sinh hoạt gần gũi như vậy rất hiếm thấy trong Quân Đội, ông được mọi cấp trong Binh chủng thương kính.

Tháng 3 năm 1956 khi lành những vết thương trận, Tôi được xuất viện và trở về đơn vị. Năm 1963 tôi có theo TĐ2 trở lại Hành quân ở Rạch giá vài lần, nhưng tôi không có cơ hội viếng thăm nghĩa trang TQLC ở Rạch Sỏi và thăm những người đã cứu chữa lành những vết thương cho anh em TQLC chúng tôi khi nằm Quân y viện là Y sĩ Trung Uý Phạm Ngọc Toả cùng các Y sĩ khác.
Sau 53 năm, trong số hơn 30 sĩ quan của TĐ1 tham dự trận Giồng Riềng và trận đánh Bình Xuyên ở Rừng Sát năm 1955. Ngày hôm nay còn lại 7 người hiện đang định cư tại Hoa Kỳ và Canada. Trần Văn Nhựt, Nguyễn Hữu Nhơn, Cao Tấn Hạp, Ngô Văn Định, Nguyễn Văn Hiển, Đào Ngọc Kỳ, Trần Đình Thêm. Có thể còn vài người hiện vẫn còn sống và đang ở quê hương.

Sau khi rời TQLC, Trung Tá Lê Quang Trọng được thăng cấp Đại Tá, Ông về Phủ Tổng Thống làm việc tại phòng Tổng thư ký thường trực Quốc phòng cùng Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Khánh ( Dữ kiện do Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình cung cấp )
Năm 58 khi đi Okinawa học khoá Combined Operations về Ông đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 15 Khinh chiến ở Dục Mỹ thay thế Trung Tá Trần Thanh Phong ( 1 )




Tôi nghĩ Ông ra đi là đúng, vì làm việc cũng không thoải mái dưới quyền chỉ huy của một người có cấp nhò hơn mặc dù Ông rất yêu thích TQLC và chúng ta cũng tiếp nhận sự Ông rời binh chủng với nhiều luyến tiếc.

Thiếu Tá Phạm Văn Liễu TMT, người có công đầu với binh chủng, người có nhiều kinh nghiệm chiến trường ở Bắc Việt là người kế vị Trung Tá Trọng giữ chức vụ CHT. Nhưng đến tháng 8 năm 1956 Ông lại được lệnh đi du học ở Hoa Kỳ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Đại Úy Bùi Phó Chí đang là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1 Xử Lý Thường Vụ chức vụ Chỉ Huy Trưởng TQLC. Ngày 1 tháng 10 năm 56 Thiếu Tá Lê Như Hùng từ đơn vị ở Huế về chính thức giữ chúc vụ CHT.

Cựu Đại Úy Đỗ Trọng sĩ quan tùy viên của Đại Tá Trọng cho biết như sau :

Sau một thời gian SĐ 15 Khinh chiến đổi danh hiệu là Sư đoàn 23 BB, Bộ Tư Lệnh di chuyển về đồn trú tại Ban Mê Thuột, Tư lệnh Phó Sư Đoàn là Trung Tá Nguyễn Xuân Thịnh,(2) Tham Mưu Trưởng SĐ là Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình (3). Sau cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 63 Đại Tá Lê Quang Trọng bị mất chức Tư Lệnh SĐ 23 Bộ Binh và phải ra khỏi Quân đội. Đại Tá Hoàng xuân Lãm thay thế (4)

Đại Tá Trọng bị bệnh nan y phải đi nằm bệnh viện Grall, sau khi chữa bệnh ở Grall 6 tháng bệnh không thuyên giảm, ông được tướng Dương Văn Minh cấp phương tiện để đi Pháp chữa bệnh. Ở Pháp một năm ông về nước và qua đời ngày 7 tháng 12 năm 1965. Hương dương bốn mươi tuổi. ( 1925-1965 ) Ông bà có tám người con gồm năm Gái và ba Trai, tất cà hiện đang sống tại Hoa Kỳ Tôi có đến thăm Bà để xin Bà tin tức và hình ảnh của ông để khi Tôi viết bài này cho được chính xác. Bà yếu nhưng tinh thần còn rất minh mẫn.

Viết lại những dữ kiện thật sự của một cấp chỉ huy có tài theo ý kiến của tôi trong thời làm việc dưới quyền Ông.

Thiếu Tá Phạm Văn Liễu Tham Mưu trưởng TQLC dưới thời Trung Tá Trọng viết trong tập Hồi Ký 1 trả ta sông núi “ Trung Tá Trọng là một sĩ quan giỏi, nhiều tính chất văn nghệ, cư xử khéo léo, thân mật với anh em”( Hồi ký trả ta sông núi trang 328 của Ông Phạm Văn Liễu )

Ông là một cấp chỉ huy có tài, có lòng với đất nước và được thuộc cấp quý trọng và mến mộ. (Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình )

Để tiếc thương một người mệnh bạc đã nằm xuống khi tuổi đời mới được bốn mươi. Cũng như để tất cả anh em trong Binh chủng hiểu biết thêm về một sĩ quan chỉ huy trưởng đầu tiên trong đơn vị mà anh em quý mến và có những kỷ niệm khó quên ở chiến trường năm xưa. Ông đã đem hết tâm trí để phục vụ cho sự lớn mạnh của Binh chủng. Nhưng các biến cố chính trị và sức khoẻ đã cắt đứt đường binh nghiệp của Ông, Ông không có dịp để phát huy khả năng của mình để phục vụ Binh chủng cũng như Quân Lực Việt Nam Công Hoà. Một mất mát to lớn cho QLVNCH và đất nước Việt Nam.

Ghi chú :

1-Hình ảnh trong bài là của gia đình cho mượn,

2- Dữ kiện đi học cùng Đại Tá Thiệu do Thiếu Tướng Nguyễn khắc Bình cựu TMT Sư Đoàn 23 cung cấp

3-Dữ kiện sơ lược về đời quân ngũ của Đại Tá Trọng từ 1956-1963 do Đại Uý Đỗ Trọng Sĩ Quan Tùy Viên, hiện định cư tại Hoa Kỳ cung cấp

4-Trích Hồi ký cũa Cưu Đại Tá Phạm Văn Liễu

5- Chức vụ sau cùng của một số người có nêu tên trong bài viết :

(1) Trung Tướng Trần Thanh Phong Tham Mưu Trưởng Liên quân

(2) Trung Tướng Nguyễn Xuân Thịnh Tư Lệnh Sư Đoàn 25.

(3) Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Binh, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tinh Báo

(4) Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh QĐ1/QK1.

MX Đồ Sơn
San José , CA 2008

Trở về đầu trang

Friday, October 1, 2010

Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng
Thân tặng các anh em Lôi Hổ và Lực Lượng Đặc Biệt...
Truyện ngắn, Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Câu chuyện ngắn sau đây, tuy dựa trên những sự kiện của lịch sử, nhưng, ngoài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tất cả các nhân vật khác và chi tiết khác đều là một sản phẩm của tưởng tượng. Nếu có một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào, đó là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.
Trân trọng.

Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II rút điếu thuốc lá 3 con 5 ra khỏi cặp môi đen sạm, phà khói vào tấm bàn đồ trước mặt. Như thường lệ, mỗi khi có gì cần phải suy nghĩ, mặt ông tướng Phú nhăn lại một cách thảm hại...

Trước mặt ông ta là tấm bản đồ tình báo tối mật với những tin tức mới nhất của phòng II quân đoàn vừa trình lên cho ông, chi chít những hình vuông, tròn, tam giác và những mũi tên dấu xanh dấu đỏ vẻ bằng bút chì mở. Màu Xanh là biểu hiệu của phe mình, còn màu Đỏ là Việt Cộng. Đứng bên phải ông là ông là đại tá Vân, Tham mưu trưởng quân đoàn II. Bên trái ông là đại tá Phùng, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn III Xung Kích Lực Lựơng Đặc Biệt. Bên cạnh ông đại tá Phùng là Trung Tá Khiếu, trưởng phòng II của quân đoàn, "tác giả" của tấm bản đồ bí mật.

Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cái hai đường gạch đỏ kẻ bằng bút chì mỡ rất đậm nét bắt đầu từ một mép ngoài bản đồ, phía bên kia của biên giới Việt Nam, trong khu cao nguyên Boleven của đất Lào. Xuất phát từ đây, một con đường bút mỡ đỏ bò ngoằn ngoèo, chạy xuống phía Bắc của Daksut rồi tẻ ra làm hai nhánh. Một nhánh đi xuống phía Bắc của Dakto, còn nhánh kia rẻ phải một chút, bò qua Thanh An, Thuần Mẫn và chấm dứt ở Băng Đôn, một quận lỵ nằm ở phía Bắc thành phố Ban Mê Thuột khoảng 50 cây số đường chim bay.

Con đường bút đỏ thứ hai chạy xuôi về phía Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh ở bên kia biên giới rồi bất ngờ rẻ vào mật khu Bù Gia Mập. Tại đây con đường tẽ ra làm hai, một đi ngược lên phía bắc, xuyên qua quận lỵ Đức Lập rồi tiến về phía Nam Ban Mê Thuột, đường kia đi xa hơn lên phía Đông Bắc, xuyên qua Quảng Nhiêu và ngừng lại ở phía Tây Ban Mê Thuột.

Ở cuối con đường thứ nhất, có một hình vuông có "nhốt" một ngôi sao, dấu hiệu của sư đoàn bộ binh và con số 968. Ở cuối con đường thứ hai thì có tới ba hình vuông nhốt ba ngôi sao với những con số 316, 10 và 3...

Tướng Phú có vẻ không khoái những cái ngôi sao này nên mặt ông nhăn lại một cách khổ sở. Thỉnh thoảng, ông ho lên sù sụ. Bốn người đứng yên, nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ một lúc, không ai nói với ai một lời nào. Cuối cùng, tướng Phú cầm cây gậy chỉ huy gõ nhẹ nhẹ vào cái con đường chỉ đỏ thứ hai trên tấm bản đồ:

-Pourquois? Ban Mê Thuột... Ban Mê Thuột... Merd... có lẽ nào chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột? Tôi biết tụi nó đang chuẩn bị tấn công mùa khô nhưng tại sao lại đánh Ban Mê Thuột? Qu'est ce que la raison... Merd...

Tướng Phú ít khi chửi thề, trừ những khi gặp những vấn đề gì quá rắc rối. Và ông không chửi tiếng Việt mà bằng tiếng Pháp. Tiếng "Merd" là ngôn ngữ nặng nhất của ông tướng.
Đại Tá Phùng và Trung Tá Khiếu liếc nhìn nhau trao đổi một cái nhìn bí mật. Trung Tá Khiếu tính nói gì đó nhưng tướng Phú đưa tay ngăn lại, rồi tướng Phú lại... nhăn mặt nói tiếp:

-Merd, không khéo là mình bị lừa. Tôi nghi là chúng nó muốn làm cho mình rối lên thôi... Chúng nó chỉ muốn kéo quân về đó để làm nghi binh. Coi chừng Ban Mê Thuột chỉ là diện, còn Pleiku mới thực là điểm. Dĩ nhiên Ban Mê Thuột dễ đánh hơn, nhưng, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì? Chỉ toàn cà phê không thôi chứ có mẹ gì... Merd...

Không có ai có thể trả lời nổi câu hỏi của tướng Phú. Phải, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì?

Tướng Phú xoay người ngồi xuống chiếc ghế tư lệnh rất đồ sộ bằng da cọp. Chiếc ghế đó là món quà tặng đặc biệt của ông Tư Lệnh Sư Đoàn 23 năm rồi. Đám Sĩ Quan liền đứng vây chung quanh bàn giấy ông. Ông dụi điếu thuốc, lý luận tiếp:

-Tôi nghĩ chúng nó chỉ đặt nghi binh để chia lực lượng của quân Khu II mình ra thôi. Cứ theo dõi những trận đánh mấy tháng gần đây, tôi thấy chiến dịch mùa khô năm nay chúng nó sẽ đánh như thế này: Trước hết, về phía Tây, chúng nó sẽ cắt quốc lộ 19 để chặt con đường tiếp viện duy nhất của mình với miền duyên hải và hải cảng Qui Nhơn. Đồng thời ở đây, chúng nó sẽ làm mọi cách để làm tê liệt Phi trường Phù Cát... Phía Bắc, Kon Tum sẽ bị đánh. Phía Nam, chúng sẽ cắt quốc lộ 14 nối liền với Ban Mê Thuột. Cũng có thể, một vài quận lỵ nhỏ ở đây sẽ bị tấn công như Buôn Hô, Thuần Mẫn v.v... Nếu chúng nó thực hiện được chuyện này mà mình không chia quân ra giữ thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ bị vây hãm. Còn nếu mình chia quân để tăng cường Ban Mê Thuột thì bộ tư lệnh sẽ bị tràn ngập trong vòng một đêm...

Nói đến đó đột nhiên Tướng Phú đưa mắt nhìn ông trung tá Khiếu, ngừng một chút rồi lại nói tiếp. Hình như cái chữ Ban Mê Thuột cứ trở về ám ảnh lấy ông:

-Tuy nhiên, nếu chúng nó xuất kỳ bất ý đánh Ban Mê Thuột, thì tôi thấy thành phố này khó mà đỡ nổi. Khó lắm, trừ phi mình có tiếp viện. Nhưng, chuyện... tận cùng, nếu mất Ban Mê Thuột, mình còn có thể gởi quân xuống lấy lại được. Còn để mất Pleiku là cả cái quân đoàn II này coi như mất. Anh Khiếu này, lúc nãy anh tính nói gì?

-Trình thiếu tướng, phòng II chúng tôi có thêm tin tức là một trung đoàn xe tăng và một trung đoàn cao xạ nặng cũng đã xuất hiện ở khu Bù Gia Mập.

-Như vậy thì chung quanh Ban Mê Thuột có tới 4 sư đoàn chính qui Bắc Việt và 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng?

-Thưa Thiếu Tướng, đúng vậy nhưng tôi chưa vẽ trên bản đồ vì chưa kiểm chứng được.
-Đó là chưa nói tới hai trung đoàn 95A và 95B vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng Kontum?
-Thưa thiếu tướng đúng như vậy.

Tướng Phú xoay chiếc ghế tư lệnh, nhìn vào tấm bản đồ nơi có cái ngón tay của ông Trung Tá Khiếu đang chỉ. Bố khỉ, ngón tay đó lại nằm ở phía bắc của Ban Mê Thuột nữa.
Tướng Phú chau mày, thò tay móc điếu thuốc lá, châm lửa, trán nhăn lại...

Ông không nói ra nhưng tướng Phú xưa nay có cái tật không tin... người Việt Nam lắm, nhất là những tin tức tình báo. Tướng Phú là một vị tướng thuộc vào hạng khá của QLVNCH, nhưng suốt quãng đời quân ngũ của ông, ông chỉ làm việc với người Pháp và Mỹ. Xuất thân là một sĩ quan nhảy dù Pháp, làm việc với Pháp, ông tập được lối đánh giặc và suy luận theo lối Pháp. Sau Điện Biên Phủ, ông Phú vào Nam. Quân đội VNCH bấy giờ được Mỹ tái huấn luyện và trang bị nên trong các chức vụ đơn vị trưởng, chung quanh ông luôn luôn có cố vấn Mỹ. Tất cả mọi chuyện, từ quân xa cho đến yểm trợ cho đến tin tức tình báo, ông luôn luôn nhờ người Mỹ lo liệu. Đến khi ông về nắm Tư Lệnh Lực Lựơng Đặc Biệt thì cái bịnh "tin Mỹ" của ông lại càng trở nên nặng vì đơn vị này do Mỹ thành lập và yểm trợ 100 %. Khi ông ra nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bệnh này vẫn không thuyên giảm vì nếu không có sự yểm trợ ồ ạt và táo bạo của không quân Mỹ thì cái sư đoàn ở vùng địa đầu giới tuyến này chắc đã bị tràn ngập nhiều lần rồi. Bây giờ, không còn tin tức tình báo của Mỹ, là một vị tư lệnh quân đoàn, tướng Phú cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề và khó khăn vô cùng.

Nhìn ông Trung Tá Khiếu, tướng Phú phải công nhận rằng đây là một sĩ quan trẻ, rất có tài và làm việc rất tận tâm nhưng ông vẫn cho rằng khả năng và kiến thức của một ông Trung tá trưởng Phòng II của Quân Đoàn vẫn chưa đủ để phán đoán hay nhận xét về những cuộc điều binh cấp sư đoàn hay quân đoàn. Chỉ có ông. Phải, chỉ có ông hoặc là những sĩ quan cấp tướng như ông mới đủ khả năng để lượng định.

Tướng Phú nhìn quanh một lượt rồi hỏi trống không:
-Bon, các anh em ở đây, có ai có ý kiến gì không? Đừng quên một chuyện là chúng nó cũng có thể đánh Quảng Đức. Về chiến lược, Quảng Đức càng dễ đánh hơn nữa vì ở gần Phước Long hơn, gần quân đoàn III, gần Sài Gòn hơn.
Không có tiếng trả lời...

Ngay lúc đó, như một kẻ nhô ra từ trong bóng tối, ông đại úy sĩ quan tùy viên xuất hiện bên cạnh tướng Phú như muốn làm dấu nhắc nhở một điều gì đó. Tướng Phú hiểu ý, nhìn đồng hồ tay rồi dụi tắt điếu thuốc, đưa mắt làm dấu cho người sĩ quan tùy viên chuẩn bị cái cặp táp rồi nói:
-Cám ơn các anh em đến tham dự buổi giải trình hàng tuần của phòng II. Không ngờ hôm nay lại có chuyện quan trọng như vậy...

Nghe vậy thì tất cả các ông sĩ quan cấp tá trong phòng liền đứng thành một hàng ngang trước mặt tướng Phú để chờ lệnh. Tướng Phú nhìn quanh một lượt. Người đầu tiên được ông tướng Phú để ý tới là trung tá Khiếu. Ông nhìn trung tá Khiếu nói:
-Cám ơn anh Khiếu đã cho tôi những tin tức vô cùng quý giá. Anh tiếp tục theo dõi, bám sát, ghi nhận và nếu có thêm tin tức gì thì anh cho tôi biết liền. Sur tout, anh đưa báo cáo và bản giải trình của anh cho phòng truyền tin để họ chuyển sang mật mã gởi về Tổng Tham Mưu và dinh Độc Lập gấp cho tôi nội trong ngày hôm nay.
-Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.
-Bon. Anh Vân, anh đánh công điện mời tất các Tiểu khu trưởng của Quân đoàn II về họp tại Nha Trang trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Riêng hai ông Tiểu khu trưởng của Ban Mê Thuột và Quảng Đức, tôi muốn họ mang theo đầy đủ kế hoạch phòng thủ của tiểu khu họ. Tôi muốn tất cả các Tiểu khu trưởng phải có mặt trong buổi họp này.
-Trình thiếu tướng tôi nhận rõ.
Tướng Phú ngừng một chút. Người cuối cùng chưa nhận được lệnh lạc gì cả là đại tá Phùng, Chỉ huy trưởng chiến đoàn III xung kích Lôi Hổ.
-Anh Phùng...
Ông tướng Phú bỏ dở câu nói. Đại tá Phùng đứng thế nghiêm.
-Tôi nghe phòng Quân Cảnh và người ta than phiền mấy thằng lính của anh... ba gai, đánh lộn, phá quán tùm lum... Anh về coi lại chúng nó. Tôi sẽ không tha thứ những chuyện đó.
-Trình thiếu tướng tôi sẽ thi hành theo chỉ thị.
Tướng Phú lắc đầu:
-Chưa hết đâu...

Ông ta đứng lên, từ từ tiến tới tấm bản đồ ở phía sau lưng. Đại Tá Phùng thấy tim mình đập nhanh hơn.
Tướng Phú đứng yên ngắm cái bản đồ một lúc rồi đưa cây gậy chỉ huy chỉ vào một điểm phía bắc của quận Dakto, nơi một nhánh của con đường đỏ chấm dứt ở đó:
-Tôi muốn anh cho con cái anh nhảy vào đây cho tôi. Ít nhất là 2 toán. Tôi muốn tìm hiểu xem lực lượng của chúng nó ở đó có bao nhiêu quân? Bao nhiêu tăng? Nhà cửa và trang bị thế nào?
Đại tá Phùng ghi nhanh mấy cái tọa độ vào sổ tay rồi nói:
-Thưa thiếu tướng tôi nhận rõ.
-Còn nữa, chưa đã hết đâu...
Cái cây gậy chỉ huy của tướng Phú lại chỉ xuống cái chỗ tẻ hai của con đường bút đỏ thứ hai, trong khu Bùi Gia Mập. Ông gõ vào đấy mấy cái thật mạnh, giọng đanh lại:
-Đây là ổ tập trung quân an toàn nhất của tụi nó, anh cho 2 toán nữa nhảy xuống đây cho tôi. Ngay chỗ này này. Phải ráng làm sao bắt được vài thằng lính, nếu sĩ quan càng tốt của chúng nó đem về đây cho tôi. Đó là một bằng chứng xác đáng nhất về sự có mặt của chúng nó.
Đại Tá Phùng gật đầu:
-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.
-Bon. Anh có 24 tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Trễ lắm là tối mai, tôi muốn con cái anh phải nhảy xuống và có mặt ở vùng làm việc. Trong giai đoạn này, tôi chỉ muốn biết quân số cùng trang bị của chúng nó như thế nào thôi. Nhớ lấy điểm đó.
-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.
Tướng Phú đội cái mũ lưỡi trai lên đầu, đeo giây súng vào người:
-Trung tá Khiếu!
-Thưa Thiếu tướng tôi nghe.
-Anh làm việc chung với ông đại tá Phùng, phối kiểm các tin tức tình báo của anh và tin của Lôi Hổ rồi làm cho tôi một tờ báo cáo. Đồng thời, làm việc đắc lực với Không quân, cho chụp càng nhiều không ảnh càng tốt. Tôi muốn anh chụp bất cứ cái gì mà anh có thể nghi ngờ. 3 ngày nữa, sau khi tôi đi họp ở Nha Trang về, tôi sẽ đọc báo cáo kế tiếp của anh.
-Tôi nhận rõ.
-Đại tá Văn!
-Tôi nghe.
-Anh cho mời 2 ông tư lệnh Sư đoàn, các ông Trung đoàn trưởng và Liên đoàn trưởng Biệt Động tối mai về họp tại đây lúc 18 giờ. Nhớ mời luôn ông tướng Nhân Không Quân và mấy ông Không đoàn trưởng qua luôn. Tôi có nhiều chuyện muốn bàn.
-Tôi nhận rõ.

Lúc này thì tướng Phú đã đứng ở cửa văn phòng mình. Ngoài sân, chiếc UH-1 có gắn bảng đỏ và hai ngôi sao bạc của tướng Phú bắt đầu quay máy. Hai người phi công đang bận rộn với mấy cái công tắc. Hai cánh quạt dài khẳng khiu đang chậm chạp liếm từng luồng gió một và từ từ tăng tốc độ...
-Ngoài ra có ai còn hỏi gì nữa không?
Không có tiếng trả lời.
-Bon, chào tất cả các anh.
-Tất cả... Nghiêmmm.
Đại tá tham mưu trưởng hô to và nghiêm trang dơ tay lên chào theo đúng thủ tục của quân đội. Tướng Phú gật đầu có vẻ hài lòng, dơ tay lên chào lại. Thì Đức Khổng Tử đã chẳng bảo là khi người nước nào còn biết được giữ được lễ nghĩa thì nước đó sẽ còn tồn tại được mà? Tướng Phú mỉm cười nhẹ nhàng khi nghĩ đến đó.

Ông bước từng bước một nhẹ nhàng ra khỏi phòng, tiến về phía chiếc phi cơ...
Lúc cánh quạt chiếc trực thăng tăng tốc độ để bốc máy bay lên, tướng Phú nhìn qua đám cuồng phong của bụi mù đất đỏ phía dưới con tàu và lại lẩm bẩm: "Ban Mê Thuột, Ban Mê Thuột... đất Buồn Muôn Thuở, xứ Bụi Mịt Trời..." Ông lẩm bẩm như vậy và mặt ông nhăn dúm lại một cách thảm hại...
* * *
Tại Ban mê Thuột, trong căn gác nhỏ nhưng sạch sẽ và tươm tất ở số 74 B đường Lý Thường Kiệt, người đàn ông mặc quần đùi nhà binh và áo thun trắng nằm nghiêng mình trên chiếc giường nhỏ đọc say mê cuốn truyện. Trên đầu giường có treo bộ đồ rằn ri, một cây súng lục, một con dao đi rừng. Chiếc áo rằn ri có huy hiệu con cọp ở ngực và cặp lon đại úy màu đen nơi cổ. Dưới giường là một đôi giày bốt đờ sô tuy cũ nhưng được đánh bóng cẩn thận.

Bên cạnh giường, trên chiếc ghế làm bằng gỗ thùng đạn, một người đàn bà xinh đẹp ngồi vòng tay trước ngực tư lự nhìn ra ngoài. Hai người vừa làm tình với nhau xong. Mặt người đàn bà vừa như giận dỗi và vừa như còn luyến tiếc hương vị của cuộc ân ái vừa qua...
Một lúc sau, người đàn ông xoay người hỏi:
-Em có đói bụng không Diễm?
Diễm lắc đầu không nói gì.
-Em muốn đi ăn không?
Diễm cay đắng:
-Đi ăn với người đã có vợ, thiên hạ cười chết.
Người đàn ông vất cuốn sách xuống giường, nhăn mặt có dáng mệt mỏi và hơi khó chịu. Tuy vậy, giọng nói của anh ta rất dịu dàng:
-Em cứ đay nghiến anh mãi.
Rồi anh ta ngồi dậy, thò tay với lấy gói thuốc Capstan trong túi áo, châm lửa mồi thuốc rồi uể oải đứng lên.
Người đàn ông đã đứng sau lưng Diễm, vòng hai tay ôm lấy nàng. Diễm tính hất tay anh chàng ta ra nhưng nghĩ sao lại để yên. Nàng ngã người vào bộ ngực rắn chắc của người đàn ông, nói như qua hơi thở:
-Em khổ lắm anh Huân ơi, anh có biết không?
Huân gỡ điếu thuốc ra khỏi môi, hôn nhẹ vào má nàng:
-Anh hiểu. Anh xin lỗi em.
-Bây giờ anh tính sao đây?
Huân lắc đầu, bất lực:
-Anh ước muốn nếu mình có một quyền năng gì đó...
Vừa nói đến đó, Diễm gỡ tay anh ra rồi bất ngờ tát đến bốp một cái vào mặt Huân:
-Đồ đểu, đồ khốn nạn...
Rồi Diễm ôm mặt bật khóc. Huân đưa tay lên xoa mặt, nhưng không hề biểu lộ một sự giận dữ.
-Anh cút đi, anh đừng động đến tôi... Anh là đồ khốn nạn...
Huân ngồi xuống giường trở lại. Mặt u buồn. Đấu điếu thuốc lại lóe lên liên tiếp. Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối.
-Tại sao hôm đó anh lại tán tôi?
Huân cảm thấy tim mình đau nhói, không trả lời nỗi. Ừ thì mình bậy thật, ai bảo mình tán tỉnh nàng làm chi để đến ra nông nỗi này? Nhưng mình là lính xa nhà, gặp con gái đẹp mà không tán thì biết làm gì? Chẳng lẽ chỉ đứng xa mà nhìn rồi tối về nhà thầm yêu trộm nhớ như hồi còn đi học ở trung học?

Hai người quen nhau cách đây gần năm. Hồi ấy Huân còn đeo lon Trung úy, từ Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn vừa được đổi lên Ban Mê Thuột. Buổi chiều đầu tiên nhậu ở căn cứ say túy lúy. Buổi chiều thứ hai, chàng phóng xe díp ra phố để mua vài thứ lặt vặt và cũng để rửa mắt, coi thử thành phố Ban Mê Thuột tròn méo thế nào, dân tình ra sao. Huân thấy thành phố dễ thương lắm. Và dân Ban Mê Thuột hình như có một vẻ đẹp đặc biệt.
Trong một tiệm tạp hóa, chàng chỉ cây bút máy Pilot trong tủ kính hỏi cô hàng trẻ tuổi đang ngồi mơ màng, không biết đang mơ mộng hay suy nghĩ chuyện gì:
-Xin phép cô, nếu được, cô làm ơn cho tôi xem cây viết pilot.
Đáng lẽ, Huân sẽ chẳng bao giờ thèm để ý đến nàng nếu nàng không ngước mặt lên nhìn chàng, rồi nhìn bộ đồ rằn ri như muốn hỏi tại sao một người mặt mũi lịch sự thanh tao như vậy lại có thể mặc được bộ đồ rằn ri dữ tợn. Lúc ấy, Huân mới để ý là cô nàng duyên dáng thật. Lại ăn bận lịch sự và đúng mốt, hợp thời trang nữa. Bộ quần áo của nàng đang mặc Huân nhìn thấy không nhiều ở đất cao nguyên này. Nhưng tất cả những cái đó không bằng cặp mắt. Ánh mắt của nàng như muốn nói cho Huân biết là nếu chàng chịu khó tán tỉnh, chàng sẽ chiếm đoạt được nàng. Đời Huân, Huân đã gặp ít nhất vài ba người đàn bà như vậy.
Diễm mở cửa tủ kính, lấy cây viết đưa cho Huân. Chàng cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:
-Cô cho mượn lọ mực, tôi viết thử được không?
Diễm khoanh tay đứng nhìn Huân, ngần ngừ một lúc rồi xoay động đôi vai nói:
-Đúng ra thì lệ ở đây không cho khách thử viết nhưng với ông thì... đặc biệt.
Huân cười:
-Tiệm này cũng có chương trình đặc biệt dành cho quân nhân chăng?
-Không! Tại vì tôi thấy ông lịch sự và trang nhã.
Huân cười nhẹ:
-Riêng tôi, nói thật với cô hàng, tôi mua bút cũng đã nhiều nhưng chưa bao giờ muốn thử cả. Cô có biết vì sao tôi muốn thử cây bút này không?
Diễm cười lên khanh khách, hàm răng thật trắng vào đều đặn:
-Thôi đi, ông muốn nói tại vì tôi đẹp phải không?
-Cô lầm rồi. Tôi không có thói quen khen người khác phái là đẹp. Tôi nghĩ một người đàn bà đẹp luôn luôn biết rằng mình đẹp, tất cả những lời khen tặng đều là dư thừa cả.
Diễm mở nắp một bình mực, hút một tí mực vào bút. Nàng đưa cây bút cho Huân và để ý và nhìn thấy những ngón tay dài đầy lông măng của chàng không có đeo nhẫn cưới:
-Vậy thì tại sao, ông lính?
-Tại vì hồi nãy tôi để ý thấy cô cứ nhìn chằm chằm vào người tôi. Tôi biết cô có... cảm tình với tôi.
Diễm đỏ bừng mặt, cặp mắt "ngổ ngáo" lúc nãy bây giờ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt người khách. Ông lính đẹp trai này quả là một nhà tâm lý tài tình, Diễm nói với lòng mình như thế. Một lúc sau đó, nàng mới lấy lại được bình tĩnh để nói:
-Hay nhỉ, có cảm tình với ông. Sao mà ông lại tự tin lắm vậy?
Huân cười, vẫn nụ cười ngạo nghễ, nửa như châm chọc, nửa như vuốt ve:
-Không phải tự tin mà là linh cảm. Linh cảm của một người lính cô đơn và xa nhà.
-Ông vừa mở máy tán?
-Tại sao lại không nhỉ? Thật là bất lịch sự và ngu xuẩn nếu đứng gần một người đẹp như cô mà không chịu tán. Cô, à, cô gì nhỉ?
-Diễm.
-Diễm, hay quá. Tôi tên Huân.
Diễm không nói gì, vòng tay lại nhìn Huân chờ đợi. Huân nhún vai, hỏi:
-Cô Diễm cho tôi xin miếng giấy.
-Ông tán gái hay lắm.
Huân lắc lắc cho cây bút xuống mực, cúi người trên tủ kính rồi gạch vài gạch vào miếng giấy trắng. Rồi chàng xuống hàng, ngón tay đầy nhựa thuốc lá nắn nót viết chữ... "CAPSTAN" thật đều và thật đậm nét. Viết xong, Huân thẳng lưng lên, nhìn ngắm chữ CAPSTAN mình vừa viết như một ông cụ đồ nho ngắm câu đối tết vừa vẽ xong. Chàng xoay người đưa tờ giấy cho Diễm coi, hóm hỉnh nói:
-Cô Diễm thấy chữ tôi viết có... đẹp không?
Diễm bật cười, gật đầu, bắt đầu cảm thấy thích anh chàng. Nàng chưa gặp được một người nào tự nhiên và lại tự tin đến như vậy:
-Kể ra thì đẹp thật. Nhưng trên đời này có thiếu gì chữ để viết, tại sao lại viết CAPSTAN là tên của một loại thuốc lá?
-Cô Diễm cho thử một câu đi để tôi viết?
Diễm cười:
-"Anh Là Lính Đa Tình, " được không?
Huân cũng cười, nhưng nhún vai:
-Đó là đầu đề của một bài hát, nhưng nghe thấy ghê quá cô Diễm ạ.
-Vì sao thế?
-Vì lính là những người cô đơn nhất trên trần gian này. Lính chẳng bao giờ có thể đa tình được cả.
-Đáng buồn thật, thế mà Diễm cứ tưởng các anh lính đa tình lắm. Thế thì "Những Đồi Hoa Sim" được không?
-Nghe buồn quá.
-Thế "Xuân Này Con Không Về Mẹ Ơi" có được không? Nghe có vẻ ... "hiền lành hiếu thảo" vô cùng.
-Nghe ủy mỵ và yếu quá. Cô Diễm cho câu khác đi.
Diễm suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nhún vai:
-Tôi chịu!
-Thế thì để tôi thử lại xem. Tôi vừa nghĩ ra một câu.
Huân cười với ý nghĩ của mình. Chàng nhích người đứng sát bên nàng, rồi cúi đầu xuống, cố ý để ống tay áo rằn ri để cạnh tay áo màu xanh của Diễm. Diễm thấy hơi lạ nhưng để yên, coi thử ông khách hàng "âm mưu" gì. Huân nắn nót viết trên tờ giấy: "Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng."
Huân lại đưa miếng giấy cho Diễm coi:
-CAPSTAN là ý nghĩa của câu này.
Diễm nhìn mảnh giấy rồi nhìn Huân và cười thích thú, bảo:
-Hay quá nhỉ? Rất đúng hoàn cảnh mà cũng hay nữa. Diễm không ngờ dân hút thuốc lá có nhiều thiên tài... thi sĩ đến như vậy? Ông đã tựa bao nhiêu chiếc áo nàng rồi?
Huân không trả lời, đóng nắp cây bút lại, mắt vẫn không rời tờ giấy:
-Cô Diễm biết xuất xứ cái câu này như thế nào không?
-Bắt chuyện hay lắm. Ông kể cho tôi nghe đi.
-Ngày xưa, có một ông Tây đi lính đánh trận sang Việt Nam...
Huân ngừng lại ở đó, đưa cây bút cho Diễm:
-Cô Diễm chọn cho tôi một màu khác đi, tôi không thích cái màu đỏ này. Nó hung dữ quá, không hợp với những người... có tâm hồn thi sĩ như tôi.
-Nhưng ông chưa kể hết chuyện mà. Ông phải kể thì tôi mới chọn màu hộ ông được.
-Chuyện hay lắm, nhưng kể trong không khí này mất cái hay đi. Tối nay, nếu Diễm có rãnh, mình gặp nhau ngoài công viên, tôi kể tiếp cho Diễm nghe...
Ánh mắt Diễm thoáng lên một ngọn lửa hoan lạc. Nàng mỉm cười sung sướng, đứng lặng một chút rồi nói:
-Dân nhà binh có khác. Đốt giai đoạn mau lắm. Tối nay thì không được nhưng chiều mai thì Diễm rảnh. Khoảng 2 giờ được không?
Vậy là hai người quen nhau buổi chiều hôm sau. Dễ dàng và thơ mộng. Đi với Huân lần đầu trong công viên, nàng thấy bên trong lớp áo rằn ri dữ tợn của chàng là một tâm hồn thật trẻ trung, vui tính và yêu đời. Dưới mắt chàng, hình như, chẳng có chuyện gì là quan trọng cả. Đi ngang đám trẻ đang đá banh, anh chàng ngứa giò, xin phép Diễm rồi cởi giày chạy ra sút vài quả bóng với bọn trẻ. Nàng đứng im nhìn Huân lừa bên này lách bên kia với đám trẻ và mỉm cười thích thú. Diễm không biết trên thế giới này có được bao nhiêu người đi chơi với đào lần đầu tiên mà lại xin phép cởi giày để đá bóng vài phút với bọn trẻ. Đi dưới những tàng cây to lớn có đến hàng trăm tuổi, chàng chỉ và đọc tên vanh vách cho Diễm nghe từng loại cây. Có vài con chim bay lướt trên cao, Huân ngước nhìn rồi nói rõ lai lịch chúng nó. Kể cả những loại tre loại trúc, Huân cũng biết rõ xuất xứ. Hình như, với chàng, rừng rậm là một thứ mà chàng biết rất nhiều. Hình như, rừng rậm và cây cối mới là quê hương, là nơi mà chàng có thể sống thoải mái được.
Diễm chỉ để ý đến một điều là anh chàng hút thuốc hơi nhiều. Một lần, Huân mồi thuốc và nói với Diễm:
-Mỗi lần mua bột bao thuốc lá mới, anh luôn luôn bị ám ảnh bởi câu "Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng" của gói CAPSTAN.
-Nghe có vẻ buồn hơn "Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng."
Huân phà khói thuốc, hỏi:
-Em có tin dị đoan không?
-Thỉnh thoảng.
-Hồi xưa, anh có một thằng bạn. Nó có đeo một cái nanh heo rừng trong người. Nó bảo anh là ngày nào nó còn mang nanh heo rừng thì súng đạn không đụng đến nó được...
Huân bỏ lửng câu nói. Diễm nhận ra là nàng thích cái lối nói chuyện này. Nó làm cho người ta trở nên hồi hộp:
-Rồi sao nữa?
Chàng nhìn ra xa xa:
-Một ngày nó đi nhảy toán, bị bắn chết, bạn bè đem xác về được. Anh liệm nó vào hòm, mò mẫm tìm cái nanh heo rừng nhưng không thấy.
Ngừng một chút, Huân tiếp:
-Em biết nó ở đâu không?
-Không?
-Anh cũng chẳng biết, cứ nghĩ là anh chàng nào đó đã lấy rồi. Chiều đó anh đi tắm, mới thấy cái nanh heo rừng nó bỏ quên, treo lơ lửng trên vòi nước.
Diễm rùng mình. Huân nói:
-Ở trên đời này, có nhiều chuyện mình không thể giải thích được mà nó vẫn xảy ra.
-Chuyện nanh heo rừng em đã nghe vài lần, nhưng cái câu gì đó thì dị đoan gì?
-Chính nó dạy cho anh. Nó bảo, khi mày yêu ai, đi mua thuốc lá đừng nói "Bán cho tôi gói Capstan mà phải nói bán cho tôi một "Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng..."
Diễm cười:
-Nếu không thì sao?
-Tình yêu sẽ tan vỡ.
Diễm lắc đầu:
-Em không ngờ mấy ông nhà binh lại lẩm cẩm như vậy. Mà từ lúc gặp em, anh đã đi mua thuốc lá lần nào chưa?
-Rồi!
-Anh nói thế nào?
-Anh bảo cô hàng bán cho tôi một "Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng."
Diễm nhìn xuống đất, dấu nụ cười:
-Sao anh lại nói vậy? Anh đã yêu Diễm đâu? Mình mới quen nhau mà...
Huân cười:
-Gặp được một người như Diễm mà không yêu thì thật là bất lịch sự...
Diễm bật cười, nói theo với Huân:
-Và ngu xuẩn... Diễm hỏi thật anh, anh đã nói câu đó với bao nhiêu người đẹp rồi?
-Không nhiều lắm, chỉ với những người mà anh thật thích như là Diễm.
-Đơn giản thật. Anh nói chuyện hay lắm. Anh kể chuyện đời anh cho Diễm nghe đi?
-Chuyện đời anh nghe chán lắm, chỉ sợ em buồn ngủ.
Diễm đưa mắt liếc Huân:
-Xin anh chớ quên là từ chối lời yêu cầu của một người đàn bà trong hoàn cảnh này là bất lịch sự và ngu xuẩn đấy nhé.
Huân cười:
-Anh cũng định nói vậy. Thôi được, vậy em muốn bắt đầu từ lúc nào?
-Từ lúc anh còn bé.
-Xa quá, làm sao anh nhớ hết.
-Thế thì từ lúc anh đi học.
-Tuổi học trò anh chẳng có gì đáng nói. Từ lúc đi lính được không?
-Chuyện mấy ông lính nghe chán chết.
Tự nhiên, Huân xoay người đưa mắt nhìn Diễm. Ánh mắt người sĩ quan Lôi Hổ trẻ vừa lóe lên một tia nhìn đau khổ. Đau khổ nhưng tha thiết một cách lạ lùng. Diễm giật mình. Tia mắt đau khổ ấy trong mắt Huân dù rất nhỏ, dù rất tha thiết nhưng Diễm nhìn thấy được ngay. Nàng thấy xót xa và bối rối. Diễm cúi đầu, cấm lấy tay Huân:
-Anh Huân, Diễm xin lỗi anh.
Huân cười. Nhưng nụ cười hơi méo đi, đôi mắt vẫn còn đọng chút đau thương. Chàng búng điếu thuốc ra xa rồi đưa tay mình úp lên bàn tay của Diễm.
-Diễm vô duyên quá, Diễm quên anh là lính.
-Anh không trách. Nhưng Diễm có biết ai là người giữ cho thành phố làng mạc được yên bình không?
-Mấy ông lính.
-Ai là người bỏ gia đình, bỏ vợ con, bỏ tất cả ra sống ngoài rừng ngoài rú, kề cận với tử thần hằng ngày?
-Cũng mấy ông lính.
-Ai là người chịu thiệt thòi nhất trong cuộc chiến này?
-Cũng mấy ông lính... Mà thôi, anh đừng hỏi nữa, Diễm hiểu rồi.
Huân im lặng một lúc rồi nói thật dịu dàng:
-Bây giờ để anh kể chuyện đời lính của anh cho Diễm nghe...
-Thôi anh ạ, để lúc khác đi, Diễm hết muốn nghe rồi.
Huân lại móc gói thuốc. Diễm cầm lấy điếu thuốc trong tay Huân, gõ gõ vào cái hộp quẹt Zippo một cách rất sành điệu. Huân nhìn nàng ngạc nhiên, không hiểu nhờ đâu mà Diễm lại gõ thuốc tài tình đến như vậy.
Nàng ngồi sát vào Huân, đưa điếu thuốc cho chàng và khẽ nói: "Chiếc áo phong sương tình anh nặng..."
Huân cắm điếu thuốc vào môi mình, nghiêng người xuống. Diễm đưa cái hộp quẹt Zippo của Huân lên, dùng ngón tay mở nắp rồi bật lửa cho chàng, tay kia đưa ra che gió.
Huân rít một hơi thuốc dài, nhả khói ra, hỏi:
-Em học ở đâu mà nhồi thuốc hay quá vậy?
-Ngày xưa, bố em làm biếng, mỗi lần hút thuốc mà không tìm ra hộp quẹt hay bắt em xuống bếp mồi thuốc cho bố.
-Ngoan quá nhỉ. Em kể chuyện đời em cho anh nghe đi.
Diễm cười:
-Bắt đầu từ lúc nào?
-Lúc nào em thấy dễ nhớ nhất.
Diễm ngước mắt nhìn lên trời, rồi lại cúi xuống, rồi lại nhìn lên:
-Đời Diễm buồn lắm...
Huân nghe vậy thì thấy xót xa trong lòng. Không hiểu sao, chàng đã mơ hồ đoán ra chuyện này.
-Nhà em ở Nha Trang. Mấy cha con em đang sống an bình vui vẻ bỗng một ngày, năm Diễm học đệ tứ, bố em bỏ mẹ con em đi đâu mất biệt. Mẹ bảo bố đi theo vợ bé vào miền Tây sinh sống. Có một điều mẹ em không nói là ngày bố đi, bố nghe lời vợ bé, bao nhiêu vàng bạc trong nhà bố vét sạch đem theo...
Huân hít thuốc lá liên tục. Diễm nhìn ra xa xa, tiếp, giọng đều đều:
-Thế là em phải nghỉ học để phụ giúp mẹ. Bố đi rồi, mình mẹ lo không nổi mọi chuyện. Tội nghiệp mẹ lắm anh ạ. Em thương mẹ ở chỗ, dù bị bỏ rơi như thế, mẹ không hề mở miệng ra than thân trách phận, không hề chửi bố lấy một lời, dù sau lưng bố. Điều làm cho em đau khổ nhất là mẹ vẫn còn hy vọng một ngày nào đó bố sẽ về. Em biết bố sẽ không bao giờ về nhưng mẹ thì vẫn muốn tin như thế...
-Sao em biết?
-Đàn bà có một linh tính đặc biệt của trời cho anh ạ. Hơn nữa, em gần gũi bố nhiều, em biết tính bố. Bố đã quyết định chuyện gì rồi là không bao giờ thay đổi ý kiến... Em nghĩ mẹ em cũng phần nào biết được như thế nhưng mẹ không muốn tin như vậy...
-Bản chất của con người. Trong cơn đau khổ hay nguy khốn, người người ta luôn luôn muốn tìm một cái gì đó để hy vọng, để tin vào...
Diễm tiếp:
-Buôn tần bán tảo mấy năm, để dành được ít vốn, mẹ em và bà dì hùn nhau lên Ban Mê Thuột mở cửa tiệm hàng xén. Ở đây làm ăn dễ quá anh ạ, người mua thì nhiều mà người bán thì ít. Em ở đây ba năm rồi, và cảm thấy thích cái thành phố nhỏ này.
Huân nhìn xa xa phía trước. Bên kia công viên, cách con đường quốc lộ là một cái nhà thờ nhỏ nhưng rất dễ thương với cái tháp chuông cao vút.
-Ở đây ba năm, em nhận xét thấy thành phố này như thế nào?
-Hồi mới lên đây Diễm thấy hình như ai cũng... ở dơ hết vì đất đỏ kinh khủng. Đi ra ngoài đường một vòng là bụi đỏ bám đầy đầu tóc. Nhưng ở lâu rồi mới biết dân Ban Mê Thuột là dân sạch sẽ nhất nước vì ở đất đỏ mà hai ngày không tắm thì sẽ biến thành mọi ngay.
Huân cười, hỏi:
-Em có nhớ biển không?
-Cũng nhớ nhưng không nhớ biển bằng nhớ bạn bè anh ạ. Hồi đó Diễm cô đơn và buồn kinh khủng, chẳng quen biết ai cả. Bạn bè cũng khó kiếm nữa. Nếu anh lên đây trước chừng... 3 năm thì Diễm đỡ khổ rồi...
Cả hai người cùng cười. Rồi Diễm bảo:
-Thôi mình đi về anh, chiều rồi...

Chiều thứ bảy đó, Diễm nhận lời mời đi tham dự buổi dạ vũ Giáng Sinh trong căn cứ của Chiến đoàn. Hai người quấn quít bên nhau như đôi chim nhỏ...

Tháng sau, Huân mướn căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt để làm chỗ hẹn hò. Mới đầu Diễm còn giấu mẹ nhưng sau thì mẹ nàng biết. Bà cũng chẳng cấm cản gì, chỉ bảo: "Con lớn rồi, con đủ trí khôn để quyết định lấy chuyện mình làm. Mẹ chỉ khuyên con nên cẩn thận."
Ba tháng sau, Diễm khám phá ra một chuyện động trời: Huân đã có vợ...

Tối đó, Huân đang nằm ngủ trên giường thì Diễm lôi anh dậy. Huân chưa kịp mở mắt thì đã thấy hơi thép lạnh băng của họng súng Colt .45 chĩa vào thái dương mình. Trong lúc chập chờn, Huân tưởng mình đang đi nhảy toán và bị Việt Cộng bắt. Chàng đang suy nghĩ tìm cách thoát thân thì giọng Diễm rít lên:
-Ngồi dậy đi! Anh là thằng khốn nạn.

Huân chưa mở mắt nhưng nghe giọng nói đó thì biết chuyện gì đã xảy ra. Từ lúc quen nhau, Huân đã âm thầm chờ đợi một ngày như ngày hôm nay. Cái giọng đay nghiến đó không làm chàng ngạc nhiên lắm. Đàn bà khi ghen thường trở thành những con người lạ lùng. Huân chỉ ngán cây .45 của chàng đang nằm trong tay Diễm. Đạn Colt .45 của Lôi Hổ mà nổ gần vậy và nhè nổ ngay vào chỗ thái dương thì nhất định chết rồi mà người bị bắn vẫn chưa biết mình chết.

Huân hít một hơi thở cho đầy lồng ngực rồi mở mắt ra. Chàng nhìn thấy Diễm đầu tóc rồi bù, nước mắt ràn rụa, cây Colt .45 trong tay nàng run lên từng hồi theo tiếng nấc.
-Dậy đi, sao anh dám lừa tôi?

Mồ hôi toát ra đầy trán nhưng Huân vẫn nằm im không cử động gì cả. Chàng biết Diễm chỉ muốn dọa chàng nhưng súng đạn là một thứ... rất dễ bị cướp cò bất tử. Nhất là khi nó lại nằm trong tay một người đàn bà chưa hề biết sử dụng súng và tâm hồn lại đang bị giao động mạnh như lúc này.
Huân xoay đầu từ từ, giọng rất bình tĩnh:
-Em cho anh hút điếu thuốc được không?
Diễm gầm lên, đau đớn pha lẫn phẫn nộ:
-Không có thuốc thang gì cả. Anh trả lời tôi đi, tại sao anh lại lừa tôi?
Huân đâu có cần nghe câu trả lời của nàng, chàng chỉ hỏi vậy để có cớ tránh cái họng súng quái ác đang chĩa vào ngay thái dương mình và coi thử coi cái khóa an toàn cây súng có mở không. Huân tái mặt khi nhìn thấy cái khóa an toàn đã mở sẵn. Đúng ra là lỗi ở chàng. Huân không bao giờ khóa an toàn cây súng của mình. Trường tình báo dạy cho chàng biết cây súng khi hữu sự mà bị khóa an toàn thì chỉ là một miếng thép vô dụng.
Huân nuốt nước bọt, cất giọng nhẹ nhàng:
-Coi kìa, em muốn anh dậy thì để anh ngồi dậy, nhưng phải nhích ra một chút chứ...
Diễm đang phân vân chưa biết phải làm gì thì trong một tích tắc đó, Huân đã chòm dậy nhanh như cắt, đưa tay chụp lấy cây súng trong tay nàng chĩa lên trời. Một tay chàng ôm Diễm, tay kia chàng lẹ làng gỡ cây súng ra thảy xuống một góc giường.

Hú hồn
Diễm gục đầu vào vai Huân và bắt đầu khóc. Mới đầu chỉ tấm tức nhưng trở thành nức nở chỉ trong vài giây đồng hồ. Huân ôm lấy Diễm, để những giọt nước mắt thấm ướt chiếc áo thun nhà binh. Chàng dỗ dành:
-Anh xin lỗi em. Lỗi của anh, lỗi của anh hoàn toàn.
Diễm lại khóc to hơn, đay nghiến:
-Em khổ quá! Đời một người con gái, anh phải biết chỉ có được một lần làm con gái... Tại sao anh lại lừa em?
Huân nhắm mắt lại, thấy đau đớn tận cõi lòng. Chàng vuốt ve lưng nàng:
-Lỗi của anh hoàn toàn.
-Tại sao anh lừa em?
-Đừng bắt anh trả lời Diễm ạ, anh xin em...
-Anh phải trả lời.
Huân thở dài:
-Anh đâu có lừa em, anh chỉ... chỉ... dấu em.
Đột nhiên nàng xô Huân ra:
-Đàn ông các anh chỉ rặt toàn là một bọn người khốn nạn. Tất cả đều khốn nạn...
Cứ như thế, từ 10 giờ tối cho đến quá nửa đêm, Diễm lúc thì khóc, lúc thì im, lúc thì đay nghiến Huân bằng những lời lẽ nặng nề. Diễm chỉ ngừng lại khi có vài tiếng gõ vào bức vách báo hiệu sự khó chịu của người hàng xóm ở ngay phòng bên cạnh.

Huân lắc đầu, đứng lên bước ra ngoài ban công, nhìn vào bóng đêm trước mặt. Diễm lưỡng lự một chút rồi bước theo. Hai người ngồi im lặng bên nhau trong bóng tối nhìn xuống con đường tối mù phía dưới. Xa xa, mãi gần đầu đường mới thấy ánh sáng vàng vọt hiu hắt của ngọn đèn đường. Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng gió thổi lồng lộng, phủ ngập cái khoảng không gian tối tăm bé nhỏ và u buồn của hai người. Huân đốt thuốc lá liên miên.

Nhìn Huân hút thuốc, chưa bao giờ Diễm thấy ghét cái câu "Chiếc áo phong sương tình anh nặng" bằng lúc này. Láo khoét. Rẻ tiền. Cải lương. Kịch.
Cơn bão đã đi qua và để lại sự tàn phá thê lương trong lòng Diễm. Diễm thấy đau đớn và chua xót vô cùng. Nàng chợt nhận ra rằng, dù biết rằng Huân đã có vợ, Diễm vẫn không thể bỏ chàng được. Nàng đã yêu Huân mất rồi, đã cho Huân hết rồi. Diễm lại khóc lên rưng rức trong bóng tối khi nghĩ mình chẳng còn gì cả. Không ngờ đời mình lại có lúc như thế này. Muốn nói gì thì nói, mình chỉ là một thứ vợ hai, vợ bé của người ta thôi.
Huân kéo ghế ngồi sát bên Diễm, tiếp tục dỗ dành và vuốt ve. Diễm nín khóc, hỏi:
-Trở lại thực tế đi, bây giờ anh tính thế nào?
-Anh sẵn sàng ra đi để cho em được hạnh phúc.
Diễm lắc đầu và thở dài, không nói gì. Một lúc, nàng cầm lấy tay Huân hỏi:
-Sao anh đã có vợ rồi mà còn cả gan đi tán tỉnh em?
Huân đau đớn:
-Anh chẳng biết nữa. Tại anh xa nhà, anh yếu đuối, anh vô liêm sỉ.
-Anh làm vậy lỡ ở nhà chị biết thì sao? Anh không sợ chị ấy buồn à?
-Không!
Diễm hất tay Huân ra:
-Diễm không tin đâu. Anh đừng nói những câu bạc tình nghĩa như thế.
Huân nghiến răng lại:
-Em khỏi cần phải tin nhưng anh nói thật. Anh không yêu vợ anh...
Diễm không nói gì. Huân lại thở dài, nhìn xuống đường, nơi xa xa có vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn nhỏ. Tiếng gió đêm miền cao nguyên thổi rì rào. Cây cối quanh căn gác nhỏ quặn mình trong bóng tối, kêu xào xạc.
-Mà thôi, anh có nói gì em cũng chẳng tin, anh nghĩ, hay nhất, vì tương lai của em, hai đứa mình nên chia tay nhau. Em còn trẻ, còn tương lai, thiếu gì người sẽ theo đuổi em...
Diễm vẫn không nói gì.
-Đời anh coi như xong rồi. Anh sẽ về để tập yêu thương lại vợ anh. Còn em, tương lai em còn sáng sủa lắm, đừng vì một lỗi lầm nhỏ của mình mà bỏ phí cuộc đời đi. Mình chia tay nhau nhé?
Huân im lặng chờ đợi nhưng chỉ có tiếng khóc thút thít trả lời cho chàng. Huân lại vỗ về, giọng nói và thái độ như người anh an ủi đứa em:
-Anh biết em yêu anh, nhưng em sẽ quên anh được. Em phải nghĩ đến tương lai của mình. Em phải tập quên anh và anh cũng phải tập để quên em.
-Anh nói thật hay anh chỉ làm bộ?
-Anh đau lòng lắm nhưng anh chưa bao giờ thật bằng lúc này.
Diễm lại bật khóc. Rồi, thật bất ngờ, nàng đưa hai tay ôm kín Huân vào lòng mình, xiết thật chặt, nghẹn ngào:
-Trễ quá rồi anh Huân ạ, Diễm không thể nào bỏ anh được nữa rồi.
-Diễm...
-Nói đi anh, nói đi.
-Nói gì?
-Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng...
-Nhưng... nhưng... tụi mình...
-Quên chuyện đó đi anh. Anh nói với Diễm đi anh, nói đi, nói "Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng". Diễm năn nỉ anh. Nói để cho thần linh chứng giám chuyện tình của hai đứa mình, nói đi để cho chuyện tình của hai đứa mình sẽ không bị tan vỡ... Nói đi anh, nói mau đi... coi chừng thần linh sẽ giận.

Huân nói liền, giọng thẫn thờ như người chưa thoát ra khỏi sự dày vò của suy tư: "Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng..."
Thế là, truyện tình với người đàn ông... có vợ của Diễm lại tiếp diễn. Buồn phiền cũng lắm mà say đắm cũng nhiều. Diễm không rời xa Huân được và ngược lại, Huân cũng không thể nào làm khác hơn. Cả hai sống như vậy và không ai dám nghĩ đến tương lai. Vợ Huân lạnh lùng, cả năm trời mới gởi được cái thư chữ viết rời rạc, vô nghĩa lý. Huân nhìn lá thư, nhớ đến con, nghĩ đến người vợ và lắc đầu.

Khoảng hai tháng trước lễ Giáng Sinh, Diễm thấy cơ thể khó chịu, ăn uống không được, ói mửa bất thường. Một chiều, Huân về nhà sau 15 ngày hành quân nơi vùng tam biên, chưa kịp cởi áo ra thì Diễm đã cho nổ một trái bom nguyên tử với sức mạnh cỡ 200 megaton ngay trước mặt chàng, trong căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt. Diễm bảo: "Em có thai."

Bom nguyên tử nổ thật là khủng khiếp. Huân thấy trời đất quay cuồng, vũ trụ đảo lộn. Chàng bị quật ngã xuống đất rồi lòm còm bò lên giường nằm bất động, không nói được một tiếng.

Không phải chỉ có Huân mới bị ảnh hưởng của bom nguyên tử, Diễm cũng bị lây. Nàng chết trong lòng khi thấy Huân không lộ một chút vui mừng nào. Dù sao, đó cũng là giọt máu của chàng. Diễm bỏ mặc Huân nằm trên giường rồi lẳng lặng mở cửa bước ra khỏi nhà.

Nàng khóa cửa, nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn cứng. Diễm đứng không muốn vững. Nàng phải vịn vào thành cửa một lúc thật lâu mới lấy lại được sự thăng bằng. Diễm lắc lắc chùm chìa khóa nhỏ trong tay rồi mím môi ném nó tuốt ra phía sau vườn, thật xa, nơi có mấy khóm chuối hoang, mấy cây tầm duột chẳng bao giờ có trái và cỏ dại cao lên tới đầu.
Diễm nghẹn ngào nói nhỏ: "Vĩnh biệt anh Huân. Vĩnh biệt."

Rồi nàng bước từng bước một xuống cầu thang, tự nhủ với lòng mình rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở lại nơi này nữa. Nàng cũng tự nhủ sẽ chẳng bao giờ còn gặp Huân nữa. Không bao giờ.

Gần chiều Huân giật mình tỉnh giấc và khám phá ra Diễm đã đi đâu mất rồi. Chàng ra ngoài ban công ngồi chờ. Chiều, Diễm cũng không về. Tối, 8 giờ nàng cũng không về. Huân thay quần áo, ra cái quán cóc đầu phố ngồi kêu bia uống để chờ. Uống đến chai bia thứ tám, đồng hồ trên tường gõ mười tiếng dài não ruột. Huân biết Diễm sẽ không đến vì đã tới giờ giới nghiêm.

Chàng lắc đầu, thở dài một tiếng...
Bà chủ quán đi ra đi vào, không dám than phiền nhưng dáng điệu rất khổ sở. Bia uống hết ngon, Huân liền kêu tính tiền rồi lạng quạng bước ra. Thành phố Ban Mê Thuột giờ giới nghiêm vắng ngắt như một bãi tha ma. Gió đêm thổi lên từng cơn rùng rợn. Huân lủi thủi bước về lại căn gác, lên lầu lấy cây Colt .45 nhét vào bụng rồi xuống đường mở máy chiếc xe díp. Chàng lái xe xuống nhà Diễm.

Chiếc xe díp của Chiến Đoàn III Lôi Hổ phóng băng băng giữa thành phố vắng người...
Đèn trong nhà Diễm tự nhiên tắt ngấm khi Huân vừa thắng chiếc xe. Huân lắc đầu ngao ngán. Chàng biết có vào gõ cửa cũng bằng thừa nhưng quyết định vào.

Huân gõ đến lần thứ tư thì cánh cửa bật mở. Má Diễm ló đầu ra bảo: "Cháu về đi. Diễm nó mệt."
Huân chưa kịp nói thì cánh cửa đã đóng sầm một cái. Chàng đứng yên trong bóng tối một lúc rồi ngồi ngay xuống thềm nhà Diễm, dựa lưng vào vách đốt thuốc. Đàn muỗi đói xông tới tới công. Huân nới ống tay áo và kéo cao cổ áo lên. Muỗi vẫn tấn công tới tấp. Chàng bỏ mặt. Cứ coi như trực thăng đến trễ một ngày. Cứ coi như tối nay mình còn nằm trong rừng.

Một lúc nào đó, Huân cảm thấy mệt nhoài. Sự mệt mỏi của gần tuần lễ trong rừng thẳm, sự tàn phá của trái bom nguyên tử và men rượu của tám chai bia lớn đẩy chàng nằm xuống. Huân ngủ thiếp đi trước thềm nhà Diễm, một tay thọc sâu vào bụng nắm chặt lấy cán cây súng Colt .45. Tay kia để ngược ra sau trong tư thế chuẩn bị. Đàn muỗi đói vẫn bay vo ve nhưng đối với Huân bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì nữa. Lính Lôi Hổ muốn ngủ là ngủ được, dù ở bất cứ chỗ nào.

Huân ngủ rất ngon, không một tiếng gáy, không một lần trở mình như chàng vẫn thường ngủ ở trong rừng mỗi khi đi nhảy toán.

Bỗng, trong một khoảng thời gian nào đó trong đêm, tai người sĩ quan Biệt Kích nghe được tiếng động lạ. Huân tỉnh giấc liền và nhận ra ngay đó là tiếng mở cửa. Ngón tay đang bám cứng vào cò súng của chàng liền nới lỏng ra. Nhưng Huân vẫn nằm im, chờ đợi. Rồi tiếng dép khua lẹp kẹp. Huân nhận ra bước chân của Diễm. Chàng vẫn nằm im, miệng lại nở lên một nụ cười.
Diễm xách cây đèn dầu đến bên Huân, cúi nhìn người lính mặc đồ rằn ri đang nằm ngủ trên thềm nhà. Rồi nàng để cây đèn dầu xuống bên cạnh, ngồi xuống bên cạnh Huân, nâng đầu chàng lên để lên đùi mình...

Trong một khoảnh khắc, nàng quên hết. Quên những gì vừa xảy ra chiều nay, quên giọt máu của Huân trong bụng mình, quên cái tương lai đầy bất trắc trước mặt để chỉ biết một điều: Nàng đã yêu đắm đuối cái con người đang nằm trong vòng tay nàng đây và không thể nào bỏ chàng được...
Rồi chuyện đâu cũng vào đấy. Diễm lại trở về với Huân. Trở về với cái bào thai đang từ từ lớn dần trong bụng mình và chờ đợi. Cuộc sống hai người không còn như xưa nữa. Diễm vui buồn bất chợt. Có lúc vừa cười xong thì lại khóc ngay sau đó. Vừa mới âu yếm nhau thì lại gây gổ liền. Mỗi lần Diễm phản ứng như vậy Huân thấy đau đớn tận đáy lòng.

Chiều nay cũng vậy, Huân nhói trong người không phải vì cái tát mà vì sự thay đổi tính tình bất thường của Diễm. Đàn bà có thai mà bị xúc động nhiều quá không tốt. Chàng nghĩ đến đứa con trong bụng mình và cảm thấy lo sợ...

Rồi hai người lại làm lành với nhau. Diễm đã thôi khóc, thôi đay nghiến. Huân đang ngồi vuốt ve an ủi Diễm thì có tiếng xe díp thắng trước nhà. Huân nhóm người lên nhìn xuống và nhận ra đó là xe của Chiến Đoàn. Người trung sĩ tài xế trên xe phóng xuống như bay, chạy lên gác.
Huân lắc đầu toan đứng lên nhưng Diễm đã ghì chặt lấy chàng, úp mặt vào ngực chàng, nói nhỏ:
-Anh cứ ngồi đây với em, chừng nào ông ấy lên thì đứng dậy cũng chưa muộn...
* * *
Đám sĩ quan Lôi Hổ quay quần bên tấm bản đồ để trên bàn. Đại tá Phùng chấm dứt phần nói chuyện:
-Còn ai có ý kiến hay thắc mắc gì nữa không?

Không ai nói gì. Thực ra, người đáng lý ra phải có ý kiến nhiều nhất là Huân vì tất cả các sĩ quan có mặt đều được giao một công tác ngoại trừ chàng. Nhưng Huân không thèm mở miệng. Chàng biết, đã được gọi vào đây để tham dự phiên họp này thì trước sau gì tên mình cũng được nhắc đến, khỏi cần "mua việc" hay thắc mắc làm chi cho mất công.

Đại tá Phùng đứng lên:
-Vậy cứ theo kế hoạch mà làm. Ý của ông tướng Phú rất đơn giản. Ổng muốn xác nhận sự có mặt của sư đoàn 10 và sư đoàn 316 trong các khu vực đó. Anh em chỉ cần tóm một vài thằng đem về đây là xong công tác. Bây giờ anh em có thể giải tán được...
Mọi người dơ tay lên chào, Huân cũng bình thản tính dơ tay lên chào để đi ra nhưng đại tá Phùng lại nói:
-Khoan, Đại úy Huân ở lại chờ tôi một chút.
Đã chuẩn bị từ trước, Huân thản nhiên bỏ tay xuống chờ đợi. Còn hai người trong phòng, Đại tá Phùng chỉ cái ghế gần mình. Huân ngồi xuống. Ông chiến đoàn trưởng nhìn Huân, giọng thân mật:
-Gia đình anh lúc này thế nào?
Huân hơi ngạc nhiên vì câu hỏi:
-Cám ơn đại tá, vẫn thường thôi.
-Vợ anh thế nào?
Huân bối rối:
-Cám ơn đại tá, cũng thường, nhưng lâu quá chưa liên lạc được.
-Sao lâu lắm rồi không thấy anh đi phép về Sài gòn?
-Tôi có nhiều việc làm ở Ban Mê Thuột quá...
Huân không muốn nói nhiều hơn. Hai người im lặng. Đại tá Phùng tính nói một câu gì đó nhưng lại thôi. Cả hai đều đột nhiên cảm thấy là bầu không khí trong phòng đang trở nên ngột ngạt.
Ông đại tá liền đổi đề tài:
-Anh biết tại sao tôi mời anh ở lại đây không?
-Tôi có linh cảm một chuyện đặc biệt nhưng không biết đặc biệt... cỡ nào.
-Anh có một nhiệm vụ quan trọng hơn. Xác nhận sự có mặt của chúng nó chỉ là chuyện phụ... Tôi và ông Trung tá Khiếu phòng II biết rất rõ và có bằng chứng là chúng nó đã tập trung 4 sư đoàn ở mặt trận cao nguyên này...
-Nếu biết vậy thì mình còn cho người đi bắt lính chúng nó về đây làm gì?
Ông Phùng lắc đầu:
-Để trình diện Quân đoàn, để làm đẹp lòng tướng Phú, khổ là như vậy. Ông tướng này có vẻ không mấy tin tưởng vào các tin tức tình báo của bọn mình đưa lên. Ổng muốn chứng minh, ổng muốn mình phải bắt được vài thằng lính của chúng nó làm bằng chứng. Nhưng chuyện này chẳng có gì khó, nghề của bọn mình mà. Xưa này mình đã làm bao nhiêu vố rồi, làm thêm một vố đâu có sao.
Nhưng mà...
Huân chờ đợi. Chàng biết những gì chàng sắp nghe quan trọng vô cùng.
-Anh Huân, cái chuyện chính, chuyện tôi muốn nói với anh là cái chiến trường cao nguyên, đúng hơn, cái mặt trận B3 theo lời gọi của chúng nó sẽ bùng nổ rất lớn sau tết. Chúng nó sẽ đánh. Đánh cú chót cạn láng. Chúng nó sẽ ta pi mình một lần nữa như cái kiểu mùa hè năm 72...
Đại tá Phùng ngừng nói. Ông nhìn xuống tấm bản đồ để trên bàn, lắc lắc cái đầu:
-Chấp tụi nó. Biết nó đánh thì mình chuẩn bị, nó đánh lớn thì mình chuẩn bị lớn, đánh nhỏ thì chuẩn bị nhỏ, chuyện này cũng chẳng có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất, chuyện quan trọng nhất đang làm ông tướng Phú và toàn ban tham mưu mất ăn mất ngủ là không biết chúng nó sẽ đánh chỗ nào. Ban mê thuột hay Pleiku?
-Ban Mê Thuột hay Pleiku?
Huân lập lại như người chưa tỉnh cơn mộng và thấy đau nhói trong tim mình. Ban Mê Thuột, thành phố nhỏ bé hiền hòa này không phải là thành phố của chiến tranh. Người dân Ban Mê Thuột chưa sẵn sàng để hứng đạn đại pháo. Dân quân Ban Mê Thuột chưa được trang bị đầy đủ để chống tăng. Quan trọng nhất, Diễm và đứa con trong bụng nàng chưa chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chạy loạn.
-Như tôi đã nói, ông tướng muốn bắt sống vài thằng tù binh, mình sẽ bắt đem về cho ông tướng đẹp lòng, nhưng đồng thời, lợi dụng việc đó, tôi cũng vừa nghĩ ra một cách để giải quyết mối lo trong gan ruột ông tướng...

Ông ngừng nói, nhìn Huân như muốn ước lượng xem thử người sĩ quan thuộc quyền có thể đoán được những gì mình muốn nói. Đại tá Phùng kéo ghế ngồi gần sát Huân:
-Sở dĩ tôi giữ anh lại đây là vì tôi muốn dùng anh vào việc này. Trong chiến đoàn của mình, nếu không có anh thì không ai có thể làm được việc này. Anh muốn giúp tôi không?
Huân gật đầu liền. Đại tá Phùng khoái cái lối gật đầu kiểu này. Nó không điếu đóm, không kịch, và chắc chắn như một lưỡi dao chém sâu xuống mặt bàn.

-Mình có bắt được một trăm thằng lính bộ đội ông Hồ cũng không biết được mấy thằng chóp bu của chúng nó đang âm mưu cái gì. Chắc anh cũng biết, Cộng sản làm gì cũng có chuẩn bị, có kế hoạch, có học tập, có nghị quyết v.v... Nếu chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku, chắc chắn mấy thằng Sư trưởng của chúng nó không thể nổi hứng rồi quyết định đánh khơi khơi được. Lệnh phải xuống từ Bắc Bộ Phủ cho mấy mấy thằng này thi hành. Rồi tiếp theo, các Trung đoàn trưởng phải biết, đúng không?
Huân phần nào hiểu được công tác mình sắp được giao phó.
-Đúng.
-Rồi chúng nó phải học tập, phải thiết lập sa bàn, phải tập trận v.v... Vậy thì, nếu mình gài được con mắt mình ở trong "hậu phương" của chúng nó trong một thời gian dài, mình sẽ biết được ý đồ của chúng nó, đúng không?
-Đúng, tôi đồng ý với đại tá.
-Tốt. Anh nói vậy thì anh... biết công tác của anh rồi. Tôi muốn anh "Đặc Biệt" nhảy xuống mật khu Bù Gia Mập, nơi dưỡng quân của sư đoàn 316 rồi nằm trong đó chừng hai tuần lễ để quan sát và theo dõi. Anh sẽ theo dõi và điều tra thật kỹ cho đến khi nào anh nắm được trong tay một vài bằng chứng gì về ý đồ của chúng nó. Ví dụ một vài tài liệu về vấn đề di chuyển, hay những công điện truyền tin hoặc cái sa bàn tập trận hoặc là bất cứ một cái gì có thể nói cho mình biết về âm mưu của chúng. Công tác của anh tới đó là hết... Cũng có thể, nếu cần thiết, nếu không tìm được bằng chứng gì, anh phải tìm cách tóm cổ một thằng Trung Đoàn Trưởng hay tiểu đoàn trưởng đem về đây để khai thác.
Ngừng một chút cho Huân thấm ý , ông tiếp:
-Anh nên nhớ, việc tóm cổ một thằng trung đoàn trưởng hay tiểu đoàn trưởng chưa chắc phải là chuyện quan trọng. Bắt được chúng nó đem về đây mà không khai thác được thì cũng thành công cốc. Cái quan trọng là làm sao tìm biết được chúng nó sẽ đánh ở đâu, Ban Mê Thuột hay Pleiku. Anh phải biết cái tầm quan trọng của công tác này. Quan trọng vô cùng. Nếu mình biết được chúng nó đánh đâu, mình có thể dàn quân sẵn để chờ. Nếu chúng nó bị thảm bại thêm một cú nữa vào mùa xuân năm nay, chúng nó sẽ hết xíu quách. Cũng như mùa hè năm 72, chúng nó phải mất cỡ 3 năm nữa mới âm mưu chuyện khác được. 3 năm, biết đâu chính quyền mình sẽ đổi khác, biết đâu lòng người sẽ đổi khác, biết đâu cục diện thế giới sẽ thay đổi, biết đâu dân tộc mình rồi sẽ được ít nhất cũng sống được như nước Đại Hàn. Nhưng, ngược lại, mùa Xuân năm nay, nếu mình mắc mưu chúng để bố trí quân tầm bậy thì hậu quả sẽ không thể nào lường được...
Ông đại tá ngừng nói ở đó, nhíu mày tư lự. Huân nói đỡ lời:
-Nếu mình biết nó đánh đâu, mình có đỡ nổi cú này không?
Cặp mắt đại tá Phùng rạng lên một ánh lửa:
-Chẳng những đỡ mà mình còn dập chúng nó tan nát ra. 4 sư đoàn vào đây thì mình sẽ nướng hết cả 4.
Huân thấy vui lây cái niềm vui của ông. Ông tiếp:
-Vậy thì, anh Huân, sau khi nghe giải thích, anh có thể giúp tôi được không?
-Xin Đại tá cho biết kế hoạch của chuyến công tác.
Đại tá Phùng chỉ và mấy điểm trên tấm bản đồ:
-Như sau đây, và tôi có bàn với ông trung tá Khiếu phòng II rồi... Chiều hôm nay, theo lệnh của ông tướng, tôi sẽ thả xuống mấy toán xuống khu Bù Gia Mập. Tôi sẽ cho chúng nó quậy nát một cách thật ồn ào rồi chụp vài thằng tù binh đem về...
Đại tá Phùng mồi điếu thuốc rồi tự nhiên đổi đề tài, nhìn Huân hỏi:
-Lôi Hổ xưa nay chuyên môn nhảy Trực Thăng, nhưng anh có bao giờ nghe Lôi Hổ nhảy... xe Lam chưa?
Huân cười:
-Trình đại tá là nhảy xe Lam thì lính tôi nhảy hoài, lúc nào về phép hết tiền mà chúng nó chẳng nhảy...
Đại tá Phùng không để ý đến câu pha trò, ông đưa ngón tay chỉ xuống quận lỵ Đức Lập, một quận lỵ nằm giữa Ban Mê Thuột và Quảng Đức, phía Đông Bắc của mật khu Bù Gia Mập khoảng vài chục cây số:
-Trong khi mấy toán ban nãy lục soát ở Bù Gia Mập, anh lẳng lặng dẫn toán của anh nhảy... xe Lam xuống chỗ này cho tôi.
Huân nhìn vị chỉ huy:
-Nhảy xe Lam? Lúc nãy tôi tưởng đại tá nói đùa.
-Không đùa! Anh cho cả toán mặc đồ dân sự đón xe lam lên Đức Lập rồi tập trung tại đây cho tôi. Ở đây một một cái rẩy nhỏ có thể chứa các anh được, chi tiết sẽ cho anh biết sau.
Huân sửa lại thế ngồi, chăm chú theo dõi.
-Mình phải nhảy xe Lam bởi vì cái tầm quan trọng vô cùng của công tác. Việt cộng xưa nay biết biệt kích nhảy trực thăng, nhảy C-130 nhưng nó chẳng bao giờ ngờ là mình còn biết nhảy... xe Lam nữa. Vì chẳng ngờ cho nên chúng nó mới không đề cao cảnh giác, không chuẩn bị, không đề phòng. Các anh cứ nằm im trong cái rẩy này trong lúc các toán kia lục soát ở gần mé ngoài mật khu. Lúc rút các toán này về, tôi sẽ đình chỉ tất cả mọi hoạt động thám thính, kể cả của Không Quân. Sau khi không nghe thấy trực thăng của mình trong vòng 5 ngày, chúng nó sẽ yên chí lớn. Đó là lúc mà cái tài quyền biến của anh mới được đem ra áp dụng.

Câu "Cái tài quyền biến" mà ông chỉ huy trưởng dùng làm Huân thích thú mỉm cười. Ông tư lệnh này cũng biết khích tướng đấy chứ.
-Tại đây, Khi thời tiết tình thế cho phép, anh sẽ nhận được đồ tiếp tế và trang bị rồi xâm nhập bằng đường bộ vào vùng làm việc. Tại đây, anh cứ nằm yên một chỗ để quan sát tất cả những sinh hoạt của chúng nó. Theo sự suy nghĩ của tôi, nếu chúng nó sắp đánh lớn thì thế nào chúng cũng cho tập trận. Anh cứ nằm yên đó quan sát cho đến khi nào nắm vững được vấn đề. Tôi nghĩ, nếu chúng muốn đánh Ban Mê Thuột thì chúng sẽ thiết lập sa bàn. Nếu thấy sa bàn của chúng nó, chụp thật nhiều hình đem về đây cho tôi. Có được những tấm hình đó trong tay, mình có thể giải quyết mối lo trong ruột gan tướng Phú được. Mà anh có chuẩn bị được một chuyến đi dài không?
Huân đốt điếu thuốc lá đầu tiên kể từ khi bước vào phòng họp:
-Khoảng 3 tuần lễ?
-Ừ.
Đối với Lôi Hổ, 3 tuần lễ là quá dài so với những lần nhảy trung bình từ 3 hay 4 ngày nhưng Huân biết thời gian công tác không phải là một vấn đề có thể mặc cả trong trường hợp này. Chỉ có đồng ý đi hay không thôi. Chàng nhún vai:
-Cũng phải chịu vậy.
-Một điểm nữa là mình sẽ áp dụng "Im Lặng Vô Tuyến" tối đa để bảo mật. Mỗi ngày một lần, L-19 sẽ bao vùng cách chỗ anh khoảng... 100 cây số. Từ 8 giờ đến 9 giờ, anh chỉ cần mở máy theo phương thức số 3 của mình. L-19 cũng chẳng biết anh ở đâu nhưng sẽ thông báo tín hiệu về chiến đoàn để chúng tôi theo dõi.
Huân gật gù cái đầu. Phương thức số 3 của Lôi Hổ là một trong những phương thức tối mật. Đúng vào giờ hẹn trước, thường thì trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ, người ở dưới chỉ mở máy lên đúng tần số, bấm hai cái vào ống liên hợp. Sau đó chờ đúng năm phút lại bấm thêm mấy cái nữa, tùy theo công điện mình muốn chuyển. Sau đó, lại bấm thêm nữa. Người nhận được vô tuyến sẽ giở cái "khóa" âm thoại truyền tin ra để dịch tin theo những cái bấm. Những tin này phát đi rất giới hạn, thường thì chỉ cho biết là tình trạng an toàn hay có những chuyện gì quan trọng xảy ra không. Nếu có chuyện gì quan trọng, người gởi điện sẽ sắp xếp một cuộc nói chuyện trong thời gian kế.
-Tôi dự đoán là công tác rất nguy hiểm nhưng cũng có thể không. Cực chẳng đã, nếu không tìm thấy gì thì mới bắt cóc người của chúng nó. Tôi muốn cứ để cho chúng nó tưởng rằng mình không biết gì thì tốt hơn bởi vì nếu chúng có nghi ngờ thì chúng sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn.
-Nếu tôi hoàn thành công tác hoặc nếu nhận được hàng tốt (bắt được tù binh như ý muốn) thì kế hoạch du lu (dọt) sẽ như thế nào?
-Nếu anh lấy được tài liệu và bằng chứng về cuộc tấn công của chúng hay nếu tóm được giá chót là Tiểu đoàn trưởng của chúng nó thì mình break, gọi L-19 thẳng kêu chuồn chuồn lên bốc anh về. Mười ngày sau kể từ ngày hôm nay, chúng tôi sẽ có sẵn một hợp đoàn và một L-19 để chuẩn bị cho việc này.
-Còn hàng xấu?
Đại tá Phùng lắc đầu:
-Không có vấn đề hàng xấu ở đây đại úy Huân ạ. Nếu anh muốn đi, anh phải tìm được bằng chứng hay đem được hàng tốt về, còn không thì anh có quyền ở nhà. Chuồn chuồn sẽ không lên để chở hàng xấu đâu. Anh biết được vấn đề sinh tử của công tác này mà.
-Đại tá nói vậy có nghĩa là tôi có quyền chọn lựa để... không đi?
-Đúng. Như những công tác thông thường thì anh không có quyền nhưng chuyến này rất đặc biệt, rất nguy hiểm và đòi hỏi một thời gian khá lâu nên tôi chỉ muốn chọn những người tình nguyện... Tình nguyện và có khả năng, dĩ nhiên.
Huân dụi điếu thuốc, đầu óc chìm trong sự suy tư. Ở "hậu phương" thì đào có thai, chưa biết phải giải quyết như thế nào. Công tác sắp phải thi hành thì rặt toàn là những thứ tin mà mình không muốn nghe: Kéo dài 3 tuần lễ, xâm nhập bằng... xe Lam rồi bằng đường bộ, phải lấy được hàng tốt, không tốt thì không về v.v...

Đại tá Phùng nhìn thấy Huân như vậy bèn đứng lên đi đi lại lại trong phòng như muốn tôn trọng sự suy nghĩ của chàng. Huân đốt một điếu thuốc khác. Tuy đang vận hết sức để suy nghĩ nhưng chàng có suy tư gì nổi đâu? Cứ nghĩ đến Diễm là mấy sợi thần kinh như cứng đơ lại, hết co giãn nổi.
Đại tá Phùng đã đứng bên Huân, vỗ vai chàng:
-Anh Huân, anh có muốn tình nguyện đi chuyến này không?
Ngừng một chút, ông tiếp, dù giọng nói rất là... khó khăn:
-Tôi lập lại là anh có quyền từ chối. Nhưng anh nên nhớ, ngoài anh ra, tôi không còn thấy ai ở trong chiến đoàn mình có thể làm được việc này.
Huân vẫn trầm ngâm không nói gì. Trước một cái quyết định quan trọng như vậy thì người ta phải suy nghĩ và đắn đo. Người mà. Mà đã là người thì ai chẳng sợ chết?
Đại tá Phùng nhìn đồng hồ rồi nói:
-Tôi phải đi. Những gì cần nói tôi đã nói hết. Buổi họp đến đây coi như chấm dứt. Tôi cho anh suy nghĩ tới sáng mai để quyết định. Nếu anh không muốn đi cũng không sao cả, tôi sẽ tìm một phương cách khác. Còn bây giờ, chúc anh... về nhà vui vẻ.

Ông đại tá chìa tay ra. Huân đứng lên dơ tay chào rồi bắt tay ông ta. Ông lại nói:
-Nếu anh quyết định nhận công tác, tôi cần có cái danh sách 5 người đi chung với anh để trên bàn giấy tôi trễ nhất là 800 giờ sáng mai. Tôi sẽ đích thân đi gặp từng người để nói chuyện. À, còn chuyện này nữa, tôi có bảo phòng lương bổng ứng trước cho anh hai tháng lương, lát nữa nhớ ghé lấy về, cũng sắp đến Noel rồi... Thôi, vui vẻ nhé...
Huân đứng nghiêm chào vị Đại tá. Nhưng ra tới cửa phòng, ông dừng lại, suy nghĩ giây lát rồi cúi đầu bước trở lại, đến gần Huân vỗ vai nói:
-Anh Huân này, những gì tôi sắp nói không phải là của một Đại tá mà của một người anh em, một người lính nói với một người lính...
Huân không biết ông muốn nói gì. Đây là lần thứ hai ông vỗ vai Huân, một việc mà ông ít khi làm.
-Đất nước mình chiến tranh đã gần hai mươi năm rồi. Riêng tôi, đời tôi cũng gần 20 năm quân ngũ. Tôi biết, đứng trên cương vị và với danh dự của một người sĩ quan, mình luôn luôn cảm thấy khó khăn khi phải từ chối một trách nhiệm được giao phó. Nhưng, là một con người, mình có quyền thắc mắc. Cái thắc mắc đơn giản và thường nhất vẫn là: Tại sao lại tôi? Tại sao tôi phải hy sinh? Hy sinh cho ai và để làm gì? Hoặc giả, tôi hy sinh mà không biết có ai hy sinh chung với tôi không?
Ông ngước mặt nhìn lên cái lá cờ vàng ba sọc đỏ vĩ đại treo ở giữa phòng, nói tiếp:
-Ai cũng biết chiến tranh là tàn khốc nhưng ai cũng quên một điều quan trọng khác của chiến tranh là sự bất công. Bất công vô cùng. Đừng kiếm đâu xa, anh cứ ra trước cổng trại thì nhìn thấy ngay liền. Tại sao có những thằng sống phè phỡn ăn chơi và làm giàu nhờ cuộc chiến và lại có những thằng sống cực khổ như anh và tôi? Tại sao lúc nãy tôi ngồi đây để thuyết phục anh mà không chịu thuyết phục bao nhiêu người khác hy sinh?
Ông đại tá nhìn Huân, giọng rất thành thực:
-Ý tôi muốn nói, là một người chiến hữu, tôi khuyên anh đừng ngại ngùng nếu cần phải từ chối nhiệm vụ. Người ta luôn luôn có những lý do chính đáng để từ chối như vì chuyện gia đình, chuyện vợ con v.v... Mong anh đừng quên những điều ấy.
Rồi ông cúi đầu bước ra. Bước thật mau như sợ người ta nhìn thấy mình vừa nói chuyện với Huân vậy...
Xế trưa một chút ngày hôm đó, Diễm đang bán hàng ở tiệm thì giật mình khi nhìn thấy chiếc xe díp của Huân đỗ xịch lại trước cửa. Nàng đã tính ít nhất thì phải ba bốn ngày Huân mới về được. Huân bước vào, đi rất mau, mặt mày nửa rạng rỡ nửa lo buồn.
-Sao anh về sớm vậy? Không đi công tác hả?
-Anh được rảnh chiều nay. Em giao cửa hàng lại cho mẹ, đi với anh có được không?
-Em tưởng anh phải mấy ngày mới về chứ.
-Chuyện dài lắm, lát anh nói. Anh mới lãnh lương, mình đi bát phố, đi uống cà phê nghe nhạc, đi sắm đồ, đi coi xi nê rồi anh kể cho nghe...
Diễm thấy lòng mình rộn lên một niềm vui khó tả. Niềm vui của cô học trò nhìn người tình đến chở đi chơi vào một buổi chiều thứ bảy.
Xong ngay. 15 phút sau, hai người đã ngồi trong quán cà phê Tường Vân. Thành phố Ban Mê Thuột vào tháng 12 thì trời đã lạnh từ lâu. Diễm đẹp sắc sảo trong chiếc áo len tím. Đôi má nàng hồng lên tự nhiên. Hai người cười nói huyên thuyên.
Từ ngày quen Huân, Diễm nhớ, đã lâu lắm rồi mình chưa có một buổi chiều thơ mộng ấm cúng như chiều hôm nay. Với Huân thì cà phê Ban Mê Thuột pha đậm, uống chung với... khói thuốc lá Capstan, bên cạnh người tình bé bỏng thì chẳng còn gì thú bằng.
Rồi Huân chở Diễm đi chợ sắm một ít quần áo cho đứa đứa bé. Đi chợ ra đói bụng, hai người ghé vào tiệm tàu ăn mì, rồi chui vào rạp chiếu bóng LoDo xem phim "Tình chàng mãi mãi" của David Lean. Buổi tối, khi Huân dìu Diễm bước trở lên căn gác nhỏ thân thuộc thì chàng đã có quyết định: Ngày mai, chàng sẽ đi.
Huân chờ cho đến lúc hai người lên giường ngủ, chàng mới nói, cố làm cho giọng mình thật tự nhiên:
-Diễm ạ, ngày mai anh đi sớm.
Diễm đã buồn ngủ, mắt ríu lại, rúc đầu vào ngực Huân, hỏi rời rạc:
-Đi.. công... tác?
-Ừ.
-Chừng... nào... về...

Huân không trả lời liền. Biết Diễm sắp chìm vào sắp ngủ, chàng không muốn phá giấc. Huân vòng tay ôm lấy vai nàng, và chờ đợi. Quả như ý chàng nghĩ, nhịp thở của Diễm trở nên đều hòa rồi nhỏ dần. Một buổi chiều giải trí vui vẻ làm người đàn bà có thai mệt nhoài.

Huân ngắm người yêu ngủ một lúc rồi nhẹ nhàng đỡ đầu nàng lên gối. Chàng tốc mùng ngồi dậy, ra ngồi nơi chiếc bàn con bật đèn lên, lấy cây bút ra hí hoáy viết vào tập vở học trò:

Ban Mê Thuột Thứ hai ngày 2 tháng 12 năm 1974,
Diễm yêu dấu,
Lúc em đọc những dòng chữ của lá thư này thì anh đang ở một nơi nào đó trên đường đi thi hành công tác. Anh ra đi nhưng để lại lòng anh ở đây. Chuyến đi này khá lâu, khoảng 3 tuần lễ hoặc hơn và không biết anh có về kịp vào lễ Giáng Sinh hay không. Em đừng buồn, đừng trách anh vì sao đi lâu vậy mà không nói cho em biết. Lúc chiều, anh không dám nói vì anh sợ buổi chiều cuối cùng của hai đứa mình sẽ trở nên buồn tẻ. Anh tính chờ khi lên giường rồi nói nhưng nhìn thấy em ngủ ngon lành như một đứa trẻ, anh lại đổi ý vì sợ em lại giật mình lo lắng suốt đêm. Anh đã làm khổ em quá nhiều, cho nên, anh muốn em có được một buổi tối an bình bên anh trước khi anh ra đi. Đừng buồn anh nhé, ráng hiểu cho anh.

Và đừng khóc, Diễm ạ. Cũng đừng đay nghiến anh, tội nghiệp anh.
Diễm ạ, lý do anh viết lá thư này vì có một chuyện rất quan trọng anh muốn nói từ khi hai đứa mình mới quen nhau nhưng anh chưa hề dám. Bây giờ, nếu em cho phép, anh xin mượn trang giấy này để giãi bày: Đó là chuyện đời anh...
Từ hồi còn nhỏ đi học, đọc các bài thơ của các thi sĩ ca ngợi tình yêu, anh thấy tình yêu đẹp thật và thường ngồi mơ mộng hàng giờ. Anh mơ ước sau này lớn lên anh sẽ yêu và sẽ nếm được mùi vị của tình yêu.

Chuyện đó bình thường quá phải không em, ai lớn lên mà chẳng mơ ước được như vậy? Nhưng để anh kể tiếp...

Thế mà lớn lên, khi anh bắt đầu biết chải đầu cho láng, biết ủi quần áo cho thẳng để đi học thì lệnh đôn quân, lệnh bắt lính, lệnh gọi nhập ngũ ào ào đổ xuống đầu bọn anh. Bọn anh học ngày học đêm, học phờ cả mặt mày để đuổi theo cái tờ giấy hoãn dịch cứ lơ lửng ở trước mặt vào mỗi dịp bãi trường. Học ở trường ban ngày xong ra lại lọc cọc đạp xe đi học cour thêm, rồi về nhà chong đèn đến khuya để làm bài. Vừa học vừa đập muỗi chí chóe...

Nhiều đêm, học mệt đừ, nằm vắt tay trên trán, anh cũng không thể tránh khỏi những thèm muốn rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của người con trai ở tuổi mới lớn. Anh thèm xiết bao một bàn tay, một đôi môi, một giọng nói ngọt ngào, một lá thư với dòng chữ mềm mại nghiêng nghiêng... Nếu đất nước mình thanh bình, nếu nhân loại không bị họa Cộng sản, thì những mơ ước ấy thật là đơn giản và dễ dàng, nhưng, với bọn anh lúc đó, những chuyện tự nhiên ấy đã trở thành khó khăn diệu vợi.

Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy giựt mình. Thật chưa có một thệ hệ tuổi trẻ nào bị thiệt thòi nhiều bằng tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Chẳng ai có một tí thì giờ nào để dành cho tình yêu cả.

Bọn anh học đến sì khói ra như thế mà cứ mỗi độ hè về thì thấy lớp học cứ vơi đi một cách đáng ngại. Thằng khoác áo đi Thủ Đức, đứa hành trang ra Nha Trang Đồng Đế. Bạn bè anh, có khi từng đứa, có khi từng nhóm một, lẳng lặng lên đường ra đi đáp lời sông núi. Tuy thân thiết nhau lắm nhưng những thằng ở lại không có thì giờ để nghĩ đến những kẻ ra đi. Bọn anh còn hàng trăm thứ khác phải lo nếu không muốn "noi gương" chúng nó vào mùa hè năm sau. Anh nhớ, ngày coi bảng đậu trung học xong thì bọn anh còn nghỉ được một tháng để vi vút nhưng coi bảng Tú Tài I xong thì chẳng có được một ngày nghỉ, phải lo mượn sách Đệ Nhất để gạo và chuẩn bị thi tú tài 2 ngay từ mùa hè năm ấy liền.

Nhờ cần cù học ngày học đêm, anh lọt qua nhiều cửa ải cho đến năm Đệ Nhất...
Ôi cuộc đời mình thật có nhiều cái bất ngờ. Năm đó, vào lúc anh tưởng mình là một trong những người may mắn nhất còn lại thì tấm bi kịch của đời anh mới bắt đầu. Em đừng cười. Anh bị gia đình bắt đi... lấy vợ. Chuyện thật là khó tin nhưng nó đã xảy ra ở thế kỷ 20 này.

Một buổi sáng thứ bảy, ông nội dắt anh đi ăn sáng. Ngồi trong tiệm phở, ông anh đưa cho anh coi một tấm hình của một người con gái... xấu ỉn. Rồi ông bảo hai gia đình đã đồng ý cho bọn anh lấy nhau, ăn xong chở ông đi may quần áo cưới rồi lên nhà đàng gái để hai đứa làm quen nhau.
Mới đầu, anh tưởng ông nội anh đùa. Anh là con trai, có học thức và lại đang sống ở thế kỷ 20, đâu phải là cô Loan trong Đoạn Tuyệt của thế Kỷ 19? Ông anh lắc đầu bảo chuyện thật đấy, không đùa đâu. Anh phản đối dữ dội. Ông anh chẳng nói chẳng rằng, bỏ đũa đứng lên bảo: "Con cháu bất hiếu như thế thì tao đâm đầu vào xe tao chết đi chứ sống làm gì." Rồi ông bỏ chạy ra ngoài, cứ đòi đâm đầu vào cái dòng xe cộ đang đi lại như mắc cửi ở đường Trương Minh Giảng. Anh phải can mãi mới được.

Tối về nhà, anh nói chuyện với bố, bố anh bảo: "Tao cực khổ suốt một đời nuôi mày khôn lớn, mày chưa làm gì đền đáp bây giờ lại cãi tao à? Nhà người ta cũng là chỗ môn đăng hộ đối chứ có phải cùi hủi gì đâu." Anh bảo: "Con không dám cãi thầy nhưng con còn đang đi học, con chưa nghĩ đến chuyện ấy." Bố anh lại bảo: "Lấy vợ về học cũng được. Ý tao đã quyết mày đừng có gàn dở."
Mãi sau này anh mới biết là anh được "gả" để trừ đi số nợ nhà còn thiếu người ta hồi ở miền Bắc.
Anh buồn khổ đến sinh bệnh nhưng chẳng tìm được một lối thoát nào cho mình cả. Anh đành phải "vâng lệnh song thân" mà lấy vợ như người ta thường đề trong mấy cái thiệp cưới.

Lúc đứng làm lễ tế gia tiên, anh dâng hương mà không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt cứ trào ra, anh sụt sùi khóc. (Vợ anh thấy thế liền bắt chước khóc theo, và còn khóc to hơn cả anh nữa.) Anh khấn rằng: "Ông bà tổ tiên linh thiêng về đây chứng giám cho con. Đạo làm trai của người Việt là Trung và Hiếu. Con đã vâng lệnh song thân lấy vợ để làm tròn chữ Hiếu. Lấy vợ xong, con sẽ đi lính để giữ trọn chữ Trung."

Tiệc cưới to lớn, ai nấy mặt mày hả hê sung sướng. Riêng anh, anh có cảm giác như bài thơ của đời mình mới làm được hai câu, chưa kịp đọc lại thì bị một bàn tay vô hình nào xé toạc mảnh giấy ấy vất đi. Anh nhìn hai họ vui cười mà mơ ước được vui vẻ như họ. Tàn tiệc, bố anh đến bên anh, vỗ vai anh bảo: "Rồi mày sẽ quen đi con ạ." Cho đến bây giờ, anh vẫn không thể nào quên được câu nói ấy.
Rồi anh đi lính. Rồi anh gặp em...
Mới đầu, gặp em, anh chỉ muốn đùa một tí với em nhưng không ngờ anh yêu em thật. Đây là lần đầu tiên anh khám phá ra sự tuyệt vời của tình yêu. Nhờ tình yêu mà thế giới này tồn tại được, thi sĩ làm thơ được, người thợ mộc đóng bàn ghế được, thầy giáo dạy học được v.v... Anh biết yêu trễ đến hơn 10 năm nhưng anh cảm ơn trời đã cho anh biết được mùi vị của tình yêu. Tuyệt vời lắm. Mỗi lần nhìn em, anh quên hết. Quên chiến tranh, quên hận thù, quên luôn cả tấm bi kịch của đời mình nữa để chỉ nghĩ đến em.
Diễm yêu dấu,
Bây giờ là 2 giờ sáng rồi. Anh vừa kể lại chuyện đời mình cho em nghe, không phải để chạy tội, không phải để em thương xót mà để chứng tỏ tấm lòng của. Dù tốt hay dù xấu thì anh cũng là nạn nhân. Anh hiểu trách nhiệm nặng nề của mình đối với em và anh đã có một quyết định dứt khoát: Xong chuyến công tác này trở về, anh sẽ dắt em về nhà nói với bố mẹ anh là anh là đã yêu em, đã có con với em và sẽ ly dị vợ anh để cưới em.

Em có tin không? Nếu bố mẹ anh không chịu, anh vẫn cưới em như thường. Sau 6 năm ở lính, anh học được một điều quan trọng: Con người ta chỉ sống có một lần, cho nên, đừng để bố mẹ hay bất kỳ ai sống giùm mình cuộc đời mình.
Thôi, anh dừng bút. Nhớ đừng khóc, đừng buồn và ráng ăn thật nhiều. Anh đi chuyến này là để kiếm một món quà vô giá tặng thành phố Ban Mê Thuột. Anh không tiện nói ra bây giờ nhưng anh sẽ nói khi anh trở về. Và anh sẽ về trước lễ Giáng Sinh. Anh hứa.
Yêu em,
Anh...
* * *
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú gấp tập hồ sơ lại để trên bàn họp rồi đứng lên tiếng gần tới tấm bản đồ sau lưng. Ngồi dài theo hai bên dãy bàn họp trước mặt ông là 4 ông tướng: Tư lệnh phó Quân đoàn, Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 bộ binh, ông tướng Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân và khoảng 25 ông tá, toàn là sĩ quan tham mưu của quân đoàn II. Ai nấy nghiêm trọng nhìn lên chờ nghe tướng Phú.
Tướng Phú vỗ cây gậy chỉ huy trong tay rồi nói:
-Cách đây hơn tuần, tôi được thông báo của phòng II quân đoàn là họ phát hiện được một lực lượng khá đông quân số của các sư đoàn 320 và 968 ở phía Tây và phía Nam Pleiku, sư đoàn 10, sư đoàn 316 và sư đoàn 968 chính quy Bắc Việt ở mật khu Bù Gia Mập. Thêm vào đó, còn trung đoàn 3 cao xạ nặng, 1 trung đoàn pháo nặng và 1 trung đoàn xe tăng cũng ở khu Bù Gia Mập.
Cả phòng họp... nín thở. Nét ưu tư hiện rõ trên từng khuôn mặt của mỗi vị sĩ quan. Tướng Phú liếc nhìn đại tá Phùng rồi tiếp:
-Để xác nhận tất cả chuyện này, tuần trước, tôi cho Lôi Hổ mình nhảy xuống phía bắc của KonTum và xuống Bù Gia Mập để "tìm hiểu." Anh em Lôi Hổ đã bắt được nhiều tù binh và đã xác nhận được tất cả chuyện này. Những tin tình báo mới nhất của phòng II cũng tái xác nhận chuyện này, và không ảnh của Không quân cũng xác nhận. Đây là một bất ngờ đối với tôi...
Tướng Phú ngừng nói và nhăn mặt lại. Rồi ông chỉ cây gậy vào mật khu Bù Gia Mập:
-Điều khó hiểu hơn cả là tại sao chúng nó lại ở đây?
Ông lại... nhăn mặt, lắc đầu nói tiếp:
-Đây là câu hỏi nằm trong gan trong ruột tôi suốt tuần lễ qua. Chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay đánh Quảng Đức? Hay chúng nó không đánh cả hai mà chỉ muốn lừa mình để đánh Pleiku? Nói về sự kiện thì chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột hay Quảng Đức, còn theo sự suy luận của tôi thì Ban Mê Thuột hay Quảng Đức chỉ là diện, còn Pleiku mới là điểm...
Tướng phú tiến trở lại bàn họp, bỏ cây can lên bàn, ngồi xuống mồi điếu thuốc:
-Bon. Tôi mời anh em tới đây để thảo luận vấn đề này. Vậy thì, anh em có ý kiến gì, cứ tự nhiên trình bày...

Chỉ chờ có thế là cả phòng họp có nhiều bàn tay dơ lên xin phát biểu liền. Ai cũng muốn cho tướng Phú thấy cái tài kinh luân của mình. Tướng Phú chỉ từng người một để cho ý kiến. Ai nói sao ông cũng gật đầu nhưng chỉ trả lời rất ít.
Khoảng một tiếng sau, tướng Phú dơ tay làm dấu cho mọi người im lặng. Ông đứng lên bục gỗ:
-Cám ơn các anh em đã bàn thảo thật sôi nổi và hào hứng. Bây giờ tôi quyết định như thế này. Trước hết, tôi nhờ Tham mưu trưởng quân đoàn gọi điện thoại cho tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, và tỉnh trưởng Quảng Đức bảo hai ông này ngày mai đem hết sơ đồ cùng kế hoạch phòng thủ mới nhất của tiểu khu mình lên đây gặp tôi. Tôi muốn biết rõ chi tiết từng viên đạn và từng trái mìn, từng vị trí của các đơn vị phòng thủ.
-Nhận rõ thiếu tướng.
Tướng Phú chỉ cây gậy vào bản đồ:
-Anh Thịnh, anh cho một thành phần của thằng 45 (Trung đoàn 45, sư đoàn 23 bộ binh) của anh hành quân lục soát từ chỗ này, phía Nam của Đức Lập về tới phía Bắc của Quảng Đức cho tôi. Đồng thời, cho một thành phần của thằng 53 (Tr/Đ 53/SĐ 23 BB) cũng hành quân lục soát từ Ban Mê Thuột về hướng Nam. Tướng Nhân Không Quân lo đầy đủ trực thăng để vận chuyện hai toán quân này nội trong ngày mai.
-Nhận rõ Thiếu tướng
-Nhận rõ.
-Anh Tài, anh cho thằng 21 Biệt Động của anh di chuyển gấp về án ngữ ở phía Nam Ban Mê Thuột, ngay chỗ này để làm trừ bị cho tụi 23 bộ binh.
-Nhận rõ...
-Anh Viễn, về phía Bắc KonTum, anh cho thằng...
Tướng Phú ra lệnh và chỉ thị một thôi không ngừng nghĩ. Đại tá Phùng nhìn ông Khiếu trao đổi một cái nhìn thỏa mãn. Cuối cùng, ông tướng có vẻ bắt đầu nghĩ tới Ban Mê Thuột rồi. Tuy nhiên, đại tá Phùng biết, ông tướng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Ở địa vị ông, ông phải thận trọng để điều quân đi thăm dò như vậy. Tướng Phú ra lệnh "một phần của trung đoàn" tức là 1 hoặc 2 tiểu đoàn. Phần còn lại ông vẫn còn muốn bố trí để giữ Pleiku. Theo ông, chỉ có Pleiku mới quan trọng thôi, còn ngoài ra đều có thể cứu được hết. Kể cả Ban Mê Thuột, kể cả Quảng Đức. Tuy nhiên, Đại tá Phùng cùng Trung Tá Khiếu đã liệu trước việc này. Hai người sẽ có trưng bằng chứng cho tướng Phú biết về ý đồ của Cộng Sản.
Và tất cả chuyện quan trọng này đều nằm trong tay một sĩ quan Biệt Kích tài giỏi của ông: Đại Úy Huân. Phải, chỉ có Đại úy Huân mới cứu Ban Mê Thuột được.
* * *
Khi chiếc trực thăng chở toán của Huân đáp xuống bãi đậu của Chiến đoàn, chàng chẳng ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy, ngoài đại tá Phùng cùng toàn bộ ban tham mưu của chiến đoàn ra đón còn có cả có cả Thiếu Tướng Khấn, Tư lệnh phò Quân đoàn II và ít nhất là 3 ông Đại tá khác của Quân đoàn. Huân hiểu những gì nằm trong chiếc máy hình và những gì chàng ghi nhận được suốt 20 ngày qua trong mật khu Bù Gia Mập sẽ có một giá trị to lớn mà không ai có thể ước lượng được. Nhưng Huân không có thì giờ để suy nghĩ nhiều. Đầu óc chàng đang bận rộn để chuẩn bị cho bài thuyết trình về chuyến công tác vừa qua của chàng.
Huân thò tay ra bắt hai người phi công trực thăng rồi nhảy xuống. Đại Tá Phùng dơ tay đáp lễ cái chào của Huân rồi giới thiệu chàng với ông tướng và mấy sĩ quan cấp tá của Quân Đoàn. Huân chào họ và đón nhận những cái bắt tay vồn vã và những cái nhìn thán phục.
Một tay bắt tay Huân, tay kia nắm lấy vai chàng, Đại tá Phùng nói:
-Chúc mừng anh. Kết quả sơ khởi mà tôi nghe được rất là khích lệ, lát nữa mình nói nhiều.
Đại tá Phùng quay nhìn ông tướng Tư Lệnh Phó:
-Kính mời Thiếu tướng cùng phái đoàn vào Câu Lạc Bộ dùng cơm trưa, chừng nửa tiếng nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng họp Chiến đoàn để thuyết trình cho Thiếu tướng cùng quý vị.
Phái đoàn ông tướng bước về phía Câu Lạc Bộ. Đại tá Phùng phóng lên chiếc xe díp, Huân leo lên ngồi bên cạnh, ông Trung tá Khiếu cũng leo lên ngồi phía sau. Đại tá Phùng chưa kịp đề máy xe thì Huân đã hỏi liền:
-Đại tá... cho xin điếu thuốc.
-À, xin lỗi, tôi quên... Anh giữ nguyên cả gói mà hút.
Huân nhận gói CAPSTAN còn đầy từ tay người chỉ huy trưởng, kẹp một điếu vào môi rồi chẳng cần khách sáo, thản nhiên bỏ nguyên gói thuốc vào túi áo mình. 20 ngày qua trong rừng rậm, không biết bao nhiêu lần Huân mơ ước chỉ được cầm một điếu thuốc lá trong tay như thế này.
Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng cái bật lửa. Chiếc xe phóng vút đi. Ông Phùng cố gắng để giữ cho giọng mình được bình tĩnh để hỏi câu hỏi quan trọng nhất của chuyến công tác:
-Ban Mê Thuột hay Pleiku?
Huân mỉm cười, chưa thèm trả lời vội. Chàng hít thêm một hơi thuốc lá cho đầy hai buồng phổi, rồi mới đủng đỉnh trả lời qua làn khói:
-Ban Mê Thuột!
Đại tá Phùng nghiến răng sang số xe thật mạnh như muốn bộc lộ một sự giận dữ nào đó:
-Chắc không?
-Chắc như bắp Đại tá. Không trúng tôi nghĩ ăn lương chính phủ.
Đại tá Phùng tiếp tục nhăn mặt lại nhưng Trung tá Khiếu lại gật gù cái đầu:
-Quả đúng y như bọn mình dự đoán.
Chiếc xe díp thắng lại trước ban II của Chiến đoàn. Một người sĩ quan chạy vội ra như đã chờ đợi sẵn từ lâu. Huân đưa cho anh ta hai cái máy hình và cái túi đựng tài liệu cùng phim ảnh của chuyến công tác. Đại tá Phùng hỏi người sĩ quan:
-Nửa tiếng xong không?
Vị sĩ quan gật đầu:
-Thưa hình thì chúng tôi sẽ rửa được nhưng sẽ còn hơi ướt. Về tài liệu thì chúng tôi chỉ phối kiểm những tin quan trọng trước thôi.
-Tốt. Hình ướt cũng được. Phần tin tức thì giải trình được bao nhiêu đem hết sang tôi liền.
Chiếc xe lại lao vút đi. Huân mồi điếu thuốc thứ hai. Ba người sĩ quan bước vào phòng giải trình của Chiến đoàn. Đại tá Huân mở tủ lạnh, khui cho mỗi người một chai bia 33:
-Ăn mừng. Phải ăn mừng chuyến công tác này mới được.
Huân ngửa cổ tu một hớp bia. Tiên sư, trên đời sao lại có những thứ thức uống ngon đến như vậy nhỉ? Âu đây cũng là một phần thưởng trời dành cho những người lính như chàng. Ở trong rừng gần một tháng không được uống bia, không được hút thuốc, lúc cầm lại điếu thuốc hay chai bia mới thấy giá trị của nó và mới thấy được làm người, được... uống bia hút thuốc, được hít thở khí trời tự do quả thật là thú. Chàng lắc lắc chai bia trong tay rồi lại đưa lên cao. Lần này Huân uống hết sạch. Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng một chai nữa.
"Cám ơn Đại tá" Huân nói rồi từ từ tiến tới tấm bản đồ treo trên tường, cầm cây thước trong tay để chuẩn bị phần giải trình nhưng ông Phùng đã gạt đi:
-Khỏi, cứ ngồi xuống đây, chờ lát nữa sang thuyết trình với ông Tướng anh trình bày cặn kẽ luôn cũng được.
Xong ngay, đại tá muốn vậy thì đỡ mất thì giờ với phần thủ tục. Ông chiến đoàn trưởng đi thẳng vào vấn đề:
-Tóm tắt, chuyện gì làm anh quả quyết là chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột?
-Sa bàn.
-Sa bàn thành phố Ban Mê Thuột?
-Đúng. Chỗ chúng tôi nằm là khu tập trung không phải của tụi 316 mà của trung đoàn 95 B.
Đại tá Phùng nhìn Trung tá Khiếu. Ông Khiếu gật đầu như xác nhận sự xuất hiện đó là đúng.
-Chúng nó tập trận liên miên cả tuần lễ. Riêng tiểu đoàn gần tôi nhất thì chúng nó thực tập đánh cổng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
-Sao anh biết đó là cổng trước của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23?
-Tôi ở Ban Mê Thuột này gần năm rồi. Đường đi vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 có cái cái công viên, bên cạnh công viên là cái nhà thờ Quân Đội... Chúng nó có cả hình dáng cái nhà thờ này. Lát nữa hình rửa xong đại tá sẽ thấy...
-Về cái sa bàn của thành phố, anh thấy ở đâu?
-Trong phòng họp của bộ chỉ huy Trung Đoàn. Tôi chụp được hình ảnh đầy đủ, lát nữa đại tá sẽ thấy.
-Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?
-Chúng tôi phát giác và nghe lóm được đường dây điện thoại giữa trung đoàn và sư đoàn, tôi có ghi lại nhiều chi tiết. Lát nữa phòng II đưa qua trung tá sẽ thấy...
Đại tá Phùng thở dài, mồi điếu thuốc. Ông quay sang Trung Tá Khiếu:
-Anh Khiếu có gì hỏi không?
-Thưa có!
-Mời Trung Tá tự nhiên...
-Trước hết, tôi xin cám ơn và chúc mình anh về chuyến công tác đầy cam go. Chiều nay tôi và đại tá Phùng sẽ tháp tùng tướng Khấn về Pleiku để gặp tướng Phú liền. Thực ra bọn tôi đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, nhưng kẹt một cái là ông tướng Phú... Anh biết, ông Tướng có vẻ không tin tưởng những tin tức tình báo của chúng ta đưa lên lắm... Ngoài những gì anh nói, anh nghĩ anh có tấm hình hay bằng chứng nào để tôi có thể thuyết phục được tướng Phú không?
Tự nhiên, Huân bỗng nỗi giận. Mình và lính vừa lội vừa nằm gần đúng 20 ngày trong lòng đất địch, sự sống như treo chỉ mành hằng ngày để khám phá ra cái tin tức quý giá này đem về. Nhưng như vậy chưa đủ, ở trên còn muốn mình phải tìm cách chứng mình hay thuyết phục họ. Chuyện đánh Việt Cộng là chuyện của ai nhỉ? Khôi hài thật. Chẳng khác gì một nhà buôn ngọc, sau khi tìm ra viên ngọc quý, không đem bán mà lại đem cho, nhưng trước khi cho người ta còn phải mất công thuyết phục người nhận ngọc đó là viên ngọc thật...
Chàng nhìn Trung Tá Khiếu:
-Thưa Trung tá, tôi được giao một bổn phận và đã làm xong, những gì còn lại như vấn đề ở trên có tin hay không không thuộc thẩm quyền của tôi.
Trung tá Khiếu gật gù cái đầu ra dấu thông cảm.
Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa rồi vị sĩ quan phòng phim ảnh của Chiến đoàn xuất hiện với một núi hình ảnh trên tay. Mặt mày anh ta vừa hớn hở vừa... tái mét, nhìn đại tá Phùng nói nhưng giọng lạc đi vì xúc động:
-Tụi mình phải cho vợ con đi khỏi Ban Mê Thuột này càng sớm càng tốt Đại Tá ơi. Em coi mấy tấm hình chụp em muốn lạnh gáy...
** *
Huân và Diễm tối hôm ấy lại trở về ngồi trên chiếc ghế đá công viên của thành phố Ban Mê Thuột. Ngay trên chiếc ghế cũ mà hai người đã ngồi ngày mới quen nhau. Chỉ khác hơn là, lần này họ ngồi sát nhau, cùng nhìn về hướng ánh đèn sao chổi sáng lừng từ cái tháp chuông của Nhà Thờ Quân Đội ở bên kia đường chiếu ra...
Tự nhiên, Huân hỏi:
-Em biết nhà thờ đó tên là gì không?
-Không!
-Vậy là em thua anh rồi. Đó gọi là nhà thờ Quân Đội.
-Ừ. Anh đi đạo lúc nào mà rành quá vậy?
-Không đi nhưng anh biết. Em biết đằng sau ánh đèn sao chổi đó là gì không?
Diễm co ro vì lạnh, áp người thật chặt vào lưng Huân:
-Không...
Huân lại nhớ đến cái sa bàn của Việt Cộng ở trong mật khu Bù Gia Mập. Theo đúng kế hoạch, khu vực này được giao cho trung đoàn 95 B và một đại đội xe tăng. Sau cỡ 5 ngàn trái pháo, chúng nó sẽ đi diễn hành trên quốc lộ mà vào, làm một mũi dùi chính đánh thẳng vào đây để nuốt gọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Huân nhăn mặt:
-Là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Diễm cười rất vô tư:
-Tưởng chuyện gì, anh thì lúc nào cũng hết Bộ Tư Lệnh rồi đến Bộ Chỉ Huy... Ở bên em anh tạm quên mấy thứ đó đi có được không?
Huân đốt điếu thuốc lá, lòng se lại khi nghĩ đến vùng đất hiền hòa này sẽ trở thành một bãi chiến trường đẫm máu nay mai. Chàng thấy thương cho Diễm cũng như cho tất cả những người dân của cái thành phố này.
Diễm cầm tay Huân:
-Quên chuyện đó đi anh, anh viết thư hay lắm, cứ như văn sĩ.
Huân cười:
-Ở gần một người đẹp như em mà không trở thành văn sĩ thì thật là bất lịch sự và ngu xuẩn. Mà này, nói thật đi, sáng hôm ấy em có khóc không?
-Có.
-Anh cũng đoán vậy.
Rồi Huân đứng lên:
-Em muốn đi bách bộ một lát không?
-Đi thì đi.
Hai người đi bên cạnh nhau. Diễm cúi đầu đến bước, quàng hai tay qua tay Huân. Huân thọc hai tay vào túi, cứ ngước mặt lên nhìn cái sao chổi làm bằng mấy trăm cái bóng đèn chạy dài từ trên tháp chuông xuống. Tới cuối công viên, Huân rủ:
-Mình đi bộ qua nhà thờ chơi..
-Ý kiến hay!
Vừa băng qua đường, Huân nghe được tiếng tập hát từ trong nhà thờ vọng ra: "Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa..." Huân hỏi:
-Mau quá, tối ngày mốt là Noel rồi nhỉ?
Huân dừng bước trước hang đá Đức Mẹ trước nhà thờ, hỏi Diễm:
-Em biết cầu kinh không?
Diễm lắc đầu:
-Không nhưng trông bà ấy đẹp và hiền hậu ghê nhỉ? Em nghĩ ai đến cầu bà này điều gì bà ấy cũng cho hết. Bả hiền quá.
-Vậy thì em cầu thử đi.
-Anh phải cầu với em.
-Ừ. Nhưng phải bỏ tay anh ra và đứng nghiêm trang lại, chắp lên ngực như cái ông đang đứng đàng trước em kia kìa.
Hai người chấp tay. Diễm lẩm bẩm mấy lời cầu rồi cúi đầu vái mấy cái. Huân cười, bảo:
-Đừng có vái, người ta cười. Ở đây em thấy có ai vái đâu?
Diễm vẫn tiếp tục vái và nói:
-Ai cười mặc họ, Diễm muốn tỏ lòng tôn kính. Cầu mà không vái thì mất linh đi.
Hai người đi dạo một vòng rồi trở về công viên. Huân hỏi:
-Lúc nãy em cầu gì vậy?
-Cầu cho hai đứa mình được nên duyên vợ chồng. Em lo quá.
Huân cười:
-Muốn nên duyên vợ chồng thì em phải cầu cho vợ anh nó... trúng gió chết.
-Anh chỉ nói bậy. Những gì anh nói trong thư có thật không anh?
-Thật, thật lắm.
-Còn anh, lúc nãy anh cầu gì vậy?
-Cũng cầu như em nhưng anh có thêm một lời cầu đặc biệt...
Huân bỏ lửng câu nói, đứng lại cầm tay Diễm:
-Diễm, em nghe cho kỹ đây. Sau Noel, anh muốn em và má dọn hết đồ đạc về Nha Trang ở tạm một thời gian...
Diễm sững sờ:
-Sao vậy anh?
Huân kéo Diễm ngồi xuống ghế, nói thật chậm, thật rõ ràng và thật tha thiết:
-Những gì anh sắp nói, em phải thề giữ tuyệt đối bí mật.
-Mà chuyện gì vậy... rồi, em hứa
-Em có biết chuyến đi công tác 20 ngày vừa rồi của anh không?
-Sao?
-Anh biết được một chuyện rất quan trọng. Việt Cộng đã đem 4 sư đoàn vào đây để chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.
Một cái tin động trời như vậy, cái tin làm cho cả quân đoàn II từ ông tướng Phú xuống đến anh lính hạng bét mất ăn mất ngủ mà với Diễm thì chẳng có nghĩa lý gì. Đánh nhau thì hai bên ngày nào lại chẳng đánh, sao lại lo sợ vậy nhỉ? Giọng Diễm vẫn tỉnh bơ, chẳng có chút gì hốt hoảng hay sợ hãi:
-4 sư đoàn là nhiều lính không anh?
Huân lắc đầu chán nản. Hình như lúc trời sinh ra đàn bà, ngài quên nhét vào đó một chút óc nhà binh. Huân kiên nhẫn giải thích:
-4 sư đoàn là cỡ vài chục ngàn thằng lính bộ đội. Mỗi thằng một cây AK. Khi vào đây rồi, chúng nó sẽ tàn phá, sẽ bắn giết, sẽ cày nát cái thành phố thơ -ộng này ra như cám hoặc trước tết hoặc sau tết.
Diễm tròn mắt:
-Anh nói thật?
À, thế này thì có ép phê rồi. Huân tiếp tục:
-Chưa bao giờ thật bằng. Em tưởng tượng đi, hai chục ngàn thằng lính vào đây, mỗi thằng chỉ cần bắn một phát thôi thì Ban Mê Thuột cũng đủ tan hoang. Đó là chưa nói tới xe tăng, chưa nói tới đại pháo... Vì vậy cho nên lời cầu đặc biệt của anh lúc nãy là cầu cho Ban Mê Thuột, cầu cho thành phố yêu dấu này. Cầu cho ông tướng Phú được sáng suốt để đỡ trận này. Nhưng quan trọng nhất là em và mẹ phải đi khỏi nơi đây. Đi liền càng sớm cáng tốt. Đang thai nghén như em, ở lại đây không tiện chút nào hết.
Giọng của Diễm trở nên hơi gay gắt, nhưng Huân chưa để ý đến:
-Anh muốn em đi. Nhưng còn chuyện thành hôn của hai đứa mình như anh nói trong thư thì thế nào?
-Mình không còn thì giờ nữa! Nội trong tuần tới, em và má phải thu xếp cho xong đồ đạc và dọn đi liền.
Nói xong thì Huân đọc ngay được vẻ bất mãn trong đôi mắt Diễm. Hình như đã có chút nước mắt trong đó rồi. Giọng nàng như cố giấu một nỗi chua xót trong lòng:
-Em thì sao cũng được, nhưng má em chắc không chịu đi đâu...
Huân nắm tay Diễm:
-Em phải bắt má đi.
Diễm hất tay Huân ra, quay nhìn đi nơi khác để che giấu một giọt nước mắt:
-Má em cứng đầu lắm...
Huân lại nắm tay Diễm. Diễm lại hất tay chàng ra. Rồi quay lại nhìn Huân, hai hàng nước mắt chảy dài trên má:
-Anh Huân, nếu anh đổi ý, không muốn cưới Diễm nữa thì cũng được, anh cần gì phải bày vẽ 3 sư đoàn với 4 sư đoàn Việt Cộng làm gì. Chẳng thà anh nói thật đi, Diễm thông cảm anh. Diễm tha thứ cho anh. Dù sao, Diễm cũng chỉ là người đến sau... Diễm biết thân phận mình, Diễm không có quyền...
Huân tròn cặp mắt lại:
-Diễm, em nói gì vậy?
Diễm nghẹn ngào, vừa nói vừa khóc:
-Diễm nói anh muốn cưới Diễm thì cưới, còn không thì cứ việc đi đi, không ai giữ anh đâu. Làm gì phải đem Việt Cộng vào đây mà dọa nhau...
Rồi nàng đứng dậy bỏ đi mau như chạy. Huân bước mau theo và thấy cổ họng mình muốn tắt nghẹn. Trời cao có mắt về đây chứng giám cho thằng Huân này.
Huân bắt kịp Diễm, níu lấy tay nàng. Diễm lại hất ra. Nước mắt tiếp tục chảy đầm đìa trên mặt nàng. Huân khổ sở:
-Diễm, em phải hiểu. Anh thương em nhất trên đời này.
-Tôi không cần. Anh về với vợ anh đi. Anh đi đi, và đừng bao giờ trở lại đây gặp tôi nữa. Con tôi, tôi sẽ nuôi được. Nếu tôi đẻ con gái, tôi sẽ cấm nó tuyệt đối không được quen với lính, không được yêu lính, nhất là thứ lính... Lôi Hổ... con cọp bạc tình bạc nghĩa như anh...
-Diễm, anh năn nỉ em... Em nghĩ lại, lòng anh, em biết...
-Tôi không cần thứ lòng đó. Anh bảo anh đi công tác 20 ngày. Anh về Sài Gòn với vợ anh 20 ngày chứ công tác gì. Anh sợ trách nhiệm, sợ nuôi con, muốn dứt tình thì cứ nói, việc gì phải đem Việt Cộng vào tận Ban Mê Thuột để dọa mẹ con tôi...
Huân thấy trời đất quay cuồng chung quanh mình. Chàng đứng sững người lại làm như nếu bước thêm một bước nữa thì sẽ nhào xuống liền tức thì. Rồi đột nhiên, chàng nổi giận. 20 ngày công tác đói rét nguy hiểm trong rừng, một trái tim rướm máu vì tình yêu, một tuổi thơ đầy dẫy bi kịch và chưa hề được yêu, được sống như một người bỗng bùng dậy trong lòng người đại úy Lôi Hổ trẻ tuổi...
Huân chạy theo nắm lấy tay Diễm kéo lại thật mạnh. Diễm mất đà khựng người lại, cả cánh tay đau nhói lên vì bị cú kéo ngược bất ngờ quá đau. Nàng kêu lên một tiếng kêu đau đớn, loạng choạng mất thăng bằng. Huân đỡ được nàng ngã vào lòng mình. Chàng giữ chặt lấy Diễm.
Nhìn những giọt nước mắt trên mặt Diễm, lòng Huân lại mềm ra. Diễm dùng hết sức để xô Huân ra và đay nghiến:
-Anh cứ việc giết tôi đi. Sao anh không giết tôi đi? Anh giết người quen rồi, anh cứ việc giết tôi đi...
Rồi Diễm khóc lên nức nở. Huân ghì chặt lấy Diễm, lắp bắp:
-Không, Diễm, anh yêu em, anh yêu em... Em đừng nói thế... anh yêu em... Anh xin lỗi...
Diễm toan đay nghiến nữa nhưng bỗng im bặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt và trên má chàng. Nàng ngạc nhiên lắm. Không ngờ ông đại úy dày dạn phong sương này cũng khóc được.
Huân ôm lấy Diễm, tha thiết nói như một người trong tận cùng của sự thống khổ:
-Diễm, anh yêu em... Anh yêu em... Anh xin lỗi...
Diễm không trả lời, luồn tay vào tóc Huân, kéo đầu chàng xuống, đặt lên đôi mắt u buồn ướt lệ ấy một cái hôn.
Nàng biết, biết từ lâu rằng Huân yêu mình thật...
* * *
Tướng Phú ngừng nói. Phòng họp Bộ Tham Mưu Quân Đoàn im lặng như tờ. Ông nhìn cả phòng họp một lúc rồi tiếp tục:
-Như vậy, tất cả những thắc mắc của tôi đã được giải đáp thỏa đáng... Và câu trả lời đã trở nên rõ ràng như ban ngày: Chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột...
Đến đó, tướng Phú ngừng nói và bỗng bật lên một cơn ho sụ sụ. Lát sau, Tướng Phú lại hỏi khi dứt cơn ho:
-Có ai thắc mắc gì hay có điểm gì không đồng ý với tôi không...
Không có tiếng trả lời.
-Bon, bây giờ tôi có thể an tâm để dồn hết sức lực chuẩn bị cho chiến trường Ban Mê Thuột. Tôi muốn phòng III trình cho tôi một kế hoạch phòng thủ toàn diện thành phố Ban Mê Thuột trong vòng 24 giờ đồng hồ. Kế hoạch các anh em làm, phải trả lời và đi sâu những chi tiết sau đây cho tôi:
Thứ nhất, mình có cách nào để ngăn chặn cuộc tổng tấn công điên cuồng này trước khi nó bắt đầu hay không? Hãy nghĩ đến lực lượng và những ưu điểm mà mình có trong tay, hoặc bằng Không quân, hoặc bằng bộ binh, hoặc bằng Pháo v.v... Hoặc giả, mình có thể kiếm một cái vùng giao tranh nào khác ngoài Ban Mê Thuột để ép chúng nó nhận làm chiến trường không?
Thứ hai, nếu không ngăn chặn được, mình phải bố trí lực lượng như thế nào để chuẩn bị đón đánh và tiêu diệt được 4 sư đoàn bộ, 2 trung đoàn địa phương, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn cao xạ nặng, 1 trung đoàn xe tăng và một tiểu đoàn đặc công của chúng. Anh em chớ quên một yếu tố quan trọng là bây giờ lá bài nằm trong tay mình. Mình đã biết đâu là điểm đâu là diện. Yếu tố bất ngờ đã mất, chúng nó đưa vào bao nhiêu thì mình sẽ nướng hết mấy nhiêu.
Thứ ba, tôi sẽ xin tăng viện từ Sài Gòn, anh em nghiên cứu cho tôi mình bao nhiêu lực lượng. Theo tôi nghĩ, mình phải được tăng cường ít nhất là 4 lữ đoàn Dù hoặc TQLC đang nằm nghỉ mát ở miền Trung. Các lực lượng trừ bị tinh nhuệ này hoặc sẽ làm búa tấn công chúng nó trước, hoặc sẽ làm đe để chận đường rút của chúng. Về Không Quân, tôi sẽ xin tăng cường 2 phi đoàn trực thăng và 2 phi đoàn khu trục. Tướng Nhân lo chỗ ăn ở cho 4 phi đoàn này và trình cho tôi một kế hoạch để sử dụng những lực lượng tăng phái này.

Thứ tư, quan trọng nhất, Việt cộng đã biết đánh nghi binh suốt mấy tháng qua để dụ mình thì mình cứ để cho nó... dụ. Đại tá Long Công binh cho tăng cường xây thật nhiều công sự phòng thủ ở Kontum, và anh Tài, anh cho 2 liên đoàn Biệt Động của anh cứ tiếp tục hành quân lục soát dữ dội ở phía bắc Dakto để cho chúng nó tưởng rằng nó dụ được mình. Tất cả các lực lượng đang hành quân lục soát ở phía Nam Ban Mê Thuột của Sư Đoàn 23 cho rút về hết để chờ lệnh mới.

Thứ năm, trong vòng một tuần lễ, các tiểu đoàn Địa Phương Quân của các tiểu khu Pleiku, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận sẽ trở thành lực lượng chính để bảo vệ lãnh thổ mình. Tôi sẽ đưa tất cả quân số của hai sư đoàn 22 và 23 và các liên đoàn Biệt Động Quân lên Ban Mê Thuột để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.
Thứ sáu, anh Vân cho bí mật thiết lập một bộ chỉ huy tiền phương của Quân Đoàn tại thành phố Ban Mê Thuột cho tôi. Chính tôi sẽ về đó để chỉ huy trận này...
Tướng Phú dừng lại ở đây một chút, rồi ông tiếp tục, mắt long lên:
-Mình sẽ thiết lập một lò thịt sống để chờ chúng nó. Mất 20 năm nhưng cuối cùng tôi vẫn trả thù được trận Điện Biên Phủ...
Ngồi xen lẫn với khoảng chừng 30 ông tá và 4 ông tướng ở phía dưới, mặt mũi Đại tá Phùng cùng Trung tá Khiếu trở nên rạng rỡ. Riêng đại tá Phùng, trong đầu ông vừa nẩy ra một ý nghĩ táo bạo khác. Khi lập kế hoạch, ông sẽ đề nghị tướng Phú cho Lôi Hổ nhảy xuống phía sau khu tập trung quân để hướng dẫn phi cơ oanh kích. Chỉ có Lôi Hổ bám sát chúng nó thì mới oanh kích chính xác được. Và không phải oanh kích ngay bây giờ mà chờ cho đến khi chúng nó sắp sửa tấn công, khi chúng nó tập trung quân số lại mới làm. Một trái bom thả ở giờ phút này có giá trị bằng mười trái bom lúc bình thường...

Buổi họp hôm ấy chấm dứt vào lúc 7 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1974. Sau buổi họp là buổi dạ tiệc và khiêu vũ Giáng Sinh do Quân Đoàn II khoản đãi. Tất cả mọi người,từ ông tướng Phú cho đến ông đại úy Quận Trưởng, ai nấy đều hả hê vui vẻ. Riêng Tướng Phú thì khỏi nói. Ông không ở lâu trong một nơi ngộp khói thuốc được nhưng chưa bao giờ có ai nhìn thấy ông vui vẻ như vậy kể từ lúc về nắm Quân Đoàn II. Trước khi ra về, ông đến vỗ vai đại tá Phùng:
-Toa hay lắm, moa cám ơn toa rất nhiều.
-Thưa Thiếu Tướng, tôi chỉ làm bổn phận.
-Très bien, xong trận này thì công của toa nhiều nhất đấy. À, đại úy Huân, moa định móc Thiếu Tá cho nó, toa nghĩ thế nào?
-Trình thiếu tướng, tôi cũng tính đề nghị với thiếu tướng như vậy. Nếu Thiếu tướng móc Thiếu tá cho Đại úy Huân, đề nghị thiếu tướng cho mỗi người trong toán lên một cấp luôn.
-Coi như xong, moa sẽ nhớ chuyện này. Thôi ở lại chơi vui vẻ... Joyeux Noel...
-Joyeux Noel Mon Général...
Đại tá Phùng đứng nghiêm chào. Tướng Phú cùng người sĩ quan tùy viên bước ra khỏi phòng. Cây gây chỉ huy trong tay ông ta đánh lên đánh xuống một cách trẻ trung và vui vẻ...
* * *
Sau chuyến công tác thành công, Huân được thưởng một tuần phép vào dịp lễ Giáng Sinh. Trước khi chia tay lên đường đi Pleiku họp với tướng Phú, đại tá Phùng gọi Huân vào văn phòng chúc mừng, vẻ mặt ông hân hoan, phấn khởi:
-Tướng Phú đã đồng ý với tụi mình rồi. Như vậy là Ban Mê Thuột sẽ giữ được. Công của anh trong vụ này sẽ không nhỏ.
Huân cũng không giấu được vẻ vui sướng trên nét mặt:
-Đó là công chung của chiến đoàn chứ đâu phải riêng gì tôi Đại tá. Nhưng nếu trời còn thương nước mình thì Ban Mê Thuột sẽ vững như bàn thạch...
Đại tá Phùng chợt nhìn Huân đăm đăm. Làm gì mà Huân không nhận ra được ánh mắt này? Chàng cười:
-Đại tá sắp có công tác mới cho tôi?
-Anh đeo đại úy mấy năm rồi?
-Hơn một năm nhưng thực thụ thì mới 6 tháng. Đại tá muốn thay lon cho tôi?
-Anh... dám đeo lon Thiếu tá không?
-Tôi nhát lắm nhưng nếu có ai gắn cho mình thì cũng làm gan đeo thử.
Hai người bật cười lên. Đại tá Phùng lại tiến tới tấm bản đồ, chỉ vào khu Bù Gia Mập:
-Đi phép về, anh cùng với đại úy Tú trưởng ban III Chiến Đoàn soạn cho tôi một kế hoạch nhảy liên tục, bám thật sát vào chúng nó. Nếu biết được vị trí đóng quân chính xác, Không Quân có thể tiêu diệt gọn một nửa lực lượng của chúng trước khi chúng bắn được một phát súng. Phần còn lại để dành cho bộ binh mình. Ông tướng Phú đang nấu sẵn một cái chảo nước sôi lớn để chờ chúng nó vào. Mình sẽ luộc sống không còn một mạng.
Huân gật đầu phấn khởi:
-Coi như xong đại tá, nghề của bọn tôi mà.
-Tốt. Bây giờ, anh về nghỉ Noel cho vui vẻ... Có lẽ tôi sẽ bị kẹt khoảng 1 tuần lễ ở Pleiku để thiết lập kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột, khi anh hết phép trở về chắc tôi cũng về tới, vào văn phòng gặp tôi để nhận chỉ thị liền. Mình không có nhiều thì giờ.
Huân gật gù cái đầu.
-Anh ráng lợi dụng kỳ phép này để dưỡng sức vì khi trở lại, chúng mình sẽ có rất nhiều việc để làm. Cho đến khi nào dập xong tụi nó, mình ngủ chưa nhắm mắt được.
-Tôi hiểu Đại tá!
Đại tá Phùng lờ luôn cái vụ thay lon và Huân cũng chẳng muốn nhắc đến. Không phải Huân... chê cái bông mai bạc nhưng đầu óc chàng lúc ấy đang bị xâm chiếm bởi một chuyện quan trọng hơn: Làm thế nào để bám sát chúng nó và chỉ điểm chính xác cho Không quân tiêu diệt. Tiêu diệt trước khi chúng mò được tới Ban Mê Thuột...
Một tuần lễ phép nhân ngày Giáng Sinh trôi qua êm ả. Huân và Diễm sống với nhau những ngày thật đầm ấm, hạnh phúc. Cuối cùng thì chàng cũng thuyết phục được Diễm rời khỏi Ban Mê Thuột sau lễ Giáng Sinh để tránh cuộc binh đao sắp sửa xảy ra. Diễm chịu đi nhưng mẹ nàng nhất định ở lại. Diễm có nhiều bạn bè ở Nha Trang nên việc "tị nạn" cũng coi như một cuộc nghỉ mát nhỏ...
Sáng hôm hết phép, Huân lái xe díp vào trại. Diễm ở nhà lo sắp xếp và dọn dẹp đồ đạc. Hai người sẽ sống với nhau một đêm cuối cùng trước khi Huân đưa Diễm lên trực thăng về Nha Trang.
Buổi sáng, Diễm về ở nhà với mẹ nàng. Mẹ đưa cho Diễm mấy lượng vàng để phòng thân. Buổi chiều, Diễm về nhà tiếp tục lo thu dọn đồ đạc...
3 giờ chiều, Diễm vừa nhét xong bức hình của Huân vào vali thì có tiếng xe thắng gấp ngoài cửa. Diễm ngạc nhiên nhìn ra và thấy Huân cùng một người sĩ quan Lôi Hổ khác từ trên xe bước xuống...
Nhìn hai người, Diễm ngạc nhiên đến độ sợ hãi vì nàng chưa bao giờ thấy Huân hung dữ như vậy. Cả người bạn chàng cũng vậy. Mắt chàng ngầu đỏ, tóc tai rối bù.
Như thường lệ, Diễm đứng trên gác nhìn xuống, mỉm cười và vẫy tay chào nhưng Huân nhìn thấy mà không thèm đáp lễ. Diễm mơ hồ đoán ra rằng người yêu mình đang bị một chuyện gì bực mình lắm...
Lúc hai người xuống xe bước vào thì có con mèo đen phóng lên chiếc xe díp ngồi. Con mèo này vẫn đến như thường lệ nhưng không hiểu sao hôm nay Huân lại thấy ngứa mắt. Chàng nhìn thấy thì liền đứng lại, chửi thề, bảo:
-Đù mẹ cái giống mèo đen này thật là xúi quẩy, không bắn mày thì để làm gì?
Huân quay lui. Nhanh như cắt, một tay chàng chụp cổ con mèo đưa lên cao, tay kia móc cây Colt .45 trong bụng ra kê vào giữa hai con mắt xanh lè của con vật bóp cò oành một phát. Máu óc và sọ con mèo đen bay tuốt lên cao rồi rớt lả tả xuống đường.
Từ trên lầu, Diễm rú lên một tiếng thảm thiết...
Hai ba người hàng xóm nghe tiếng súng nổ, bung cửa chạy ra. Một trong những người đó là một gã cảnh sát, mặt mày coi khó chịu thấy rõ. Gã đang mặc áo thun liền quay trở vào khoác chiếc áo cảnh sát vào rồi hùng hổ xông ra, tay chỉ, miệng nói:
-Anh... Đại úy kia, sao lại nổ súng bừa bãi thế? Anh tưởng đây là đâu? Tôi phải gọi Quân Cảnh mới được...
Người bạn của Huân rít lên một tiếng, toan xông tới nhưng Huân làm dấu cản hắn lại. Chàng xoay người đưa mắt nhìn người cảnh sát.
Cái nhìn của một ông Đại Úy Lôi Hổ, một tay còn cầm con mèo đen máu nhỏ từng giọt, tay kia còn thủ cây Colt .45 quả có thần lực đặc biệt. Chỉ một cái nhìn đơn giản vậy thôi mà gã cảnh sát đã mất hết hồn vía, mặt mày tái mét.
Dưới cặp mắt thất thần của gã, chàng lù lù tiến tới phía gã, chẳng nói chẳng rằng. Gã cảnh sát lúc ấy mới biết mình vừa hơi... quá lời, đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn Huân như chờ đợi hình phạt sắp đổ xuống đầu mình.
Cũng chẳng thèm nói năng, Huân nhét con mèo đẫm máu vào tay gã ta rồi đứng yên... nhìn. Gã kia sợ quá, không nói năng gì được, mặt méo đi thảm hại. Huân đưa nguyên cái bàn tay còn dính đầy máu mèo chùi vào ngực gã, rồi quẹt mấy cái lên mặt:
-Tập ăn thịt mèo cho quen đi là vừa, mai mốt Việt Cộng nó vào đây thì cả thành phố này phải ăn thịt mèo.
Rồi Huân quay gót, nhét cây súng vào bụng mình, bình thản tới chỗ rô bi nê rửa tay.
Huân mở cửa phòng bước vào. Diễm đứng nhìn sững Huân và không biết phải nói gì. Từ ngày quen nhau, nàng chưa bao giờ nhìn thấy Huân hung dữ như vậy. Nhưng nhìn ánh mắt ngầu đỏ đầy uất hận của hai người sĩ quan trẻ, Diễm biết họ vừa gặp phải một chuyện gì rất bực mình hay đau đớn.
Huân chỉ nhìn Diễm chứ không cười, không chạy đến hôn nàng như mọi lần:
-Đây là Tú, bạn anh.
-Xin chào chị.
-Không dám, chào anh.
Rồi hai người ngồi xuống bàn. Đại úy Tú lấy chai Martel cầm theo ra, mở nắp. Huân lật ngửa hai cái ly.
Hai người lính trẻ uống rượu trong im lặng, bốn con mắt ngầu đỏ, bắn ra những tia lửa tuyệt vọng và uất hận. Hết ly này đến ly kia, không ai nói với ai một lời nào.
Diễm ngồi nhìn hai người một lúc, đứng lên bảo "Để em đi mua khô mực" rồi bỏ xuống nhà. Huân không thèm nói năng gì. Nàng xin lỗi người cảnh sát lúc nãy rồi ra đầu hẻm mua mấy con khô, một ít nước đá.
Lúc Diễm trở về thì chai rượu đã gần cạn. Diễm nướng mấy con khô mực. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra. Nàng đưa vạt áo lên chùi nước mắt rồi bảo "Khói quá".
Diễm lấy cán dao đập mấy con khô rồi bỏ vào đĩa, để trên bàn. Lúc ấy Huân mới chịu mở miệng, nhìn nàng:
-Em ngồi đây, anh có chuyện muốn nói.
Nhà chỉ có hai cái ghế, Diễm đành ngồi trên giường.
-Ngày mai em đi?
-Vâng.
-Em có quen ai ở Sài Gòn không?
-Có, bên nội. Sao anh hỏi vậy?
Huân thở dài:
-Anh nghĩ em về Nha Trang rồi phải tìm đường về Sài Gòn luôn.
Diễm hốt hoảng:
-Sao vậy anh?
Huân lắc đầu, nói như khóc:
-Ông tướng Phú hủy bỏ kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột rồi. Vậy là xong. Thành phố này sẽ chìm trong cơn Đại Hồng Thủy của máu lửa và bom đạn. Ban Mê Thuột sẽ chẳng bao giờ còn như xưa nữa.
-Nhưng tại sao lại hủy bỏ? Hủy bỏ hồi nào?
Huân lắc đầu tính không nói nhưng không hiểu sao lại trả lời:
-Hai ngày sau Noel... Một phái đoàn của dinh Độc Lập gồm báo chí và chuyên viên tình báo Mỹ của DOA lên Pleiku thăm ông Phú. Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, "cố vấn đặc biệt" của Tổng Thống và các "thiên tài tình báo" Mỹ thuyết phục được tướng Phú là Việt cộng sẽ không đánh Ban Mê Thuột mà đánh Pleiku...
Rồi Huân lại lắc đầu, nâng ly rượu lên uống cạn. Tú rót thêm rượu vào ly. Diễm còn muốn hỏi nữa nhưng hình như Huân không còn muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Chàng bảo:
-Em phải về Sài Gòn. Nếu mẹ không đi thì em về một mình. Đây là cái địa chỉ nhà anh, em nhớ lấy.
Diễm đứng dậy tới sát bên Huân:
-Còn anh thì sao?
-Nếu trời còn thương, mình sẽ gặp nhau...
Diễm gào lên, đau đớn:
-Anh nói vậy nghĩa là sao?
-Đừng bắt anh nói gì nữa Diễm ạ. Anh cũng chẳng hứa hẹn được gì. Đừng quên một điều quan trọng là anh là một người lính. Anh còn có bổn phận của anh.
Diễm thẫn thờ, đứng nghệt mặt ra. Hạnh phúc mới vừa đó mà đã bay vút đi. Huân đưa tay nắm tay Diễm, vuốt ve gò bàn tay, cúi đầu xuống. Giọng chàng thật mềm mại và thật ấm:
-Anh chỉ nói được một điều trong lúc này là anh yêu em, anh sẽ yêu em mãi mãi...

Kể từ khi quen nhau, Diễm chưa bao giờ thấy mình thật gần Huân mà lại thật xa Huân như lúc này. Nàng mơ hồ mường tượng ra rằng, chia tay lần này, chắc sẽ không còn bao giờ còn gặp nhau nữa. Diễm nhẹ nhàng rút tay ra khỏi tay Huân, gạt nước mắt rồi bỏ ra ngoài ban công đứng nhìn xuống đường. Huân nhìn theo, cặp mắt như ngây dại. Chàng lắc đầu, nghĩ thầm rằng trời sinh mình ra để bị đàn bà làm khổ và làm khổ đàn bà. Ai gặp mình rồi cũng khổ cả, dù có tình yêu hay không.
Huân quay mặt lại, mồi lửa một điếu thuốc, nói với Tú:
-Thôi uống đi mày! Phần số nước mình nó như vậy rồi, có lo lắng cũng chẳng làm được gì. Bọn mình phải chuẩn bị để chết. Nhưng dù có chết đi nữa thì mình cũng tự an ủi được một điều là mình đã làm hết bổn phận mình... Xuống dưới suối vàng, thằng nào lạng quạng mình... đá thấy mẹ.
Nụ cười nở nhạt trên môi Tú rồi tắt đi ngay. Chàng nâng ly nhưng lại bỏ xuống, cất giọng buồn buồn hỏi:
-Mày nhớ bọn thằng Thành thằng Xú không?
-Nhớ, chết trận An Lộc. Sao mày hỏi vậy?
-Không ngờ rằng rốt cục, tụi nó chết trước mà lại sướng hơn mình. Chúng nó còn được thiên hạ lập mộ chí và được nhân dân miền Nam nhớ đến qua hai câu thơ: "An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích, Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân"... Riêng bọn mình, sau trận Ban Mê Thuột này thì chỉ mong mỗi đứa có được một nấm mộ cho đỡ tủi thân mà thôi...
-Nhằm nhò gì, chết là hết. Uống đi mày, "Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi..."
Trường sơn Lê Xuân Nhị