Sunday, December 20, 2009

Hang "Bêlem"


CHIẾC QUE DIÊM ĐÊM GIÁNG SINH
Linh Vũ. TUỲ BÚT.

Nói đến Giáng Sinh là người ta nghĩ đến quà tặng và niềm vui. Chưa có lễ nào đón mừng một cách lớn lao trên toàn thế giới như ngày lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh nơi đô thị xa hoa, lộng lẫy với trăm ngàn hoa đèn rực rỡ, cũng có Giáng Sinh nơi xa xôi hẻo lánh lặng lẽ với bão tuyết ngập trời, cũng có Giáng Sinh nơi thôn xóm nghèo nàn với ánh đèn leo lét của một thân phận hẩm hiu. Giáng Sinh cũng lóe lên một ánh đèn nhỏ từ những trại tù với lời cầu nguyện một chút tự do và niềm hy vọng. Hay những ước mơ an bình của đám trẻ mồ côi đang lang thang trên đầu đường góc phố. Giáng Sinh không chỉ có vui, hay đón mừng ngày Chúa ra đời để cứu rỗi nhân loại, mà Giáng Sinh còn mang lại cho nhiều người những kỷ niệm khó quên trong cuộc sống thăng trầm của đời thường cơm áo.

Giáng Sinh năm nay tôi không đi lễ, không đãi tiệc nửa đêm, chỉ nằm nhà đọc truyện cũ của Arthur Andersen về cô bé bán diêm. Những ngày như thế thường làm lòng tôi chùng xuống với nhiều nỗi buồn vô cớ. Nhất là đêm nay, tôi cảm thấy bơ vơ như đang lạnh cóng trên một góc phố nào đó của xứ sở xa lạ. Bây giờ tôi cần một ánh lửa bùng cháy, một hơi ấm từ chiếc lò sưởi để đốt tan những nỗi đau chợt đến. Tôi có một kỷ niệm khó quên đã mang theo từ ngày đứa con gái tôi lên tám tuổi. Thời gian thắm thoát đã mười năm qua, tôi đã hóa thân thành người họa sĩ miệt mài vẽ những bức tranh vân cẩu với người tình Lưu Nguyễn trong màu buồn lặng lẽ và vô vọng. Tôi đã có lần chợt khẽ buông tay, đã đánh rơi trăm ngàn mảnh vỡ cuộc đời không thương tiếc. Tôi cũng hiểu, ánh sáng Thiên Thần chỉ xuất hiện một lần không bao giờ trở lại và bầu trời vẫn màu đen chìm giữa mắt người. Tôi thương cô bé bán diêm bên ánh lửa nhỏ nhoi đã chết giữa trời đêm băng giá. Tôi giàu sang ngụp lặn trong vô thường ảo tưởng. Tôi quên mất những chiếc que diêm của cô bé cố lóe lên một chút sáng để soi niềm ước mơ nhỏ nhoi trong đêm giá lạnh, nhưng rồi hộp diêm cũng cháy rụi, tung tóe trên mặt đường. Còn tôi thì đốt cuộc đời theo tháng năm để hứng đầy những giọt lệ đổ xuống chỗ niềm đau bấu chặt. Đêm nay, tôi không chờ tin mừng Thiên Chúa, cũng chẳng cần lời cầu nguyện ban ơn. Tôi chỉ cần tiếng điện thoại của con tôi từ Tiểu Bang xa gọi đến. Đã mười năm rồi tôi muốn nghe lại tiếng nói thơ ngây của con trong lời chúc mừng Giáng Sinh.. Daddy..Daddy.. Merry Christmas..Merry Christmas.. Vâng, chỉ đơn giản thế thôi, chỉ ngần ấy ngôn từ tôi sẽ thấy lại bầu trời đầy trăng sao mầu nhiệm, tôi sẽ trở về một góc trời kỷ niệm của Bố con chúng tôi trong những tháng ngày xưa cũ.

Mười năm trước tôi từ giã Thiên Thần bé nhỏ của tôi để ra đi vì hạnh phúc gia đình đỗ vỡ. Buổi ăn tối cuối cùng của tôi với đứa con gái trên chiếc bàn quen thuộc đã trở thành nhạt nhẽo, chỉ có nước mắt lưng tròng và thức ăn nguội lạnh của đêm Giáng Sinh. Tôi ra đi giữa đêm tuyết rơi không một vì sao sót lại trên bầu trời. Ánh đèn trước cửa sân nhà như mờ đi, cảnh vật thinh lặng đến thê lương đã trải dài theo bước chân tôi ra đi trong thầm lặng. Bàn tay bé nhỏ của đứa con thân yêu đã bấu chặt vai tôi, như cố giữ lại chút ấm áp của người cha, làm lòng tôi quặn thắt.

Thế mà, hôm nay đã mười năm trôi qua, Giáng Sinh vẫn trở về đều đặn, tôi vẫn thương nhớ những ngón tay nhặt khoan trên phím đàn buồn bã của chiếc dương cầm, tôi vẫn thấy ánh mắt Thiên Thần bé nhỏ của con tôi ướt đầm những giọt lệ trong giây phút chia tay với người cha yêu quí. Tôi nhớ, đêm đó tiếng chuông nhà thờ không vọng xa từ ngoại ô thành phố. Ngoài trời tuyết rơi, chiếc lò sưởi hình như không còn đủ ấm cho mái gia đình sắp tan vỡ. Hai bố con tôi ngồi cạnh bên nhau chỉ có nước mắt và tiếng thở dài. Đêm như muốn tan theo giá lạnh bên ngoài khung cửa sổ, con tôi lặng lẽ ngồi trước chiếc dương cầm với mười ngón tay buồn bã lướt êm. Một giọng nói nghẹn ngào. Con tặng bố: Từng cung bậc nhẹ nhàng ngân lên, những xót xa từ tim tôi ùa vỡ những đớn đau. Bản nhạc đêm nay không phải là bài “Đêm Thánh Vô Cùng” mà “Sadness of Christmas” buồn ảo não. Mười ngón tay mềm mại của con tôi như đang trải rộng một thứ âm thanh run rẩy, như suy sụp, như những mũi kim đâm nhói vào tim tôi. Tiếng đàn như kể, như than khóc cho nỗi khổ đau của một đứa bé không nhà bên góc đường ngập đầy băng tuyết, đang cần vòng tay ôm của bố mẹ... Đêm đó, tiếng dương cầm đã loãng xa trong đêm tối, tôi cũng chia tay người con yêu quí để ra đi và bỏ lại sau lưng một người đàn bà không chút nghĩa tình.

Mười năm trôi qua nhanh, đêm nay trong gian phòng vắng lạnh, Giáng Sinh đã trở về như cố tình gõ cửa. Vài ánh đèn màu từ nhà hàng xóm chiếu sang, nhá nhem trước hiên nhà như có màu buồn của mùa đông băng giá. Tôi nhìn quanh thở phào mỏi nản rồi đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng có vì sao nào soi sáng, bên kia con phố chuông nhà thờ không ngân vang như mọi năm. Bao ước mơ ân sủng từ tay Chúa cũng chảy dài theo những nếp nhăn trên vầng trán tôi cằn cỗi. Bên trong nhà ánh đèn bạch lạp đã lụn dần trong chiếc bình nhỏ, bài thánh ca năm nay không còn mầu nhiệm ngân lên trong tim tôi thánh thót. Tôi cúi đầu để nghe mình đang thở và hiểu rằng bàn tay chai cứng của tôi hôm nay không xua đuổi nỗi một năm dài hụt hẫng.

Thời gian qua nhanh quá, đã mười năm rồi còn gì, tôi chưa có lần ngồi bên cạnh Thiên thần nhỏ bé của tôi trong đêm Giáng Sinh, để Bố con cùng đọc kinh cầu nguyện xin một ngày bình an cho cuộc sống. Nhiều khi tôi nghĩ, nếu là Thiên Chúa tôi sẽ ban nhiều Hồng Phúc đến với tất cả mọi người mà không cần điều kiện để loài người giảm bớt những khổ đau. Đêm nay chuông nhà thờ không vọng lại trong khu phố nghèo của tôi cư ngụ. Tôi châm điếu thuốc, hớp một ngụm rượu rồi lảo đảo những dòng âm thanh mơ hồ từ trong huyết quãn.
“Đêm thánh vô cùng giây phút tưng bừng. Đất với trời xe chữ đông. Đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ. Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa, ơn châu báu không bờ bến, biết tìm kiếm của chi đến. Ôi Chúa Thiên Đàng cam mến cơ hàn, nhấp chén phiền vương phong trần. Than ôi Chúa thương người đến quên mình: Bỏ vô chốn quê nhà lúc sanh thành. Ai ham sống trong lạc thú. Nhớ rằng Chúa đang đền bù. Tinh tú trên trời. Sông núi trên đời với Thánh Thần mau kết lời, cao rao Hóa Công đã khéo an bài. Sai con hiến thân mong cứu nhân loại. Hang chiên máng rêu tạm trú bốn bề tuyết sương mịt mù.....” (Bài hát của thiên tài người Áo Franz Xaver Grubert 1787-1863)
Tôi chấm dứt câu hát cuối cùng nhuốm đầy nước mắt và sau đó hình như tôi cũng nghe có giọng nói quen thuộc từ một nơi rất xa của vị Linh Mục cất lời rao giảng:
“......Những người nghèo nghĩ rằng, họ sẽ đạt được hạnh phúc khi trở nên giàu có. Những người giàu lại nghĩ rằng họ sẽ hạnh phúc khi không còn bệnh tật. Đứng núi này trông núi nọ. Đó là căn bệnh chung của mọi người, chúng ta không cảm thấy hạnh phúc vì chúng ta không bằng lòng với hiện tại của chúng ta. Chúa Giêsu đến để mang lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời này. Dĩ nhiên hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đối, bị khước từ và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng ngài hẳn phải là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó... phúc cho những ai bách hại" Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống là nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Giêsu mời gọi ta sống và hưởng hạnh phúc trong từng phút giây hiện tại mà ta đang có được. Vì chính trong hiện tại ấy Thiên Chúa đến với ta để trao ban trọn vẹn tình yêu của Ngài."

Đó là bài giảng của Cha Ng.P.An mười năm về trước, hôm nay đang vọng về xung quanh tôi. Tôi xa Cha cũng đã hơn mười năm, nhưng bài giảng đêm Giáng Sinh ngày xưa vẫn còn sánh đặc trong tôi, như những chiếc lá trạng nguyên màu đỏ thắm, đang sum sê cành lá bên nhà tôi của đêm Giáng Sinh đầy băng tuyết. Cha Ng.Ph.An là người bạn của tôi trước khi ông trở thành Linh Mục. Mặc dù tuổi đời Cha kém hơn tôi, nhưng trong lòng tôi lúc nào cũng quí mến Cha, Cha đã cho tôi một quãng thời gian vui buồn nhiều kỷ niệm. Tôi nhớ có lần Cha nói: "Khi lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Thiên Chúa được biểu lộ....Ngài sẽ cứu rỗi chúng ta" Lòng nhân hậu của Chúa tràn ngập như nước vỡ bờ, sẽ mang tình yêu thương đến với mọi người và làm cho mọi người biết yêu thương nhiều hơn” Nhớ lời Cha giảng tự dưng nước mắt tôi lăn tròn trên má, tôi chắp hai tay nhìn lên bàn thờ thì thầm lời đau xót: Chúa ơi! tại sao Chúa ban cho con người đàn bà không có chút nghĩa tình, không từ tâm, không yêu thương, không độ lượng. Tại sao tình yêu thương của Chúa không ngập lụt cả thung lũng ác tâm của người đàn bà, mà Chúa đã bắt con phải chôn vùi hơn hai mươi năm vô lý để biến cuộc đời con trở thành mây khói. Tôi lẩm bẩm một lần nữa câu “The humanity of God comes to humanize us?” của Cha đọc trong kinh sách. Tôi trả lời thật nhanh. Tôi không tin......rồi lặng lẽ úp mặt lên bàn.

Thế rồi, Giáng Sinh năm nay vẫn có những món quà tặng, những bữa tiệc cũng được bày ra để vui lòng bè bạn, những lời chúc tốt đẹp vẫn phải nói để đẹp lòng nhân thế. Chỉ có chiếc vớ màu đỏ trên lò sưởi vẫn trống rỗng vì con tôi không có ở đây cho nên ông Santa Clause không ghé lại. Cô bé Thiên Thần của tôi năm nay đã lên 19, bắt đầu biết làm người lớn. Tôi hy vọng đêm nay con tôi sẽ gọi về, sẽ nói với tôi lời an ủi nhỏ để căn nhà không trở nên buồn tênh thừa thãi. Con tôi sẽ dạo lại bài Thánh ca buồn năm nọ mà từ lâu tôi vẫn còn giữ lại bên bờ hồ ký ức. Tôi sẽ hỏi lại Cha Ng.P.An trong bài giảng năm xưa. “This is a mystery that fascinates me!” có đúng như vậy không. Ơn cứu rỗi có đến với tôi không! Giáng Sinh năm nào tôi vẫn cô đơn buồn bã. Đối với tôi những hy vọng đời thường như mù xa vô tận, hạt bụi Thiên Đường không rớt giữa bàn tay của những kẻ buồn khổ như tôi. Con gái tôi theo tháng ngày lớn nhanh, tóc tôi mỗi năm càng bạc trắng, rụng đầy chăn gối, hoàn cảnh cuộc đời thì đổi thay chóng mặt. Tôi chẳng còn gì giữ lại ngoài những kỷ niệm nhớ thương con và thành phố thân quen cho tôi những ngày cơm áo. Tôi hiểu, mọi sự trên cõi đời này rồi cũng qua đi, nước mắt sẽ khô, nụ cười phải tắt và tình đời bạc bẽo đó cũng phủ lấp theo lớp bụi thời gian, nhưng sao vẫn thấy buồn. Nhiều khi nghĩ lại, giá chi những ngày tháng xưa cũ, người đàn bà kia đọc qua câu chuyện cổ tích của người Nhật Bản về hạnh phúc gia đình để suy gẫm bản thân mình, thì chắc cuộc đời Bố con tôi đâu phải có những ngày tháng chia xa, nỗi buồn phiền đâu theo tôi từng ngày trong cuộc sống. Đêm nay Giáng Sinh trở về, nhớ thương con, nghĩ lại chuyện xưa, tôi muốn chia xẻ với mọi người một câu chuyện buồn cổ tích và bài Thánh Kinh ngấm đêm Chúa ngự.... “Ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc bên cạnh một đứa con gái nhỏ. Người chồng là một hiệp sĩ samourai, nhưng anh chỉ sống khiêm tốn trong một khu vườn nhỏ ở đồng quê. Người vợ là một người trầm lặng đến độ nhút nhát. Chị không bao giờ muốn ra khỏi nhà.

Một hôm, nhân dịp lễ đăng quang của Nhật Hoàng, với tư cách là một hiệp sĩ, người chồng cảm thấy có bổn phận phải về kinh đô để bái lạy quân vương. Sau khi đã làm xong nghĩa vụ của một hiệp sĩ, anh ghé ra chợ mua quà cho vợ con. Riêng cho người vợ, anh mua một tấm gương soi mặt bằng bạc...

Ðón nhận món quà, người đàn bà bỡ ngỡ vô cùng, chị chưa bao giờ trông thấy một tấm gương, chị chưa một lần nhìn thấy mặt mình. Do đó, vừa nhìn thấy mặt mình trong gương, người vợ mới ngạc nhiên hỏi chồng: "Người đàn bà này là ai?". Người đàn ông mỉm cười đáp: "Mình không đoán được đó là gương mặt kiều diễm của mình sao?".
Một thời gian sau, người đàn bà lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà cầm tay đứa con gái và nói nhỏ: "Mẹ không còn sống trên mặt đất này nữa. Sáng chiều, con hãy nhìn vào tấm gương này và sẽ thấy mẹ".

Sau khi người mẹ qua đời, sớm tối, lúc nào đứa con gái ngây ngô cũng nhìn vào tấm gương và nói chuyện với chính hình ảnh của nó. Nó nói chuyện với hình trong tấm gương như với chính mẹ nó.

Ngày kia, bắt gặp đứa con gái đang nói chuyện với chính mình nó trong tấm gương, người cha tra hỏi, đứa con gái mới trả lời: "Ba nhìn kìa, mẹ con không có vẻ mệt mõi và xanh xao như lúc bị bệnh. Mẹ lúc nào cũng trẻ và cũng mỉm cười với con".
Nghe thế, người đàn ông không cầm nổi nước mắt, nhưng không muốn cho nó biết sự thật, ông nói với nó: "Nếu con nhìn vào gương để thấy mẹ con, thì ba cũng nhìn vào con để thấy mẹ con".

Tha nhân chính là tấm gương phản chiếu gương mặt của chúng ta. Khi chúng ta lạc quan, khi chúng ta vui tươi, khi chúng ta yêu đời, khi chúng ta hòa nhã chúng ta sẽ nhận ra nét đó trên khuôn mặt của những người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta cau có, khi chúng ta giận dữ, khi chúng ta buồn phiền, khi chúng ta thất vọng, chúng ta cũng sẽ thấy được những nét ấy trên gương mặt của người khác...
Tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu đứa con có thể nhìn thấy gương mặt khỏe mạnh, vui tươi của người mẹ trong tấm gương, nếu người cha nhìn thấy hình ảnh của người vợ trong đứa con, thì với ánh mắt của tin yêu chúng ta cũng có thể nhìn thấy gương mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.

Có Thiên Chúa trong ánh mắt, nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người, chúng ta sẽ thấy rằng đời có ý nghĩa, tha nhân không phải là hỏa ngục đáng xa lánh...

Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của tha nhân với nụ cười của trẻ thơ để luôn luôn nhận ra được bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người. (Theo sách lẽ sống)
Tôi kể miên man như lão già thiên cổ, tôi run run như miệng lưỡi không còn. Giá mà người đàn bà năm xưa của tôi, biết nhìn xuyên qua tấm gương trước mặt mình thì cuộc sống sẽ hạnh phúc, bền vững biết bao. Nếu ai cũng nhìn thấy tha nhân chính là mình thì tình yêu đâu có tháng ngày chia cách. Nếu ai cũng hiểu được, cuộc đời chỉ là quãng đường quá ngắn, đời người là nơi chốn phù du, cứ cúi mặt cho thời gian trôi qua, biết đâu còn chút niềm vui giữ lại. Càng suy nghĩ càng thở dài mỏi nản. Tôi vẫn phải chờ phone và đọc lời kinh cầu cho cô con gái yêu của tôi được mọi sự bình an trong cuộc sống.

Tiếng chuông nhà thờ vọng lại, đồng hồ vừa điểm nửa đêm, tiếng điện thoại reo lên, bên kia đầu giây có tiếng nói con tôi ngọt liệm. Bất chợt tôi nắm bắt được niềm hạnh phúc trong đêm Giáng Sinh. Tôi vui mừng nhận một que diêm từ con gái tôi gởi đến, tuy rất nhỏ nhưng cũng đủ sưởi ấm lòng tôi nơi thành phố buồn chỉ có mưa và tuyết. Tôi sẽ đốt sáng que diêm đêm nay để nhìn thấy Thiên Chúa trong ánh mắt mọi người, tôi sẽ nói cho con tôi biết là bố đã nhặt được những chiếc lá trạng nguyên màu đỏ thắm của cô bé bán diêm trên đường phố trong đêm Giáng Sinh lạnh giá. Bố cũng tìm thấy được trong chiếc vớ đỏ có nhiều quà của con gái yêu quí bố gởi cho. Bố là cậu bé Ni-Kô-La ở thị trấn Lycia Thổ Nhĩ Kỳ nhiều hy vọng. Đồng thời Bố cũng nghe được lời Cha Ng.Ph.An rao giảng ở Thánh Đường Our Lady Star đêm Giáng Sinh của mười năm trước.

Linh Vũ
Tùy bút Giáng Sinh 2006
TRỞ VỀ ĐẦU TRANG

Saturday, December 19, 2009

NGƯỜI SUỐT ĐỜI LẮC CHUÔNG GIỮA CHỢ .

Gần cuối tháng 12 dương lịch năm nay có một thiệp chúc Xuân đến với tôi thật sớm, trước Tết Nguyên Đán cả tháng . Đó là một điều lạ. Tôi chưa hề nhận một thiệp xuân nào sớm như vậy, từ trước đến nay. Điều lạ thứ hai là cùng một bao thư với thiệp chúc xuân này, tôi có cả một thiệp chúc mừng Giáng Sinh đến trễ cả tuần. Hai điều lạ này được giải thích trong một mảnh giấy nhỏ viết tay kèm theo. Qua mảnh giấy nhỏ này, thắc mắc của tôi được giải tỏa: anh con thấy trong các giấy tờ để lại của người cha mới chết một thiệp Giáng Sinh và một thiệp chúc mừng Năm Mới Ất Dậu. Mỗi tấm thiệp được để trong một bao thơ có đề sẵn địa chỉ của tôi. Anh con bỏ cả hai tấm thiệp vào một bao thơ rồi gởi cho tôi. Coi như thay người chết gởi lời chúc tới ông bạn còn sống. Lá thư bất ngờ cũng báo cho tôi biết một cái chết bất ngờ. Cùng một lúc với những lời chúc tốt đẹp là một nỗi buồn thật lớn đến với tôi. Tôi biết từ nay tôi vĩnh viễn mất một ông bạn hàng xóm tốt bụng của tôi từ hơn hai mươi lăm năm qua. Tội nghiệp ông già, biết mình tuổi đã cao, sống nay chết mai, nên ông đã chuẩn bị sẵn những gì cần phải làm. 24 lần Giáng Sinh và 24 lần Tết Nguyên Đán đã qua chưa lần nào gia đình tôi thiếu các tấm thiệp chúc mừng của ông. Năm nay, năm thứ 25, ở giờ phút thứ 25, giờ phút cuối của cuộc đời, ông vẫn không quên chúng tôi.

Thật sự thì chúng tôi là bạn hàng xóm chỉ trong hai năm đầu khi chúng tôi đến Mỹ. Mới chân ướt chân ráo nhập vào một dòng sống hoàn toàn mới lạ, không có một người thân quen, chúng tôi thấy tạm yên lòng cư ngụ trong một căn nhà nhỏ tại một khu khá tạp nhạp, toàn là dân da đen và dân Nam Mỹ có lợi tức thấp; hiếm thấy một người da trắng lạc lõng đi ngang qua xóm. Sau hai năm gia đình chúng tôi làm ăn có khấm khá hơn và các con cũng cần có những trường tốt hơn nên chúng tôi dời đến một nơi khác, cách chỗ cũ hơn một giờ lái xe. Hai năm ở cạnh nhau đã đủ cho một tình hàng xóm nẩy nở. Những năm còn lại chúng tôi vẫn hay gặp gỡ, nhứt là vào những dịp lễ lạc hay ăn mừng năm mới, mừng sinh nhật....hoặc thăm hỏi tin tức nhau qua thư từ và điện thoại.

Thuở đó là vào khoảng cuối năm 80, chúng tôi đến Mỹ trong cái lạnh cóng da của một nhiệt độ đông đá। Căn nhà chúng tôi mướn thuộc căn nhà đã quá cũ, cả trăm năm tuổi, vách ván, sàn gỗ kê trên những cục gạch xi măng khiến gió lạnh chui vào nhà một cách dễ dàng từ bốn bên và từ dưới sàn nhà. Ba đứa con tôi tuổi từ một rưỡi đến 12 tuổi, chúng mặc vào nhiều lớp áo quần mà răng vẫn đánh lặp cặp. Đó là những giờ đầu tiên khi chúng tôi mới dọn vào nhà. Tôi thấy một cái máy sưởi đặt âm trong vách nơi phòng khách, tôi vặn hết nút nầy đến nút nọ mà vẫn không thấy hơi nóng phát ra. Túng cùng, vợ tôi đưa ý kiến là nên nhờ người ở nhà kế bên sang chỉ dẫn. Tôi rất ngại ngùng khi phải gõ cửa nhà người hàng xóm không quen vì lúc đó đã hơn mười giờ đêm. Chỉ cần không đầy một phút, ông hàng xóm đã làm chiếc máy sưởi tỏa hơi nóng.

Rồi vợ con ông mang cả đống quần áo ấm cho chúng tôi, có cả mấy bao potato chips họ nói là ăn cho ấm bụng. Cả nhà chúng tôi cảm ơn. Ông hàng xóm nắm chặt tay tôi, ông nói rõ và chậm từng lời, sợ rằng tôi chưa quen tiếng Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như in hình dáng cao gầy, gương mặt đen mun làm rõ hàm răng trắng và đôi tròng mắt trắng nhìn thẳng vào mắt tôi. Ông nói là ông luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi, đừng ngại ngùng gì hết. Ông cho tôi số điện thoại, bảo cứ gọi ông hay vợ con ông bất cứ khi nào chúng tôi cần. Ông nói ông tên là Otis Clark, nhưng ông thích được gọi là The Bell Ringer, hãy gọi ông là Ringer cho gọn. Thuở đó cả nhà chúng tôi gọi ông là Ringer, coi như là một cái tên riêng; sau nầy mới biết ý nghĩa của nó và biết vì sao ông Otis thích được gọi như vậy. Sau cái đêm đầu tiên đó thì chúng tôi cần họ nhiều trăm lần nữa trong suốt hai năm ở gần nhau và cả khi ở xa nhau. Ông bà là cố vấn của gia đình chúng tôi về đủ mọi chuyện. Từ chuyện ông Ringer dạy tôi cách sử dụng máy cắt cỏ, máy xén cỏ đến việc thay nhớt cái xe. Bà Ringer thì từ việc đưa vợ tôi và các con đi ghi danh ở trường, đến việc dạy vợ tôi tiết kiệm bằng cách mua hàng sale và cách dùng coupons khi đi chợ. Khi chuyện trò với chúng tôi, họ nói chậm rãi, rõ ràng từng tiếng. Đặc biệt là họ hay gợi chuyện để chúng tôi nói.

Tiếng Mỹ chúng tôi khá hơn nhờ gia đình này. Cách sinh hoạt chúng tôi được xuôi chèo mát mái hơn trong cái xã hội lạ lẫm nầy phần lớn là nhờ họ. Cũng qua gia đình nầy chúng tôi có cái cảm tưởng đầu tiên là người Mỹ tử tế.Về sau chúng tôi biết ông bà Otis không những chỉ tử tế với riêng gia đình chúng tôi hay vài gia đình trong khu xóm, mà ông bà nầy tử tế với tất cả mọi người. Điều nầy thì tôi xin được nói sau. Cái ấm áp của đêm đầu tiên đó đã bắt đầu cho một nghĩa tình lân lý kéo dài suốt hai mươi lăm năm nay. Suốt thời gian đó chúng tôi thương mến và hiểu nhau hơn. Bà Otis mất 12 năm trước, sau đó cậu con trai duy nhứt đi làm xa, ông già Otis đã nghỉ hưu từ hơn hai mươi năm trước. Ông sống một mình trong căn nhà cũ, nhưng ông không cô đơn vì chừng như công việc chiếm hết thì giờ của ông. Muốn đến thăm ông, chúng tôi phải thông báo vài ngày trước. Hoặc đôi khi tự dưng ông ghé nhà tôi ngủ một đêm để kể cho chúng tôi nghe chuyện đời. Các con tôi rất thích nghe Uncle Ringer kể chuyện. Càng hiểu tâm tình của ông và càng biết nhiều những sinh hoạt của ông, chúng tôi càng quí trọng ông. Bây giờ thì ông đã đi rồi. Tấm thiệp Xuân Ất Dậu tôi chưa kịp gởi cho ông. Những dòng tưởng nhớ này như lời cuối cùng chúng tôi tiễn đưa ông, người hàng xóm tốt bụng.
Nhớ tới ông Otis là tôi nhớ tới điều mà ông đã nói với tôi khi hai người ngồi uống bia ở sau nhà ông hơn hai mươi năm trước। Ông chỉ nói có một lần mà tôi mãi nhớ hoài. Ông Otis nói ông nợ cuộc đời quá nhiều, sợ rằng cả đời của ông, ông cũng không trả nổi. Ông mất ở tuổi tám mươi lăm. Một đời người như thế cũng gọi là dài.

Nhưng cái nợ với cuộc đời mà ông tự nguyện gánh trên vai đã hết chưa hay ông vẫn còn khệnh khạng vác xuống tuyền đài? Nghĩ tới điều nầy khiến tôi càng thương ông, vì tôi biết một khi thế giới nầy còn hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh, bịnh tật và xã hội này còn những kẻ nghèo đói, tật nguyền, không nhà, không miếng ăn, không cái mặc... thì The Bell Ringer thỏi đồng đen của tôi vẫn ngày ngày muốn làm người lắc chuông nơi cửa chợ. Tôi biết ông muốn mãi mãi là người lắc chuông, dù cho trăm năm, dù cho ngàn năm nữa. Người đàn ông da đen cao, gầy, xương xẩu, ít học mà có trái tim to như trái núi, một tấm lòng dào dạt mênh mông như nước đại dương. Gần cả đời lắc chuông giữa chợ kêu gọi tình thương, chắc chỉ có một ông Otis Clark nầy. Ông nói từ khi nhận diện được những đau khổ của cuộc đời đến với riêng ông, ông muốn được góp phần nhỏ mọn của mình làm vơi đi ít nhiều những đau khổ cho càng nhiều người càng tốt. Ông Otis kể với mọi người về cuộc đời của ông. Cậu bé Otis lúc mới 5 tuổi đã là một bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Người ta nói cha mẹ cậu một hôm từ thị trấn Cheyenne của tiểu bang Wyoming mang đứa con trai Otis 5 tuổi xuôi nam lập nghiệp, mong thoát khỏi kiếp tôi đòi. Lúc tới gần dãy Rocky Mountains thì ông bà Clark mất tích trong một trận bão tuyết. May mắn được cứu, cậu bé Otis sống lang thang không nhà với người cha nuôi nghiện rượu và với một con chó đói. Cha con ngày ngày kiếm miếng ăn nơi khu Lincoln Park của tiểu bang Colorado. Khi cha nuôi chết, cậu Otis 10 tuổi đã biết phải tìm cái sống bằng chính sức lực và ý chí của mình. Tiếp tục ước muốn của cha mẹ, Otis xuôi nam, sống vất vưởng trên các đường phố với đủ ngành nghề, từ bán báo đến quét dọn nhà hàng, lau chùi cầu tiêu công cộng....

Lớn hơn một chút, Otis về vùng đồng cỏ Texas làm các công việc nơi trang trại, chăn bò, vắt sữa, lái máy cày. Cuộc đời Otis thật sự thay đổi ở tuổi 18 khi một ân nhân đem Otis về thành phố lớn, dạy cho ít chữ nghĩa và dạy nghề thợ tiện. Từ đó Otis đứng vững vàng trên hai chân mình. Cũng từ đó chàng thanh niên Otis bắt đầu nghĩ tới một sự trả ơn cho người đã cứu mình ra khỏi vùng u tối. Otis cũng không thể quên những cảnh khổ chung quanh, cảnh khổ mà suốt quãng đời niên thiếu mình đã chịu. Những ngày cuối tuần người ta thấy chàng thanh niên Otis la cà nơi các công viên, hay các góc đường dưới cầu xa lộ mang những bịch đồ ăn thức uống cho những người không nhà. Nhiều người trong số nầy đã được Otis giới thiệu việc làm, tạo dựng lại cuộc đời và tiếp tục trả ơn đời như anh Otis. Một thanh niên da trắng thất tình thất chí, bỏ học, bỏ nhà cửa đi làm homeless, Otis tới lui, chuyện trò, khuyên nhủ, rồi đem về nhà nuôi ăn học. Ngày anh thanh niên nhận bằng kỹ sư điện, anh đã ôm Otis giữa hội trường mà khóc như một đứa con nít. Nhiều lần Otis đến các nhà tạm trú cùng với các người thiện nguyện phục vụ những bữa ăn cho người vô gia cư. Sau khi tham dự thế chiến thứ Hai, người lính giải ngũ Otis biết được các hoạt động cứu trợ rất hữu hiệu của hơn 3000 đơn vị phục vụ thuộc tổ chức thiện nguyện The Salvation Army. Otis bắt đầu tham gia hoạt động cho The Salvation Army kể từ đó. Cũng kể từ đó Otis chỉ thích được gọi là Người Lắc Chuông- The Bell Ringer. Từ mùa đông năm 1945 The Bell Ringer tên Otis bắt đầu mặc bộ đồng phục của The Salvation Army, cầm cái chuông đồng đứng tại các cửa chợ vào những ngày lễ để kêu gọi lòng hảo tâm của con người đối với con người.


Những ngày đầu ở Mỹ, không ai trong gia đình tôi biết The Salvation Army là gì। Chúng tôi chỉ biết tổ chức thiện nguyện Đạo Binh Cứu Khổ này qua người hàng xóm mà chúng tôi gọi là Ringer. Vào những ngày cuối tuần hay những ngày lễ như Thanksgiving hay Christmas chúng tôi thấy Ringer cùng các bạn của ông mặc vào tấm áo choàng màu đỏ, choàng phủ phía trước ngực và phía lưng, trên có in dấu hiệu của The Salvation Army và có dòng chữ: I Am A Bell Ringer. Người bell ringer tay cầm cái chuông đồng nhỏ đứng lắc chuông bên cạnh cửa ra vào tại các khu chợ. Người hảo tâm bỏ tiền vào cái thùng đỏ có nắp khóa kín, treo trên cái giá 3 chân. Hai năm ở bên cạnh ông tôi biết thêm rất nhiều điều về The Salvation Army, một tổ chức quốc tế được hình thành từ năm 1865 tại Luân Đôn để giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất cho cho những người kém may mắn trên toàn thế giới, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Bằng vào cố gắng tích cực của cô bé 16 tuổi tên Eliza Shirley, một di dân gốc Anh, Tổ chức được du nhập vào Mỹ từ năm 1880 với chi nhánh đầu tiên ở New York City. Các con tôi thì có bên cạnh một nhân vật sống để nghe, để biết và để học những bài học quí giá về tình người. Thằng con lớn của tôi đã gia nhập The Salvation Army ngay sau khi tốt nghiệp đại học hồi năm 1992. Ông Ringer trông thật hào hứng mỗi lần nói chuyện với chúng tôi về công việc lắc chuông của ông. Công việc nào thì cũng có niềm vui, nỗi buồn. Nhưng với ông Ringer thì suốt mấy mươi năm lắc chuông, ông chỉ có niềm vui, ông quả quyết nói với chúng tôi như vậy. Ông không có nỗi buồn. Ông lắc chuông xin tiền, có người cau có với ông, ông cười tươi đáp lễ. Có người ngước mặt làm ngơ, ông thương cho họ và cầu nguyện cho họï.Thỉnh thoảng có người mua cho ông bữa ăn trưa hay một chai nước uống, ông vui vẻ cảm ơn.

Trên chục năm trước, có em nhỏ tự nhiên rời tay mẹ, chạy tới kéo ông ngồi xuống, hun một cái chụt vào má ông, rồi bé kề tai nói với ông rằng bé thương ông quá, khi lớn bé sẽ làm như ông. Chuyện đã xảy ra thật. Cô bé 5 tuổi lúc ấy đã không đợi khi lớn mới thực hiện được lời hứa với người Bell Ringer nơi cửa chợ. Lúc 7 tuổi, cô bé biết bày ra một cái bàn đặt bên lối ra vào công viên gần nhà để bán nươc giải khát vào mỗi cuối tuần. Cô bé đã kiếm được vài chục đồng mỗi tháng. Người ta mua nước lemonade của em như là một cách giúp em thực hiện ước muốn của mình. Mỗi năm, đúng vào buổi chiều trước ngày Lễ Giáng Sinh, Christmas Eve, như một hẹn ước bất thành lời, cô bé đến gặp người Bell Ringer của cô, thân mật nói những lời chúc lành với ông rồi nhét vội món tiền góp nhặt cả năm vào cái thùng 3 chân màu đỏ. Năm nào cô cũng làm như vậy, hơn chục năm rồi. Cô bé gọi ông là Ringer. Ông gọi cô là Little Santa. Như vậy là đã đủ cho một sự quen biết nhau. Có lẽ cả hai không thấy cần phải biết tên thật của nhau. Họ biết họ đang làm gì. Có một lần vào đầu năm 82, ông Ringer hăm hở nói với tôi về một đồng tiền vàng, một loại gold coin, trị giá hơn 200 đô la, lần đầu tiên được một người bí mật nào đó bỏ vào thùng tiền tại Chicago. Rồi sau đó cứ mỗi lần một nơi nào đó nhận những đồng gold coins thì ông Ringer đều cho tôi hay để cùng vui với ông. Nhiều khi ông chỉ ghé nhà tôi một vài phút đồng hồ chỉ để thông báo những tin vui như vậy. Chẳng hạn như hồi năm 85, một người nào đã bỏ vào thùng ở thành phố Kirsville, bang Missouri, một đồng gold coin sản xuất 20 năm trước cuộc Nội Chiến, có giá trị cả ngàn đô la; đủ cho một nhóm hơn trăm người nghèo có một bữa ăn Giáng Sinh thịnh soạn.

Hàng năm, như là một trò chơi nhân hậu tốt đẹp từ một hay nhiều nhà hảo tâm bí mật, những đồng gold coins cứ rơi vào nơi nầy, nơi nọ; đến nay tổ chức The Salvation Army nhận được hơn 300 đồng gold coins. Năm năm trước, ông Ringer của tôi muốn có một đồng gold coin rớt vào cái thùng của ông coi như quà sinh nhật thứ 80 của ông. Mùa Giáng Sinh năm đó rồi cũng qua, lễ mừng sinh nhật của ông cũng đã qua mà đồng gold coin cũng chưa chịu đến với ông. Ông than với tôi là các đồng gold coins vẫn chưa chịu xuôi Nam. Tôi an ủi ông rằng ông đã nhận và đã cho biết bao nhiêu là những đồng gold coins từ cả sáu mươi năm nay rồi. Một tuần trước lễ Giáng Sinh năm nay, từ một nơi cách xa tỉnh nhà hàng ngàn dặm, xem báo tôi thấy loan tin nhân viên Salvation Army tìm thấy một đồng vàng tên là South African Krugerrand bọc trong một đồng bạc giấy, có lẽ người bí mật muốn tránh tiếng kêu khi bỏ vào thùng ở trước cửa một tiệm Walgreens trên đường West University của Houston.

Đây là lần đầu tiên một đồng gold coin trị giá 400 đô la đã xuôi Nam, đã đến Houston. Tự nhiên tôi thấy vui và nghĩ ngay tới ông bạn già Ringer của tôi. Tôi bỏ lững cột báo tại đây, không muốn đọc tiếp tên người bell ringer để được hồi hộp mà nghĩ rằng chính cái thùng tiền của người Ringer thân mến của tôi đã nhận được đồng tiền quí hiếm ấy. Có thể lắm chứ. Ở cái tuổi 85, người Bell Ringer của tôi không còn bao nhiêu ngày tháng nữa. Chẳng lẽ niềm mơ ước của ông không thành sự thật sao?


Bây giờ nhận được tin ông mất, tôi thấy dù cho đồng tiền ấy có rơi vào thùng của ông hay không thì ông cũng là người đón nhận và phân phát nó, cũng như ông đã đón nhận hàng vạn tấm lòng vàng và phân phát hàng ngàn đồng tiền vàng trong suốt hơn sáu mươi năm làm người lắc chuông giữa chợ.
Cả cuộc đời ông, ông cũng đã cho thiên hạ rồi!

Ông Otis Clark, người Bell Ringer của tình thương, chúc ông ngàn đời yên ngủ trong niềm mến yêu của những người khốn khó. Ông ngủ nhưng tiếng chuông đồng của ông vẫn còn rung trên tay của cả ngàn người khác tiếp nối ông. Khi những trái tim còn biết thổn thức thì tiếng chuông đồng còn ngân vang. Bằng cách nầy hay bằng cách khác, tình thương luôn có mặt trên thế gian nầy. Cô bé 7 tuổi đã biết đem những đồng tiền nhân nghĩa đến gởi gấm ông. Cô bé ấy bây giờ là một thiếu nữ và vẫn là người Santa Nhỏ Bé của ông, vẫn hàng năm làm nhiệm vụ của một Ông-Già-Nô-En-Có -Thật.

Ngủ đi ông, The Bell Ringer , người hàng xóm tuyệt vời của tôi.

Trần Bang Thạch

TRỞ VỀ ĐÂU TRANG

Sunday, December 13, 2009

Màu Xanh Noel - Như Quỳnh - pps Châu Bảo Nguyễn (Post DĐĐT) -


Màu Xanh Noel
Nguyễn Văn Đông


Mùa Giáng Sinh xưa anh hẹn anh sẽ về
Ngày đó Noel bên hội sao trần thế
Anh có nhớ không anh
Em mặc màu áo xanh lam
Xanh như liễu Đà Lạt
Một chiều đông Giáng Sinh

Ngồi chờ Rê vây nông (Réveillon)
Anh kể tích xưa rằng
Vào một đêm giá lạnh
Rờp trời hào quang thiên thần
Và nơi hang Bê-Lem
Thiên Chúa sinh
Trên máng cỏ là con Chúa trời

Ngày tháng trôi đi qua mau
Mùa sao sáng năm nào
Giờ cũng Noel một mình em thẫn thờ
Quỳ bên hang đá nguyện cầu
Một người chân mây gió
Được sống gần nhau

Tà áo năm xưa
Xanh màu thông Đà Lạt
Dành đến năm sau
Khi cùng anh dạo phố
Để nhớ Giáng Sinh xưa
Kỷ niệm ngày Chúa ra đời
Cho em sống lại màu xanh ái ân

TRỞ VÊ ĐẦU TRANG

Friday, December 11, 2009

MERRY CHRISTMAS and HAPPY NEW YEAR
CELINE DION " Oh Holyday night




KELLY CLARKSON : Oh! Holynight

Friday, December 4, 2009

<object width="425" height="344">



Phim “Việt Nam, Việt Nam” Được Công Bố Sau 37 Năm bị dấu kín



xin vui lòng cho vài giây.

Thursday, December 3, 2009

Cổ Lai Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi

Lưu Trùng Duơng

[Chuyện kể của phu nhân cố Thiếu Tá LLĐB]
(Hình : QĐ di tản từ vùng Cao Nguyên VN)
Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh.

Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngũ làm Cộng quân khiếp vía, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -- đến trong âm thầm và रा
đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng। Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua dòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lìa Nam Bắc.


Vượt Trường Sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc "Sanh Bắc Tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nỗi chết toa rập cùng sương lam chướng khí chực chờ!!!Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông Đại Úy Nguyễn Văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan Văn Ninh, Lê Kỳ Lân, Nguyễn Bính Quan, Nguyễn Văn Tùng và chồng tôi là Hồ Đăng Nhựt. Đại Úy Nguyễn Văn Khách đã Chỉ Huy Trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó Thiếu Tá Thơm và Đại Úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của Đại Úy Xuân không có vết sẹo nào! Có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho. Đại Úy Xuân từ bên Sư Đoàn Dù về, hai ông này là Xử Lý của Trại Đằng Vân.

Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả Trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như Trại Đằng Vân của LLĐB. EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI. Đến năm 1965, ở tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nỗi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: Bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nỗi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát... sợ anh về trên đôi nạn gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về "Bên hòm gỗ cài hoa...", chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài.

Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sài gòn. Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "Nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm gì có Áo Lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghĩa, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi.

Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ Đăng Nhựt dấu yêu của em! Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp Thiếu Tá Thơm, Đại Úy Mai Việt Triết và Đại Úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: Thiếm đã đến trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giã chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ: "Bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái.

Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng Đông Bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!! Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh... thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó!!!

Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn Thượng Đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn. Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng Trại Đằng Vân là Phan Duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa.

Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên, v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều… Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là Đại Úy Nghi và Nguyễn Văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn".

Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều Phi Công Trực Thăng của Không Lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có Trung Úy Phi Công Trực Thăng Nguyễn Văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực. Từ trên cao Trung Úy Vui bỗng thình lình "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH. Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng 2 Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sài gòn, anh Nguyễn Ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -- người em rể trở về Sài gòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, Trung Úy Nguyễn Văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nửa năm sau ông Phạm Duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm Trưởng Trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua Trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh.

Đến năm 1969 anh coi Trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972. Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn... bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quãng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân Miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!! Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ sung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỹ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT.

Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuộc và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, Thiếu Tá Cao Triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông Thiếu Tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui.

Vì vậy, anh đã nhờ Thiếu Tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn. Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bốc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng.

Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng Thiếu Tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phía Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, Thiếu Tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng. Như thường lệ mỗi sáng, từ khu cư xá gia binh của Trại Nguyễn Cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy Trung Úy Thọ và Thượng Sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin:

-Xin chị bình tỉnh, tin chính xác báo cho biết Đại Úy Hồ Đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đảo, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ".

Trời ơi, Hồ Đăng Nhựt ơi! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của Thiếu Tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi! "Em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặn sim bạt ngàn. Bây giờ "Áo bào đã thay chiếu anh về đất", yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!

ĐÁ NÁT VÀNG TAN.

Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xả, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau. Chỉ có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn... Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn Cao Vĩ...., tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sài gòn, cơn đá nát vàng tan đã đến.

Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập Thủ Đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sài gòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lã chã, một chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao. Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc, Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẽm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày sô "shaute" còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? Chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui. T

ôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào? Tôi lại trở ra đường Nguyễn Văn Thoại, vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.

Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giã cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son...". Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???

Cuộc đời sao lắm nỗi truân chuyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính?! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi như thế. Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cỗ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: Dương-Cảnh. Tôi còn gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!

ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ.

Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt..., nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác? Cuối cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hốc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản.

Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas City đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này. Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về Miền Cali nắng ấm tại Quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được Đại Tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu...

Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin Đại Tá Ngô Thế Linh đã từ trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giỗ của chồng tôi rất trọng thể, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó, cao quý thay cho cái tình Huynh Đệ Chi Binh.

Những chiều ở đây mỗi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ Đăng Nhựt -- chồng của tôi, anh đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau Bại Trận luôn đeo đẳng theo các anh -- những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài quỷ đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.

CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI.

Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ đìu hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong Trại Gia Binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mỗi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi", hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lìa "Vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa". Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng bây giờ là tháng 3, đã 34 năm dài, Mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng".

Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt -- người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC. San Jose, Mùa Quốc Nạn

TRƠ VÊ ĐẦU TRANG

Wednesday, December 2, 2009

Cờ VNCH trên xứ ..... Iraq

Băng video thường đem những tấm gương sáng, những thành tích làm rạng danh cộng đồng của tuổi trẻ Việt Nam tại hải ngoại vào các sản phẩm của họ, ví dụ như Nữ Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, Giáo sư Đinh Việt,...

Kỳ này tôi mục kích một người trẻ khác trong giới quân nhân Hoa Kỳ। Tuổi trẻ Việt Nam tại đây được xã hội này cưu mang, ngược lại họ đã ý thức được bổn phận và trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, rất nhiều thanh niên nam, cũng như nữ đã tình nguyện gia nhập quân đội Mỹ, thậm chí đã có những người trai trẻ này ra đi vì nghĩa vụ. Thật vậy, tuổi trẻ Việt Nam đáng ca ngợi.

Trước mặt tôi là hình ảnh người trai trong quân phục camouflage của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Được biết anh là Đại úy Michael Đỗ, nguyên là một thuyền nhân, theo gia đình đến định cư tại Hoa Kỳ năm 1980 khi vừa 4 tuổi.Và là con trai duy nhất của một cựu Đại úy QLVNCH đã từng trải qua bao tháng năm trong trại tù “học tập cải tạo”, vì thế sau khi học xong Trung Học, Michael Đỗ đã quyết định tiếp tục xứ mạng dở dang của thân phụ mình để gia nhập quân dội Hoa Kỳ. Anh đã tốt nghiệp trường đại học quân sự nổi tiếng West Point, và đồng thời anh còn theo đuổi việc học để trở thành một kỹ sư ngành chế tạo hỏa tiễn hay thiết kế phi đạn (missile design). Ngoài ra, anh còn có bằng Tiến sĩ ngành Quản trị Hành chánh. Vào năm 2005, Đại úy Michael Đỗ nhận lệnh đi chiến đấu tại Iraq , và đồn trú tại một thành phố đầy biến động là Fallujah.


Với tư cách là một kỹ sư trong quân đội, anh được biệt phái làm việc trong Bộ Tham Mưu của Thiếu tướng Stephen Johnson. Anh tham gia trong những kế hoạch bình định xứ sở nhiểu nhương Iraq .Anh cũng có dịp đón tiếp một người cựu chiến binh tại Việt Nam là cựu Trung tá Oliver North, khi hai người trao đổi kinh nghiệm Iraq và Việt Nam .Điều quý hóa của người trẻ gốc Việt này, anh mang canh cánh trong lòng về nguồn cội Việt Nam và nhớ về quê Cha đất Tổ, nơi mà máu xương của các chiến binh QLVNCH đã anh dũng hy sinh để bảo vệ giang sơn bờ cõi, nên để ghi nhớ công ơn của thế hệ đi trước .Anh luôn luôn dựng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ tại Bộ Chỉ Huy hành quân của đơn vị mình. Quả thật đáng khen cho một tấm lòng son sắt với cội nguồn Việt Nam . Tôi thiết nghĩ dù Asia làm sản phẩm thương mại, nhưng những hãnh diện về Việt Nam nên tiếp tục nêu lên để khắp năm Châu cùng biết. Những vấn đề chung từ văn học có những nhà văn, nhà thơ tranh đấu cho ý nghĩa chung, những mối ưu tư chung trong cuộc sống như Tsunamis, Katrina, Xangsane hay Durian, hãy nhìn về quá khứ khổ đau, nhìn rõ thân phận con người Việt Nam khi vượt biên, dù xót xa vì thiên tài bị chôn vùi với Văn Cao, Hữu Loan, Hoàng Cầm hay vinh hiển lãnh giải Rafto với Hòa thượng Quảng Độ, để rồi ngày nay đây hãy nhìn về tương lai có những gương sáng của tuổi trẻ Việt Nam, những hãnh diện của Việt Nam ngày mai. Bài viết này xoay quanh cái nhìn cá nhân khi nhận xét về những nét đặc trưng của video giải trí Asia , kèm theo những khía cạnh sâu xa nào đó với những nhận định riêng tư trong ý nghĩ của tôi. Việt Hải


TRỞ VỀ ĐÂU TRANG

Tuesday, December 1, 2009

HỘ khẩuU Ở NGOẠI THÀNH
Thảo Trường , Mar 01, 2009

Chuyện của Saigon thời mất tên. Chuyện của một chế độ mới. Chuyện của một lớp người mới. Chuyện của những bon chen cơ cực, những đổi thay kinh hoàng. Cuối cùng tác giả đã phải cay đắng và căm phẫn kêu lên: “Làm gì có... tình yêu trên cõi đời này hả em. Chỉ có khoai sắn và bạo tàn. Chỉ có thể xác và quyền lực.” Có bi quan , bi đát và bi ai quá sức không, tác giả Thảo Trường?

Văn của Thảo Trường bình dị, suông gọn và hơi sống sượng. Tôi biết tác giả đã từng bị Cộng sản nhốt tù “cải tạo” 17 năm dài đằng đẵng, không những “hộ khẩu ở ngoại thành”, mà cái linh hồn của ông cũng ở ngoài thân xác của ông.

Công việc là công việc của con ở, ăn uống là ăn uống như con ở, ngủ dưới bếp như con ở, và, ông bà cũng có trả tiền trước một năm công làm cho bố mẹ cháu như là trả công cho con ở. Nhưng con bé luôn luôn được giới thiệu với mọi người là một đứa cháu ngọai, ông bà cưu mang đem về nuôi nấng, dạy dỗ, thương yêu.
Nó cũng thích được ở với ông bà, làm lụng có vất vả tất bật tối ngày nhưng được cái ăn uống ê hề, chỉ thức ăn dư thừa cũng đủ no bụng hơn là ở nhà. Mà ở nhà với bố mẹ thì cũng vẫn phải làm lụng khó nhọc lại chẳng đủ ăn. Cho nên nó rất là mãn nguyện được đi ở, đem về một món tiền cho bố mẹ nuôi các em.

Ông bà cháu là nhà giầu trong ấp này. Căn nhà gỗ lim năm gian, lợp ngói, có vườn rộng, có điện thắp sáng, có TV xem tin tức và video xem phim bộ. Ban ngày làm các công việc quét dọn lau chùi nhà cửa, rứa chén bát nồi niêu xoong chảo, giặt ủi áo quần, nghe mắng chửi, nhưng trong đầu nó vẫn cứ luần quần với những hình ảnh trên TV và trong các phim truyện Hồng-kông, Đài-loan...

Nó thoăn thoắt làm hết việc này tới việc khác để mong cho chóng đến tối được xem TV. Ông bà hay các cô cậu sai bảo việc gì con bé cũng nhanh nhẹn vâng lời làm ngay cho nên bà rất là hài lòng khen ngợi cháu ngoan. Ông ít khi sai bảo hay la rầy nhưng bà và cô út điều khiển cháu chạy như con cù suốt ngày.
Con bé là đứa dễ sai nên bà và cô út cũng không phải bận tâm về nó. Có lần nó nghe bà nói với cô út rằng "Mướn được nó dễ sai và chăm làm là may đấy, mày đừng chửi nó quá lỡ nó thôi không ở nữa thì chẳng kiếm ra ai như nó được đâu."

Nghe lén được như thế nên nó cũng hài lòng và càng chăm chỉ hơn để được bà khen.

Buổi tối khi xong công việc, con bé chen vào ngồi dưới nền với lũ con nít hàng xóm nghếch mắt nhìn lên TV theo dõi hình ảnh trên đó cho đến lúc buồn ngủ rũ ra thì lần vào tấm ván ngựa ở nhà bếp làm một mạch cho đến sáng với những giấc mơ Hồng-kông và Đài-loan.

Hồi mới đến ở, nó cứ nghĩ mình là cháu yêu của ông bà thật nên rất tự nhiên ngồi lên chiếc ghế bành xem phim, ông không nói gì nhưng khi bà ra thì bà đuổi:
- Xuống dưới nền nhà ngồi với lũ chúng nó mà xem. Chân bẩn như chân... chó mà dám "thượng" lên ghế bành ngồi như bà... tướng.

Sau lần đó con bé sợ quá, cạch đến...già không giám trèo lên, bèn tối tối ngồi chen chúc nhập cuộc với lũ trẻ con hàng xóm sang xem nhờ. Thỉnh thoảng cũng có những xáo trộn gây ra do cô cậu tranh dành đòi xem kênh 7 hay kênh 9, đổi đài rồi lại đổi đài, hoặc là khi coi video thì cô c cậu đòi xem phim Hồng-kông hay Đài-loan trước, đổi băng rồi lại đổi băng. Nhưng những xáo trộn tranh dành ấy cuả các cô cậu đều bị bà dập tắt ngay. Khi có bà ngồi xem trước máy thì kể cả ông chứ đừng nói đến các cô cậu, được quyền đòi hỏi theo sở thích. Bà đang coi phim đánh chưởng thì dù ông có muốn theo dõi trận túc cầu chung kết mondial cũng chẳng đươc. Bà nói:

- Đá bóng thì có cái gì hay ho mà phải coi. Tranh dành nhau một quả bóng đến lọi xương lọi tay, ích lợi gì...

Lúc ấy ông thở dài bước ra hàng hiên hút thuốc, lũ con nít thì phần đông là khoái coi phim với bà, bà bao giờ cũng là có lý và được lòng người.

Ông bà giầu vượt nổi lên trong ấp là nhờ bà làm ăn trúng mối. Bà có một năng khiếu nhạy cảm bén nhọn. Bà biết nắm thời cơ, biết tính toán hơn thiệt, biết nhìn xa trông rộng, biết quyết định đúng lúc. Bà giắt ông và mấy đứa con theo bén gót đoàn quân viễn chinh vào giải phóng Miền Nam, một miền đất mới có nhiều cơ hội làm giầu hơn là cứ lì mãi ở cái xứ Bắc còm cõi mòn mỏi với khoai sắn phân phối và tem phiếu định kỳ. Những đồng chí cách mạng tiên phong vào giải phóng trước thì tiếp thu những cơ quan trung ương trong thành phố, họ cư ngụ ở những nơi nhà cao cửa rộng. Bà và ông chồng hiền lành của bà với lũ con trẻ dại đi sau thì tiếp thu ở ngoại thành vậy. Rồi sẽ tiến lên.

Lúc đầu bà tiếp thu được một căn nhà của thương phế binh thua trận. Lo cho chồng con có chỗ ăn ở xong bà lại theo đoàn quân chiến thắng viễn chinh sang giải phóng nước láng giềng, gọi là làm nghĩa vụ quốc tế, giúp nước bạn thay đổi chế độ cộng sản chống ta thành chế độ cộng sản thân ta, cho nhà nước ta được an toàn. Chồng con bà cứ an nhiên sống ở căn nhà tiếp thu được trong làng thương phế binh ngoại thành, để cho bà rảnh tay xuất nhập đi tới đi lui như đi chợ sang nước láng giềng. Mấy năm sau thì bà đã làm được nhiều chuyến hàng xuất khẩu trầm hương qua biên giới bằng xe tải cuả quân đội nhân dân, đồng thời lại còn đẩy được đứa con gái lớn qua luôn biên giới Thái Lan xin được nhập cảnh vào nước Mỹ với tư cách là tị nạn chính trị chống lại chính sách cộng sản bạo tàn.

Bà tổ chức được một thệ thống thu mua gỗ trầm suốt dọc rừng rậm trường sơn, cũng là do các bộ đội cụ Hồ săn nhặt bán cho bà. Chính ra các anh bộ đội cũng chẳng biết gì về nghề "ngậm ngải tìm trầm" nhưng nhờ óc sáng tạo tài tình, thấy dân làm được thì các anh cũng làm được ngay. Có anh lại khỏi cần đi rừng, cứ đặt chốt trên những cửa rừng mà tịch thu là dễ dàng ngon ăn nhất. Rừng là tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghiã là thiêng liêng không được xâm phạm, gỗ trầm lại là thứ tài sản quí cấm chỉ, không ai được tự ý lấy làm của riêng, cũng như mỏ vàng mỏ bạc mỏ dầu vậy. Kẻ nào lấy làm của riêng là ăn cắp, là phi pháp, là phạm tội. Bộ đội bắt được tịch thu hàng, bỏ tù người. Muốn khỏi ở tù hãy bỏ của chạy lấy người. Cãi lý với người cầm súng thì vùi thây nơi rừng già không về nữa.

Buôn gỗ trầm cũng là hành vi phạm pháp, đem bán ra nước ngoài tội còn nặng hơn, nhưng tất cả những việc làm đó, tìm trầm trong rừng sâu và chuyên chở sang Campuchia đều đã có các anh chiến sĩ làm cho bà. Bà cầm đầu một hệ thống thu mua và một đường giây chuyển lậu qui mô an toàn.

Bà lại có nhan sắc, khoé mắt viền môi của bà rất mời mọc, phải công nhận thế, cho nên bà giao tiếp với ai cũng được cảm tình. Có khi là anh anh em em, cũng có khi là chị chị em em, tùy đối tượng, tùy tuổi tác, tùy cấp bậc chức vụ, tùy tham mưu hay chính ủy, "phi vụ" nào cũng trót lọt dễ dàng như... húp cháo. Ăn chia đầy đủ và sòng phẳng, suốt mấy năm thành công tốt đẹp.

Ở Nam Vang bà ngụ tại khách sạn trung tâm thành phố đầy đủ tiện nghi, có bạn bè khách khứa ăn uống vui vầy, có nhảy đầm, tẩm quất, cho thư giãn cơ thể, nhưng khi về nhà với ông chồng thì bà mô tả công cuộc làm ăn buôn bán như là đi hành quân chống Mỹ cứu nước, đói khát, muỗi mòng, ngủ bờ ngủ bụi, trăm cay ngàn đắng... Ông chồng nghe kể và nhìn thấy tiền vàng bà kiếm được mang về thì cảm động lắm, ông càng phải đáp ứng tấm lòng hy sinh tận tụy của bà.

Cấy được một đứa con vào nước Mỹ, lại có mấy trăm cân vàng làm giầu, bà bèn mua căn nhà lớn có vườn rộng phía ngoài và bán lại căn nhà đã "hóa giá" trong làng phế binh chế độ cũ cho một phế binh chế độ mới.

Anh phế binh này bị mù hai mắt trong một chuyến hành quân viễn chinh nước bạn. Bà quen biết anh ta thời gian bà làm ăn kinh doanh gỗ trầm với nhóm bộ đội ở bên đó. Anh này là "chiến sĩ lái" nên cũng được chia chác một khoản, may là anh bị mù trước khi tổ chức bị đổ bể, cả lũ giắt nhau đi tù, riêng anh thoát nạn bèn về cư ngụ ở chỗ gia đình bà.

Tổ chức bị bể vì một lý do lãng xẹt, mấy anh thượng úy có nhiều tiền sinh tật ăn chơi, cãi lộn nhau ở quán nhậu, một anh say sưa chửi thề nói toẹt ra những bí mật làm ăn, công an khu vực nghe được, tóm cổ đem về trình lên, điều tra lòi ra cả lũ. Bà cũng bị vào tù nhưng chỉ mấy năm sau bà ra trại sớm vì "bệnh án" , vì bà có vàng, vì bà khôn lanh, vì bà "cải tạo tiến bộ". Mấy anh thượng úy chung vụ với bà còn ở lại học tập mút mùa.

Trong trại giam bà được tôn lên làm "nữ hoàng trầm hương" và là "trùm buôn lậu quốc tế". Bà ủng hộ trại một cây vàng để chuyên làm công tác giáo dục phụ trách nhà giữ trẻ, không phải đi cuốc đất, khỏi chân lấm tay bùn đầu tắt mặt tối. Số bà sướng cho nên vất vào chỗ nào bà cũng sướng. Hành quân cũng sướng. Ở tù cũng sướng. Số bà "vượng phu ích tử" cho nên chồng con bà cũng sung sướng theo.

Nữ chiến sĩ hậu cần của đoàn quân chiến thắng không những chỉ chiếm được Miền Nam, chiếm được Campuchia, bà còn...chiếm được cả ông sĩ quan chồng của một bà Việt kiều ở Mỹ. Ông sĩ quan cộng hòa ở tù cải tạo gặp "nữ hoàng trầm hương" vài lần là "say" luôn. Vợ con ông di tản sang Mỹ, ông bị kẹt lại, đi tù, lâu ngày, nhìn thấy "nữ hoàng" trắng trẻo, hấp dẫn, đôi mắt bà nhìn đi đâu cũng như là nhìn ông, cúi mặt xuống cười chúm chím mà cũng hình như là cười với ông. Thân hình mảnh mai mà sao hai vú bà thây lẩy, bà quay qua quay lại, ngẩng lên cúi xuống, đi, đứng, nằm, ngồi...cách gì cũng thấy nó thây lẩy. Chết người được. Đã vậy có lần gặp nhau ở sân trại giam, người nữ tù hình sự lại còn trách ông sĩ quan tù chính trị:

- Miền Nam đẹp thế mà anh không biết giữ đón em vào, để cho họ chiếm được lại còn bỏ tù cả hai, biết đến bao giờ mới ra.

Ông sĩ quan tù binh trách:

- Chính em vào giải phóng và tiếp thu rồi bắt tôi bỏ tù còn nói gì nữa.

- Em mà giải phóng cái gì, em chỉ đi "làm kinh tế" thôi. Em cũng đâu có muốn bỏ tù anh, nếu quyền bính trong tay em thì em đã giam giữ anh ở nhà em cơ. Vì không có quyền em mới tìm đường vào đây gặp anh. Khi nào ra tù ở với em nhá.

- Tôi mất tất cả rồi, ông Thiệu bảo thế, không còn gì, nhà cửa xe cộ tiền bạc... mất hết, làm sao bao bọc em.

- Còn. Anh vẫn là anh. Đâu có mất tất cả như tổng thống nói, ông sĩ quan cộng hòa ạ. Em có nhà có vàng, em sẽ bao bọc anh, coi như em bắt được anh làm...tù binh.

- Thế còn chồng em để ở đâu ?

- Ra tù là em đốt. Vợ vắng nhà ông thần lẹo tẹo với mấy con "cái" trong đơn vị, con em nó lên thăm nói cho biết. Trước đây, hồi còn bé ở ngoài bắc em nghe nói trong nam có bà chế xăng đốt chồng phải không? Hết ý! Em sẽ trừng phạt kiểu đó.

- Rồi em đi tù nữa sao.

- Ờ nhỉ, thôi bỏ qua. Thây kệ. Ở chung. Em quản lý được cả hai. Em là cán bộ hậu cần xuất sắc có nhiều thành tích huân chương cao quí và giấy khen. Chỉ sợ anh đi Mỹ với vợ anh.

Rồi bà nháy mắt:

- Bắt được tù binh mà để sổng thì uổng lắm. Chiến thắng mất cả ý nghĩa. Phải giữ cho bằng được thì thắng lợi mới toàn diện và triệt để.

Không ngờ ít lâu sau ra trại hai người gặp nhau thật, "nữ hoàng" chạy chiếc xe cub của con gái lên Saigon tìm đến chỗ ông sĩ quan cựu tù chính trị tạm trú chờ xuất cảnh sang Mỹ. Họ ở với nhau cách nhật, hai ngày gặp một lần. Bà khoe có người thợ tẩm quất mù điệu nghệ, và có lần còn chở anh ta lên đấm bóp cho ông.

Anh mù ngồi phòng ngoài hút thuốc uống nước, chờ họ yêu nhau xong hiệp một thì vào xoa nắn cho hai người. Khi họ cảm thấy thư giãn lại mời anh mù ra phòng ngoài hút thuốc uống nước tiếp để họ yêu nhau hiệp hai.

Đến chiều bà lại chở anh phế binh cựu chiến sĩ lái về vùng ngoại ô, bà dúi vào tay anh tờ giấy xanh 10 đô, nói của ông khách trả công. Bà hậu cần bỏ tiền túi bao bọc cho người sĩ quan thất trận. Vợ con từ Mỹ gửi về cho ông mỗi tháng hai trăm, ông sĩ quan cũng đem ra tính bao gái nhưng bà nói ông giữ mà... tiêu vặt, tiền Việt kiều cho ông chỉ bằng tiền lẻ của bà cất giấu. Bà nói đùa "Nhân dân làm chủ. Em là nhân dân."

Bà cất dấu tiền và vàng ở một chỗ chỉ mình bà biết. Bà dấu chồng dấu con vì bà không tin ai. Bà sợ chồng biết sẽ đem cho gái. Bà sợ các con bà biết sẽ tiêu xài phung phí phá nát tài sản của bà. Có nhiều lúc bà cũng lo sợ nếu chẳng may bà gặp tai nạn thì rồi của cải ấy sẽ ra sao vì trên đời này không một ai biết chỗ cất dấu. Nhưng nỗi lo chồng con phá hại lớn hơn nỗi sợ tiền của mất hút.

Cho đến khi bà bập phải người tình sĩ quan chế độ cũ thì đã có lúc bà định trao phó của cải bí mật ấy cho chàng! Đúng là đến cái lúc...ái tình nó làm cho bà hồn nhiên ngây thơ ra. Bà chưa chỉ chỗ bà giấu của cho chàng nhưng bà đã bất chợt đề nghị trả cho bà Việt kiều vợ của chàng một tỉ bạc tiền ta, tương đương với gần một trăm ngàn tiền Mỹ, nếu như bà ấy về đón chồng đi.

Bà nhìn người tình nhân nằm bên cạnh đang lim dim đôi mắt nhìn lên con nhện chăng tơ trên trần nhà. Đôi mắt chàng ôi chao sao mà quyến rũ mê hồn, bà chưa thấy đôi mắt nào có hấp lực với bà như thế. Bà chợt nhận ra rằng đôi mắt của chồng bà và cả những gì khác nữa của ông cũng đều...tầm thường không thể chịu được. Bà đã không nhìn ra những cái vô duyên của chồng. Cái mặt hô vô duyên, cái tóc bù xù vô duyên, cái tay khẳng khiu vô duyên, cái chân xương xẩu vô duyên, rồi cái đầu gối cục mịch trên cái chân đó cũng vô duyên luôn, đừng nói tới những cái ngón chân quê mùa, nước da tai tái quê mùa. Bà thấy chồng bà in hệt các anh lớn ở trên, từ bác cho đến các anh cả, anh hai, anh ba, anh tư, anh năm, anh sáu, anh bảy anh mười, anh nào cũng giống nhau tai tái, vô duyên Chỉ khác là họ trèo lên được chỗ cao mà ngồi mà hưởng, còn chồng bà suốt một đời làm anh đảng viên quèn, chuyên môn vỗ tay hoan hô phe ta và vung tay đả đảo phe địch, khư khư ôm cái hào quang "sự nghiệp cách mạng" và "quyền lợi chính trị" không tưởng. Phải chi chồng bà vung lên được, không bằng anh mười thì ít ra cũng ráng thành anh Đỗ 20 cho em thừa cơ "bên tầu có loạn", xây dựng sự nghiệp cho bằng các anh ấy. Không, người đảng viên chân chính chồng bà không phất lên được, không tỉnh ra được, thì bà phải trưởng thành trong gian nan khói lửa của cách mạng thôi.

Bà nghĩ mình may mắn thoát ra khỏi cái vỏ ốc mượn hồn ấy và kịp chụp giật được một khoản cụ thể cách mạng dấu đi làm của riêng. Chứ cứ như ông chồng của bà thì chỉ để cho lãnh đạo xử dụng làm tay sai, công cụ, quân cờ Chồng bà không biết chen chân lên làm anh lớn như các anh lớn để bà làm chị lớn quyền thế cho bõ với gian khổ hy sinh trường kỳ. Bà nghĩ không hiểu sao, thật không hiểu sao bấy lâu nay bà không nhận thấy nó như thế. Phải đợi đến bây giờ, đợi đến lúc "bắt gặp" đôi mắt chàng, đợi đến lúc tuổi sắp già bà mới nhận chân ra sự thể não nùng ấy !

Bà cũng tiếc cho bản thân mình, sao không vùng lên chơi bạo hơn nữa, sao bà chỉ có gan làm giầu mà không có gan làm lớn. Trách chi chồng bất lực. Chính bà cũng vẫn còn yếu đuối, chính bà cũng còn bị giới hạn trong vòng sợ hãi không giám bung ra cao hơn nữa.

Nhìn lại các anh lớn, có anh nào quá trình hơn vợ chồng bà đâu. Anh thì xuất thân là một tay hoạn lợn, anh thì làm bồi phòng dưới tầu thủy, anh cạo mủ cao su trong các đồn điền tây thuộc địa, anh thì đi ở thế mà các anh ấy nhảy lên ngôi vị đứng đầu cả nước, trong khi bà còn có đi học, còn là con gái Hà thành lại chịu lép cam phận xếp hàng ngay ngắn trong đội ngũ đảng viên mút mùa cho đến lúc bị họ gạt ra ngòai. Bài bản để trở thành nhà cách mạng lớn thì cũng chỉ là những khẩu hiệu phổ biến từ Liên sô sang đến Trung quốc, vào Việt nam sáng tạo bốc phét thêm nữa, chỉ cần nói năng sao cho hấp dẫn là ăn tiền. Các anh ấy đều leo lẻo thế cả. Chỉ tại mình không giám mà thôi. Nếu giám, biết đâu giờ này em đã%85 đón anh vào phủ chủ tịch.

Ông sĩ quan lắc đầu:
- Bà ấy không chịu đâu.
- Em trả giá thêm nữa.
- Em muốn mua anh à?
- Bao nhiêu em cũng mua. Người cộng sản phải dám nghĩ dám làm, giải quyết táo bạo.
- Nhưng anh biết vợ anh sẽ không bán.
- Một trăm ngàn đô la đâu có phải là ít.
- Anh ở tù lâu quá, xa cách xã hội lâu quá, nên bây giờ anh không còn biết được trị giá tiền tệ là bao nhiêu, nhưng anh biết được một điều là, vợ anh, bà ấy sẽ không bán chồng bán con.
- Tại sao? Tại sao anh biết ? Tại sao bà ấy lại không... bán.
- Tại vì bà ấy...không mua.
- Em thấy là anh còn thiết tha với vợ anh lắm. Nhưng em cũng đã từng thấy anh thiết tha với em không vừa, nhiều lắm, mọi lúc, mọi nơi, mọi lần, cả bằng mắt anh nữa, nhìn vào mắt anh em thấy ...tất cả ở trong đó.
- Mở cho anh lon bia. Châm cho anh điếu thuốc.
Bà mở tủ lạnh lấy lon bia, khui đưa ông, châm điếu thuốc hút một hơi nhẹ gắn vào môi ông. Xong bà nói:
- Ở lại với em anh sẽ làm chủ tất cả, em và của cải của em. Tất cả những thứ phi nghĩa.
- Nhưng cộng sản họ lại làm chủ anh.
- Không lo chuyện ấy. Tại các anh bị họ bỏ tù một lần nên anh nào cũng sợ, anh nào ra tù cũng chỉ mong chóng thoát ra nước ngoài. Như thế là chạy trốn. Anh đừng sợ gì cả. Với cộng sản nếu sợ là họ trấn áp , còn không sợ là họ cũng thua thôi. Em là...cộng sản em biết. Anh cứ ở lại yêu em chẳng ai làm gì được anh, không có đứa nào đụng được đến... lông chân anh. Chồng em cũng không làm gì được anh cho dù anh ta là đảng viên. Em tuy bị khai trừ nhưng em cũng đã từng là đảng viên, em bảo vệ cho anh, anh phải tin tưởng ở em, anh thân yêu ạ.
- Anh cũng rất muốn sống với em chứ.
Ông nói thế và cứ nghĩ đến nụ cười chúm chím mời gọi, đuôi mắt long lanh và nhất là hai vú thây lẩy. Người đàn bà sung sướng nhảy sà xuống chụp lên người ông. Thì ông lại bóp hai cái thây lẩy vậy. Điếu thuốc cháy rụi trên chiếc gạt tàn, lon bia sủi tăm không ai uống.
- Hay là em đi sang Mỹ với anh.
- Theo anh sang Mỹ cho vợ anh xé xác em ra à? Các bà vợ sĩ quan cộng hòa vẫn nổi tiếng là ghen ghê gớm.

Một lát bà nói tiếp:

- Phe cộng sản chúng em đã tạo ra được một thói quen làm cho tất cả thiên hạ đều phải sợ hãi. Đối phương sợ hãi đã đành mà chính ngay trong nội bộ cũng sợ hãi lẫn nhau. Thế thì tại sao lại không dùng cái uy tín sẵn có ấy mà xử sự. Bà ấy, vợ anh về đây chỉ cần hù nhẹ một tí là sợ hết hồn, bà nào cũng vậy, còn lòng dạ đâu mà ghen với tuông nữa, lo chuồn về Mỹ gấp. Nhưng nếu em sang Mỹ với anh thì chẳng khác nào nạp mạng cho các bà ấy làm thịt. Tan nát đời hoa là cái chắc. Em chẳng dại gì bỏ xứ mà đi. Ở đây tuy em bị khai trừ nhưng em đã biết hết các đòn phép, em rành rẽ các thứ "võ" cộng sản, em lại có nhiều tiền, em sống như bà hoàng, em chẳng tội gì phải đi đâu. Em đã có một đứa con là công dân Mỹ rồi thì em là mẹ của Mỹ chứ bộ. Em còn sắp làm bà ngọai của Mỹ con nữa cơ. Em cũng thích cái lối phét lác của anh sáu Thọ. Anh ta thường hay kể chuyện trả lời bốp chát Kissinger cứ y như chơi trò trạng Quỳnh trả lời sứ Tầu. Khi anh ta nói chuyện với Kissinger về việc dạy ở đại học Havard, Kissinger hỏi Thọ có bằng tiến sĩ không, "anh lớn" bèn nói không có bằng tiến sĩ nhưng là bố của tiến sĩ, chả hiểu tình tiết có thật như thế hay đi xa về bịa chuyện phét lác, nhưng bọn đảng viên chúng em thì rất khóai cái giai thọai học tập chính trị này. Em nghe miết những chuyện như thế nhiều rồi, em đã quen thân mất nết.

Các "anh lớn" bị bệnh huyễn hoặc hoang tưởng truyền cho đảng viên chúng em, nay bị di căn, cả bầy bây giờ sống và nghĩ và hành động như một lũ âm binh ma trơi quỉ ám không hồn. Nên em cũng phải khoe với anh rằng các cháu của em cũng sẽ đậu tiến sĩ của Mỹ chứ không phải phó tiến sĩ Liên sô và em cũng sẽ là bà ngoại của tiến sĩ như các "anh lớn" trên trung ương vậy. Anh nên ở lại đây với em, anh mà ở lại đây thì em sẽ cung phụng anh theo tiêu chuẩn Trung Ương Đảng, còn hơn cả tiêu chuẩn hưởng thụ của các đồng chí trong Bộ Chính Trị nữa cơ. Chúng ta sẽ là Trung Ương Đảng và là ông bà ngọai của các cu tý tiến sĩ thời đại. Anh yêu. Ở lại quê hương đi tù cộng sản chúng ta khổ như chó, sang Mỹ tuy không khổ nhưng anh cũng sẽ không sung sướng bằng chó, em nghe nói vậy có đúng thế không anh? Ở lại đây với em, chúng ta sẽ có kẻ hầu người hạ, chi ra tí tiền là có quyền sai bảo người khác. Sang Mỹ anh sẽ phải hầu người ta, nghe anh phải đi hầu thiên hạ em sót sa cả cõi lòng. Người ta nói đàn bà sang Mỹ thì sướng chứ đàn ông sang Mỹ khổ lắm phải không anh?

Ong cựu tù ngồi nghe mà cứ nghệt người ra không nói gì được, chi bằng thì hãy cứ hưởng cái tiêu chuẩn sẵn có này đã. Ong chậm rãi than thở:

- Anh là kẻ thất trận. Anh không biết gì đến cái tiêu chuẩn trung ương hay địa phương. Kẻ thất trận chỉ phải ân hận nghĩ đến những nỗi đau khổ của những người đã lỡ theo phe mình trong cuộc chiến và những oán trách của những người đã lỡ kỳ vọng chờ đợi cái ngày được phe mình giải phóng không bao giờ xảy ra.

Người đàn bà rên rỉ:

- Tội nghiệp cưng của em ! Anh không bao giờ thua trận cả.

Một lần nghỉ giải lao, người đàn bà đặt hai chân người đàn ông trên đùi mình tỉ mỉ cắt móng chân cho chàng.

- Ngón chân anh cũng... đẹp.

- Hai chân hai tay này đã từng lội bùn bốc phân trong các trại tù...

- Thôi, quên đi, đừng nhắc đến những thứ đó nữa. Em cũng đã từng bị cuốn hút vào cái phong trào lội bùn bốc phân như toàn quân toàn dân ngàn lần anh hùng.

Giờ đây những chân những tay này đã được đảng cử em săn sóc... thì còn oán trách nỗi gì .

Nói rồi bà cúi xuống mút từng ngón chân người tình, áp má bà vào gan bàn chân, bà thì thầm với cái chân đã ngâm bùn ấy:

- Ôi, không hiểu tại sao em lại thay đổi đến thế. Em chưa bao giờ làm thế này với chồng hay với bất cứ ai khác...Nhưng em bất cần, từ nay em từ bỏ hết, em bỏ đảng, em bỏ sự nghiệp, em bỏ chồng, bỏ tất cả để yêu anh. Anh có yêu em không ?

Yêu em theo kiểu cộng hòa đi anh. Các anh gọi thế này là "vác cầy qua núi" phải không? Em đang "vác cầy qua núi" à? Hay gọi là "nín thở qua sông"? Em đang nín thở muốn đứt hơi nè Anh ơi !

- Thế nào là yêu kiểu cộng hoà và thế nào là yêu kiểu cộng sản hả em. Hồi bị tù ở Vĩnh Phú anh nghe công an quản giáo họ đọc thơ cho nhau nghe:

"Mò l... bóp vú bốn hào hai,"
"Vuốt tóc sờ vai hai hào mốt."
Nấc thang gía cả gấp đôi như thế là nghĩa lý gì ?
Bà đấm thùm thụp vào lưng người tình:
- Anh không được nói những câu tục tĩu của tụi nham nhở đó. Chúng nó nói chuyện đi chơi nhà thổ đấy.
- Hồi đó sao rẻ vậy, tiêu tiền xu tiền hào thôi à?
- Dạ. Gíá gạo được nhà nước ấn định suốt thời kỳ 54-75 bằng mấy hào một cân cho nên gía các thứ hàng họ khác đều theo cái mức đó cả. Mọi thứ đều do nhà nước quản lý cho nên nhà nước định giá bao nhiêu là cứ bây nhiêu thôi, không lên xuống trồi sụt bao giờ.
Ong cựu sĩ quan nhớ ra:
- Thảo nào linh mục Cần ở Saigon đọc sách báo của miền Bắc thấy giá cả ổn định bèn viết báo Đối Diện tấm tắc khen ông Hồ giỏi làm kinh tế tài chánh, trong chiến tranh mà giữ được gíá gạo đứng vững mười mấy năm, không bị suy thóai như gía cả của thị trường tự do. Thế mới khiếp chứ !
- Anh nói gì khiếp ?
- À, không. Anh nhớ lại chuyện cũ. Thôi, bỏ qua. Trở lại chuyện bây giờ. Anh cũng đâu có đòi hỏi em làm như thế này cho anh.
- Tại em muốn thế. Tự nhiên em muốn thế. Em điên rồi. Em u mê tối tăm rồi. Hay là em đã giác ngộ rồi. Em đã bừng tỉnh tìm thấy tình yêu nơi anh. Em muốn giữ lấy anh mãi mãi. Em chỉ muốn làm cho anh sung sướng.
- Làm gì có... tình yêu trên cõi đời này hả em. Chỉ có khoai sắn và bạo tàn. Chỉ có thể xác và quyền lực.
- Thế bây giờ là cái gì? Hai ta ở với nhau lúc này là cái gì?

- Anh cũng không biết nó là cái gì nữa. Anh đã bị dấn xuống đến tận cùng hố thẳm, bây giờ trồi lên, cũng không biết rồi sẽ ra sao, bởi vì mọi sự đều đã đi quá xa, mọi thứ đều đã quá trễ, anh như một kẻ lạc hậu, anh tụt lại phía sau của lịch sử vì anh vắng mặt bấy lâu... Gặp em cưu mang, em cho anh các thứ, trong chốc lát, nhưng thử hỏi được bao lâu, bởi vì chính em cũng không làm chủ được em cơ mà, em cũng chỉ là người sống tạm bợ. ..

- Em không cần biết những điều ấy. Em có một số của cải cất dấu đủ xài suốt đời và đủ bao bọc cho anh suốt đời, em không cần gì khác nữa, em không muốn biết gì khác nữa. Em có một kinh nghiệm sống vỏn vẹn như thế. Anh đừng thèm nghĩ ngợi gì lôi thôi. Hãy nằm yên cho em ăn tươi. Cái gì xài được là xài liền. An tươi được là ăn tươi ngay không để dành phơi khô. Cái gì chụp dựt được là phải chụp ngay, cái gì cất dấu được cho mình là cất dấu ngay làm của riêng tắp lự.

Không "oong đơ" gì cả !

Ông sĩ quan cựu tù nói:

- Không có gì là chính nghĩa hay phi nghĩa. Không có gì phải cần nghị quyết hay thông điệp.
Nàng cựu đảng viên nói:
- Dạ. Tình yêu chỉ cần cật lực hay thục mạng.
. . .

Trả người mù về nhà anh ta xong, bà về nhà bà. Chồng bà cũng vừa từ kho quân nhu Quân khu 7 về tới. Bà cảm thấy hài lòng, trong ngày bà đã quản lý được cả hai chế độ. Ăn khớp.

Ông sĩ quan cộng hòa lâu ngày thiếu thốn nay vớ được quá đã, ngủ lăn quay ngày sau mới dậy nổi. Chưa lại sức thì ngày hôm sau nữa đã tới, người tình lên thăm. Quay vòng. Cứ thế. Ít lâu sau ngã bệnh xanh xao vàng vọt, sợ quá ông trốn luôn. Ông nghiệm ra rằng khi ở trong tù khát khao mòn mỏi quá nên ai cũng tưởng mình sung sức, mong ngày về sẽ biểu diễn những tuyệt chiêu đã nghiền ngẫm trong đầu bấy lâu cho đời biết quốc gia là gì. Ai ngờ sức tàn lực kiệt. Ngày tàn bạo chúa. Thời oanh liệt nay còn đâu. Tháng năm lao tù đằng đẵng đã xói mòn hết tất cả sức lực con người. Một người cháu thấy vậy can:

- Chú phải giữ gìn sức khoẻ. Cái máy xe bỏ phế lâu ngày, cũ kỹ, nay chạy quá tải là tan hoang ngay.

Chú cháu cười với nhau thông cảm. Nhưng chỉ tuần lễ sau lại sức, ông chú quên mất lời cháu dặn nhớ cái thân hình có cặp vú thây lẩy bèn tìm lên nhà bà ta. Họ lại dính vào với nhau những khi ông chồng mải loay hoay làm việc trong kho quân nhu.

Chiều xuống ông chồng sắp về thì ông nhân tình rút lui vào thành phố. Hình như ông sĩ quan quen tật đánh giặc kiểu xưa, ngày làm đêm nghỉ. Cứ thế. Nhưng nhịp gặp có thưa hơn, có khi ba, bốn ngày một lần. Dù sao thì cũng phải lượng sức mình, bảo tồn lực lượng, theo lời khuyên của thằng cháu hiểu đời. Ai nhớ ai thì đi tìm, hoặc ở căn nhà năm gian trong vườn cây ngoại thành, hoặc ở căn phòng máy lạnh trong thành phố.

Bà chị cả thấy ông em giao du với nữ việt cộng từ ngoài Bắc vào thì lo ngại, bà sợ em mình vừa đi tù về bị "địch vận" nó mê hoặc, nó "gài bẫy", nó "mỹ nhân kế" Bà sai các con đi tìm "chú mày về đây cho tao bảo". Bà giữ chặt em ở nhà không cho đi đâu, "Gửi fax cho thím mày về mà đem "cục cưng" đi càng sớm càng tốt kẻo việt cộng nó chiếm mất". Một cuộc giằng co quốc cộng? Ngưới cháu nheo mắt nói với ông chú:

- Thiếu thốn lâu ngày, chú cứ từ từ, nhẩn nha, vừa phải, đúng mức mà hưởng... di sản chiến tranh, không có Việt Cộng nào đâu, đừng nghe lời mẹ cháu nói mà hãy đề phòng bà thím về đánh ghen !

Rồi nó hỏi:

- Chú lắm "đào" qúa, dễ thường gom lại cũng được cả tấn!
Thế là ông cựu tù binh cứ lén lút trốn gia đình đi với gái. Người nữ cựu tù hình sự cũng trốn chồng đi với trai. Đôi "gian phu dâm phụ" mút mùa hậu chiến.
. . .

Anh cựu chiến sĩ lái đã từng được các tay "tẩm quất quốc tế " bên Campuchia đấm bóp cho nhiều lần thời gian anh làm "nghĩa vụ" bên đó cho nên anh biết hết các ngón nghề của "khoa" trị liệu. Về làng phế binh găp lại nhau, anh ta bèn hành nghề tẩm quất mà người thường xuyên anh ta phục vụ là bà.

Về sau anh gá nghĩa với một goá phụ trong làng. Chị trước đây là vợ của một phế binh chế độ cũ, nhưng chồng chị đã không sống nổi vì chế độ cũ sụp đổ mất hết trợ cấp sinh sống và thuốc men, anh qua đời để lại người vợ goá bụa cô đơn trong cái "xã hội xã hội chủ nghĩa" rất lạ lẫm và hoang tưởng đối với chị.

Chị lần lượt bị đầy ải ở các nông trường trồng dứa ở Cầu Sáng, Đức Hòa, rồi sau bị điều lên đào kinh dẫn nước Củ Chi. Ở vùng đất phèn gai dứa đã ghim không biết cơ man nào vào hai bàn tay của chị. Ở vùng đất trắng sỏi đá Củ Chi hai bàn tay ấy lại một lần nữa chai cứng bởi cuốc, xẻng, quang, sọt... Nhưng rồi cuối cùng những hoang tưởng kinh tế của nhà cầm quyền mộng du cũng đến lúc phải rã ra, vùng đất phèn lại trở về hoang phế, con kinh dẫn nước bị cỏ lác lau sậy mọc lên che phủ. "Lãnh đạo" tứ tán khắp nơi tìm đến những chỗ hoang tưởng khác và những nô lệ được buông tha. Chị bèn tìm về chốn cũ sống lang thang vật vờ.

Khi chị thấy anh mù quơ quơ cái gậy đi ngoài đường miệng rống lên rao "tẩm quất đây" bèn hỏi chuyện, biết là phế binh mới, chị bèn nảy ra ý định làm ăn chung, chị sẽ dẫn anh đi hành nghề . Anh lo phần đấm bóp cho khách, chị lo về phần sáng. Hai kẻ khốn cùng thành một công ty, một liên minh, một hợp tác, một cộng đồng, một hoà hợp thách đố giữa cái xã hội loài người nhiễu nhương khốn khổ...Chị lại dọn về ở căn nhà trước kia của chồng chị bị cách mạng tiếp thu, mà nay là nhà của anh bộ đội mù mua được bằng tiền toa rập buôn lậu gỗ trầm.
Trong căn nhà một gian lợp tôn vách gỗ cũ kỹ trải qua bao nhiêu đổi thay điên đảo ở vùng ven đô, bây giờ đã có một gia đình mới. Hai người bàn với nhau muốn khá phải "tiến" về Saigon. Chiều chiều người ta thấy một người đàn bà giắt một người đàn ông mù lên xe đò vào thành phố. Họ tìm đến các khách sạn có Việt kiều để xin được đấm bóp.

Ngày đầu tiên anh thợ đấm bóp cứ thành thật khai ra với khách hàng từ nước ngoài về anh là thương binh bộ đội cấp 3 tàn phế, thấy vẻ mặt ông khách có vẻ không hài lòng, người đàn bà sáng mắt nhận ra ngay tình thế bất thuận lợi bèn kéo anh ra một chỗ vắng "nhất trí" với anh về lập trường chính trị mới cho phù hợp với công cuộc kinh doanh kinh tế thị trường. Với những tay công an và bảo vệ thì đưa nhãn hiệu thương binh cụ Hồ ra cho dễ bề ra vào khách sạn. Nhưng với khách hàng Việt kiều thì anh phải là cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thương binh mức độ tàn phế 100%, anh hãy cứ ngậm miệng chăm chỉ đấm bóp xoa nắn, để cho chị lãnh trách nhiệm mô tả chân dung người thương binh chế độ cũ.

"Mùa đông đã đến đây rồi, cùng nhau đan áo cho người chiến binh...", "...Anh trở về trên chiếc băng ca, trên trực thăng sơn mầu tang trắng...anh trở về bại tướng cụt chân", hay là "...Dạo phố mùa xuân, bên người yêu tật nguyền chai đá..." Chị cám ơn các vị nhạc sĩ đã giúp cho chị lõm bõm hát những câu ca nổi tiếng một thời. Không còn gì, không còn gì là trợ cấp tử tuất, không còn gì là trợ cấp thương phế binh cô nhi quả phụ, không còn gì là niềm hy vọng, không còn gì là niềm tin chế độ, không còn gì và không còn chỗ nào cho chị nương tựa, chỉ còn lõm bõm những câu hát để lợi dụng làm kế sinh nhai.

Chị cũng lõm bõm tí hiểu biết về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ các binh chủng, các đại đơn vị, các Quân y viện, đến các sinh hoạt biến chuyển chiến sự trong vùng chồng cũ của chị đánh giặc, bị thương và những năm tháng cuối cùng trước khi...mất nước. Anh là bộ đội thì anh lo đối phó với quân đội và công an nhân dân. Chị là gia đình binh sĩ Cộng hòa thì để chị liên đới với Việt kiều về thăm quê hương...

Mục đích cao nhất của chung hai người là kiếm được càng nhiều tiền Mỹ càng tốt. Cuộc làm ăn dựa trên cơ sở "đầu vào" của lợi nhuận. Cứ như thế chiều chiều dắt nhau tiến về Saigòn, nửa đêm hai kẻ hiệp thương lại dắt nhau lui về căn cứ ở ngoại ô với một túi tiền và thức ăn, hàng hóa lặt vặt mang nhãn hiệu nước ngoài của những vị khách tốt bụng. Hai người ăn uống no nê, tắm rửa rồi ôm nhau ngủ cho đến trưa ngày hôm sau mới trở dậy để sửa soạn một ngày mới.

Căn nhà lợp tôn một gian được ngăn ra làm hai, phần ngoài có cái bàn và bốn ghế gỗ gọi là phòng khách, phần trong kê chiếc giường gỗ trải chiếu gọi là phòng ngủ. Phía sau nhà cách một ô sân nhỏ đến gian bếp một mái. Ô sân nhỏ có thùng chứa nước để tắm rửa. Ngày xưa mỗi lần tắm chị phải đóng cửa ngăn cách với nhà trên vì chị e thẹn với chồng, bây giờ chị có thể để ngỏ cái cửa ấy khi tắm vì chị biết người chồng mới không nhìn thấy chị. Chị thoải mái khỏa thân xối nước mà không hề cảm thấy bị nhìn ngắm. Chị tự do, ôi chao, sư tự do sao mà giản dị và dễ dàng thế. Chỉ cần đứng trước người mù. Nhưng chị lại thấy tiếc thương cho người chồng đã qua đời, có sao đâu mà ngày ấy chị phải e thẹn với anh, chị đã không cho anh nhìn chị khi tắm. Cũng tại một lần anh cười chúm chím khi thấy chị cởi áo, chỉ có thế thôi mà chị đã phải trốn tránh nụ cười của anh. Bây giờ nếu anh còn sống chị có thể cho anh nhìn mãn nhãn. Nhưng mọi sự đã qua rồi. Không còn có thể lấy lại cái đã mất. Với người chồng hiện tại, chị có cởi hết đứng trước mặt anh thì anh cũng dửng dưng không biết gì. Anh có thể "thấy" bằng tay anh nhưng anh chẳng thể "nhìn" bằng mắt để mà cười chúm chím. Có lần anh đứng ngay cửa xuống bếp, tai anh hơi vểnh lên nghe ngóng tiếng nước xối trên thân thể chị. Chị thấy anh đang "nghe" chị khỏa thân.

Anh phế binh mù có lần hỏi:
- Em trắng bóc, vàng vàng, hay ngăm ngăm…?
- Anh cần gì phải biết?
- Tôi muốn được biết. Tôi có thể hình dung ra cơ thể cuả em nhờ hai bàn tay xoa bóp rành nghề này, nhưng tôi chịu thua chẳng thể hình dung ra em nhan sắc thế nào.
- Biết cũng chẳng ích lợi gì. Có những điều thà đừng biết lại tốt hơn là biết rõ.
- Cái bà "nữ hoàng trầm hương" tôi đã biết từ ngày tôi chưa bị mù, cho nên sau này tẩm quất cho bà ấy tôi đều như đã thuộc lòng tất cả. Còn với em, tôi cố gắng hết sức mình cũng vẫn thấy chưa bao giờ nhập được vào trong em và cũng chưa bao giờ cảm thấy được là em đã chìm vào trong tôi.

Người đàn bà thấy cần phải khuyến bảo anh ta một điều:
- Đừng bao giờ đem chuyện "ấy" với người này kể cho một người khác nghe. Nếu anh đem chuyện bà ta ra nói cho người khác nghe là anh đã mắc sai lầm trầm trọng. Đó là cung cách của những người tồi.

Người thợ tẩm quất ngồi thừ ra một lát mới nói nên lời:
- Tôi xin lỗi em. Tôi tồi thật. Nhưng tôi phải thú nhận rằng tôi bồn chồn quá. Tôi bây giờ có ăn no, có tiền xài, lại có em, nhưng tôi thấy rõ ràng là tôi như kẻ chẳng có gì hết vì tôi chẳng nhìn thấy em như thế nào.
Người đàn bà an ủi anh ta:

- Tôi hiểu và tôi thông cảm với anh. Anh là người thứ hai trong đời tôi. Kể từ ngày chồng tôi bị thương chứ không phải từ ngày anh ấy mất, tôi đã không biết tới chuyện như thế này, bây giờ với anh, tôi nhớ lại , và tôi công nhận là anh đã làm đầy đủ phần việc của anh, cho dù anh không thấy đường.

- Tôi mang ơn em, không có em tôi sẽ chẳng biết lối nào mà lần mò.
- Anh đừng nói thế, anh còn có chính sách lo cho anh, chứ tôi đây này, chế độ sụp đổ, nhà cấp bị tiếp thu, chồng chết, tứ cố vô thân, không còn chỗ nào để nương tựa...

- Thôi, em đừng nói thế, em cũng đừng nhắc tới chính sách, tất cả chỉ là số không trống rỗng, không có chính sách nào cho chúng ta tiền bạc và thức ăn, không có chính sách nào đêm đêm ôm ấp chúng ta trong giấc ngủ. Chính em là "chính sách" cho tôi. Nghĩ cho cùng kỳ lý thì không có chế độ nào cung cấp được vợ cho một người đàn ông, chồng cho một người đàn bà.

Một lần nữa chị thấy lại cần phải nói lại với anh cho rõ:

- Khoan nói đến tình nghĩa vợ chồng. Hãy cứ hợp tác cái đã. Coi đây như sống chung hòa bình. Người cộng sản các anh có câu nói "góp gạo nấu cơm chung", phải thế không ? Đêm đêm ôm nhau ngủ cũng là một cách "góp gạo nấu cơm chung" mà thôi được chăng?

Anh thợ tẩm quất khóc rống lên:

- Thế là sẽ có ngày em bỏ tôi. Em sáng mắt đi đâu cũng được, sẽ có ngày em bỏ tôi mà đi. Có phải thế không? Còn tôi, một kẻ thông manh, không còn có thể nhìn thấy gì nữa, tôi không thể bỏ em để đi đâu được nữa. Tôi cần em trong tất cả mọi việc, kể cả cái việc người ta lần mò trong đêm tối cũng xong, nhưng tôi không thể làm được việc đó nếu không có em nằm bên. Sau mỗi lần ... với em xong tôi sung sướng, em có biết thế không. Em mà bỏ tôi em đi là tôi tuyệt vọng đến tận cùng. Cái thằng bác Hồ mà trước kia tôi vẫn rêu rao muôn vàn kính yêu cũng chẳng giúp gì được cho tôi cả. Chỉ có em. Chỉ còn có em. Em hiện xuống đời tôi như ánh chớp, tôi bất chợt có được em, nay nếu em biến đi thì tôi sẽ ra sao? Tôi sẽ ra sao đây hở trời ?

- Chưa có gì trầm trọng cả. Chưa nên nói đến những tiếng "bỏ đi". Anh sao quá nông nổi. Đã có gì đâu mà anh phải khóc òa lên như thế. Chúng ta không còn con nít để lãng mạn. Chúng ta đã trưởng thành, riêng tôi đã gặp qúa nhiều nghiệt ngã, đã mất tất cả, cho nên tôi bình thản để sống, tôi biết phải biết phải quấy với cuộc đời cho dù cuộc đời có tàn nhẫn với tôi, tôi không chơi xấu với ai, tôi không bỏ ai nếu như họ không bỏ tôi...

- Tôi đâu dại gì mà bỏ em...
- Ở đây không phải là chuyện khôn dại. Ở đây là chuyện đúng sai. Khi nào người ta thấy sai sẽ tìm cách thay đổi. Biết đâu một ngày nào đó có người chợt thấy mình sai lầm.

- Tôi sẽ không bao giờ nghĩ là mình đã sai lầm. Tôi biết rõ ràng là mình mù mắt. Tôi đã lê lết khắp đó đây nhưng nào có ai đưa tay ra giắt. Chỉ khi gặp em. Chỉ có em đưa tay ra giắt tôi, không phải một lần , mà là đã nhiều ngày qua. Em đã giắt tôi ở nhà, ngoài đường, lên xe, giắt đi, giắt về. Em đã giắt tôi ban ngày, em cũng giắt tôi ban đêm, em giắt tôi trong phòng tắm, em giắt tay tôi trên giường. Còn gì nữa mà đòi hỏi, em đã giắt tay tôi đi trong cuộc đời, em là người tổ chức mọi thắng lợi...

- Chính vì thế, chính vì tôi tận tình làm hết mọi công việc, ngay cả ở trên giường tôi cũng thường giúp một tay cho anh lắp ráp, tôi sẵn sàng làm hết, ngoại trừ việc đấm bóp cho khách hàng... mà có thể một lúc nào đó anh sẽ nhận ra rằng tôi đã bám vào anh để sống, thấy anh là cái kho tiền nên tôi vồ lấy khai thác. Có thể nghi ngờ như thế chứ ? Biết đâu đấy. Dù sao thì anh cũng là phe thắng trận. Dù sao thì tôi cũng là phe bại trận. Có đúng không nào. Thế thì biết đâu đấy con người thắng trận bất chợt nổi dậy dành quyền làm chủ. Và cũng có thể biết đâu đấy con người bại trận bất chợt mủi lòng tìm cách rút lui. Anh sẽ nhận ra khi ăn nằm với nhau tôi cũng đã rướn người lên hùa với anh, tôi cũng đã hưởng được khóai cảm, tôi đã nhờ có anh mà được sung sướng. Không cần mắt nhìn, chỉ với hai bàn tay và cơ thể cường tráng, anh đã là một người đàn ông cực kỳ sung mãn. Anh tung hoành trên thân thể tôi. Anh đã đưa đẩy tôi đi, anh đã dẫn dắt tôi đến, những khi ấy lại chính người mù dẫn dắt kẻ sáng, anh đã nhiều lần đem tôi đến tận cùng trời cuối đất. Và anh sẽ thấy rằng tuy mù nhưng anh vẫn là kẻ có thế, anh vẫn là kẻ cho đi chứ không phải chỉ là kẻ nhận về. Rồi sao. Rồi sự gì sẽ xảy ra. Ai mà biết được. Cho nên tôi mới nói , hãy chỉ là những kẻ hợp tác, hãy chỉ là những kẻ hùn hạp, nói theo thời thượng chúng ta hãy chỉ là những kẻ sống chung hòa bình với nhau. Cái đã. Rồi thời gian sẽ đưa ta đi. Đừng vội. Hỡi anh thương binh yêu quí và tội nghiệp.

Người mù khóc lóc mùi mẫn như trẻ thơ, anh ta rúc vào cổ vào ngực vào bụng người đàn bà. Chị cũng ôm chặt lấy đầu người đàn ông mà vỗ về. Chị nói:
- Hãy khóc đi, khóc cho thật sung sướng, không có ai giúp chúng ta được gì đâu, không có chính thể nào giúp chúng ta được gì đâu. Ta cười, ta khóc, cũng do ta và cho ta mà thôi. Tôi rất tiếc là mình không còn khóc được nữa, để mà cùng hưởng với nhau niềm vui khủng khiếp và nỗi khổ êm đềm này.

. . .
Ông Việt kiều chỉ mặc chiếc quần lót nằm sấp trên giường cho vợ chồng người tẩm quất làm việc.

Hình như ông khách vẫn còn trẻ, hàm răng giả trắng phau đẹp đẽ, mái tóc đen nhưng chân tóc thì bạc. Người ông tỏa mùi hương chống hôi nách giống như mùi mốc.
Người chồng mù ngồi nơi cuối giừơng mân mê chân ông khách, anh ta bóp, bẻ, giật từng ngón chân một. Người vợ giác hơi trên lưng ông ta. Vừa làm vừa nói chuyện. Theo lời ông khách kể thì ông là sĩ quan cùng đơn vị chồng chị làm lính ngày xưa. Sau một vài câu chuyện dọ dẫm, chị bèn nói:
- Vậy ông là xếp cũ của chồng em.
- Sư đoàn đông quân, đâu có biết hết được ai với ai.
- Dạ, thì bây giờ kể chuyện xưa, mình mới nhận ra tông tích cũ, mười mấy năm rồi biết bao thay đổi.

Một lúc chị thấy bàn tay ông khách chui trên đệm giường lách vào dưới đùi chị, chị giật mình ngồi xích ra. Ông khách mỉm cười. Lát sau chị lại nghe bàn tay ấy lách tới nữa. Đến khi người chồng mù vào phòng rửa tay, ông khách hỏi nhỏ chị:
- Tôi... biếu chị một trăm đô chị chịu không?
Không thấy người vợ lính cũ nói chi, ông ta tiếp:

- Anh ấy mù đâu có thấy gì. Giữ "im lặng vô tuyến", mình làm thật nhanh, nhấp nháy là xong. Tôi về có một mình cả tuần lễ nay không được giải quyết kẹt quá. Nhìn em xinh đẹp dễ thương, tôi nôn nao cả người.
Chị vẫn không nói gì, người khách lại năn nỉ:

- Không hiểu sao nhìn em tôi như nhớ đến thời cộng hòa xưa kia của chúng ta. Nó có cái gì dễ thương, nó có cái gì riêng biệt, mà tôi không thể cảm thấy ở những nơi khác...Tôi đã đi nhiều nơi trên thế giới, bây giờ về lại chốn cũ, gặp em, tôi chợt bắt gặp quá khứ đời mình... Em bằng lòng cho tôi làm nhé. Không lâu đâu. Bây giờ tôi yếu rồi. "Check in" xong là "Check out" ngay. Em đứng khom lưng là đủ. Tôi biếu em... hai trăm.

Ông ta đứng lên vạch chiếc quần lót mỏng, sấn sổ bước tới. Ông ta đưa cái nghiệp của ông ta về phía chị. Lúc đó chị mới giơ tay ra dấu cho ông ta ngưng lại. Bàn tay ra dấu của chị quyết liệt đến độ người bạn chiến đấu cũ phải ngồi phệt xuống mép giường. Chị gọi người mù trong phòng tắm đi ra. Chị nói với người khách:
- Chúc ông về thăm quê hương chuyến này vui vẻ.

Ông khách Việt kiều ngồi đờ người ra, ông bối rối lấy tiền trả công, hỏi:
- Bao nhiêu ?
- Thưa, vừa tẩm quất vừa giác hơi xin ông mười đô.

Người khách đưa chị hai chục, chị trả lại ông ta mười đồng, ông khách nói:

- Tôi biếu anh chị mà.
- Vợ chồng em cám ơn ông, lính cũ được gặp lại cấp trên ngày xưa, lại được phục vụ, chúng em hãnh diện lắm rồi. Không có gì quí hơn tình chiến hữu.
Nói rồi chị dắt chồng đi ra. Đến ngoài anh mù hỏi:
- Sao hôm nay em lại từ chối tiền khách cho thêm.
Chị nhìn anh tội nghiệp:
- Tiền cần thật nhưng cũng có khi mình phải từ chối anh ạ.
Chị dắt anh ta đi như chạy ra khỏi khách sạn, chị muốn về sớm, không nhận mối khác nữa, phải về ngay căn nhà ngọai thành.
Đến nhà chị kéo anh ta ra sân sau, chị cởi quần áo cho anh ta, đặt anh ta ngồi trên chiếc ghế gỗ. Chị xối nước tắm cho anh, người mù ngoan ngoãn để cho vợ làm các việc vệ sinh cho mình.

Dưới ánh trăng, chị nhìn ngắm thân thể anh, cái thân thể chị độc quyền, cái thân thể dành riêng cho chị, nó cân đối, đẹp đẽ, mịn màng. Con người anh chỉ bị đôi mắt tàn tật, chị tìm chiếc kính đen quen thuộc đeo lên cho anh, thế là xong, che đi một chút khiếm khuyết, anh sẽ là một người mẫu. Nghĩ cho cùng, mọi tội lỗi cũng chỉ do đôi mắt sáng. Vì có mắt anh thành tên xâm lược, vì có mắt anh thành kẻ buôn lậu, cũng vì có mắt anh mới là một tên ma cô theo đuôi những tên ma cô ăn chơi đàng điếm. Nay đôi mắt sáng không còn, anh không nhìn thấy gì nữa, anh không còn khả năng tác yêu tác quái, anh bị lùa về một góc cuộc đời và anh trở thành người hiền lành an phận. Anh trở thành người tình đáng yêu của chị. Chị xoa xà phòng thơm cho anh, thứ xà phòng ngoại của khách Việt kiều cho, anh sẽ thơm tho, anh sẽ đẹp đẽ... Chị hỏi:

- Mát không?
- Mát.
- Thích không?
- Thích.
- Sung sướng không?
- Sung sướng.
- Hạnh phúc không?
- Hạnh phúc.

Đến đây thì anh vùng dậy, anh tóm lấy chị ghì chặt vào lòng, anh lột quần áo chị ra, anh mò mẫm múc nước trong thùng xối lên đầu chị, anh mò mẫm tìm cục xà phòng xoa lên thân thể chị. Chị cười rúc rích, hai người xoa xà phòng cho nhau, xối nước cho nhau... Rồi người mù ẵm người sáng mò mẫm đi vào giường. Chị với tay bật đèn sáng để nhìn anh cho rõ, anh nói:

- Anh tiếc là mình không trông thấy em.
Chị ôm đầu anh ghì vào bụng mình:
- Em bằng lòng anh như thế này. Đừng than tiếc gì cả.
. . .

Và cũng kể từ đó, anh phế binh mù tẩm quất không có dịp đấm bóp cho "nữ hoàng". Thì may mà có con cháu, bà bèn chỉ cho nó cách thức xoa bóp, và nó nhanh trí thích nghi được ngay.
Ngón nghề anh chiến sĩ lái học lóm được của các tay tẩm quất quốc tế bên Campuchia, bà trùm buôn lậu học lóm được từ tay anh phế binh mù, bà chỉ dẫn lại cho con bé, chẳng hiểu rồi mai này con bé có truyền nghề lại được cho ai không? Bà đã từng giám gọi người mù tẩm quất cho hai người song bà không giám bảo con bé đấm bóp cho ông tình nhân. Bé nhưng có mắt, vẫn là mắt, nếu nó bép xép là rách việc ngay, bà cũng phải giữ thế phòng thủ. Bà chỉ sai nó đấm bóp cho bà sau khi ông cựu tù binh sĩ quan cộng hòa ra về, trả lại chỗ cho ông chồng đảng viên quen thuộc.
. . .
Gặp lúc cả nước ùa nhau phá vườn phá rẫy thi đua trồng tiêu, trồng điều, trông ớt, trồng táo... xuất khẩu thì bà cũng nắm bắt được trào lưu kinh tế dám nghĩ dám làm, bà bèn phá luôn thửa vườn trước nay trồng đủ các thứ cây cối gia dụng cho cuộc sống gia đình, bà thuê người, mua cột về dựng một vườn tiêu mấy trăm gốc...và bà trúng ngay liên tiếp mấy vụ, hột tiêu được gía bán ngay, thế là gia đình bà có TV, video đủ cả. Cậu và cô có Cub, có Dream mới tinh chạy vung vít lên tới Saigòn, vì thế mới học được nhiều hiểu biết văn minh văn hóa mới của thành phố và cuả thế giới bên ngoài. Sống ở ngoại thành nhưng cô cậu đã ăn mặc nói năng như người thành phố, cô vẫn thường gọi cháu là con nhà quê. Có khi cô cũng chê cháu bẩn. Cháu nhà quê thật tình vì cháu không biết cưỡi xe honda như cô cậu nhưng từ ngày có thêm những chiếc xe thì cháu còn biết làm thêm việc tỉnh thành nữa là lau xe cho cô cậu hàng ngày. Mỗi khi cô cậu đi đâu về là cháu lấy khăn lau ngay, hai chiếc xe lúc nào cũng bóng lưỡng. Nhờ vườn tiêu, tiền bạc bà kiếm được bằng buôn lậu đã được rửa sạch, bà ăn tiêu tự do thoải mái.

Cháu đấm bóp cho bà mỗi khi bà nhức mỏi. Nghề dạy nghề, lúc đầu cháu đâu có biết cách, nhưng cứ chịu khó làm theo lời bà dạy sẽ nên người nên việc, sẽ mở mắt ra chứ không còn đần độn như con nhà quê. Bóp hai tay bà từ trong trở ra. Bóp hai chân thì từ đùi trở xuống tới các ngón chân, bóp từ trên xuống không bao giờ bóp từ dưới lên, đi từ dưới lên là ngược chiều âm dương bà sẽ bị loạn thần kinh là mày chết với bà. Khi bóp lưng cho bà cũng vậy, từ bả vai bà xuống tới mông. Những thớ thịt cuả bà thì to, hai bàn tay cuả cháu thì bé, nhưng vì cháu ngoan chịu nghe lời chỉ dạy của bà nên những ngón tay cháu cũng luồn lách thông thạo tạo cho bà những cảm giác sung sướng, dễ chịu. Bà còn dạy cho cháu những câu hướng dẫn động tác nghề nghiệp mà bà biết được do trước kia người tẩm quất mù đọc cho bà nghe. Con cháu gái thông minh giống bà nên mau nhớ mau thuộc, nó cũng đọc vanh vách những câu chú nhà nghề "Voi dày. Ngựa phi. Mèo cào. Chó liếm. Lươn luồn. Trạch lủi. Cò mổ. Nhổ lông. Cọp gầm. Vượn hú,..." Vào lúc cuối của trận tẩm quất, hai bàn tay nhỏ bé cuả con bé đang mân mê hai bả vai tròn ú cuả bà, miệng nó lẩm nhẩm tụng những câu chú giải nghề nghiệp thì bà chợt quơ tay đẩy con bé ra, bà phán:

- Ra nhà ngoài coi TV, bảo ông mày vào đây... tao nhờ tí việc.
Con bé mừng rỡ, công việc đã kết thúc, nó đã được giải phóng, tự do ra xem phim bộ với lũ trẻ. Đến phiên ông vào cho bà nhờ, bà nói:
- Con này mà được đi học nó sẽ đậu đến bác sĩ, kỹ sư... mình xoa bóp lưng cho em, con bé làm chẳng đến nơi đến chốn...
Ông sà xuống giường ngồi bên cạnh bà, hai bàn tay ông cũng lướt qua làn lưng trắng phau bắt chước nhà nghề, miệng nói:
- Nhà nghèo lại không gặp vận may chứ nếu nó được sang...Mỹ học tới hai bằng tiến sĩ mấy hồi.
Bà hỏi:
- Đóng cửa chưa ?
Ông chồng lại lọm khọm đi cài chốt cửa:
- Tưởng em chỉ muốn xoa bóp...
Bà nghĩ thầm, sĩ quan cộng hòa thông minh hơn sĩ quan quân đội nhân dân, vậy mà sao năm 75 họ thua nhanh thế, bèn nói:
- Ông thì biết cái gì mà đòi xoa với bóp...
. . .
Thường mỗi lần đấm bóp cho bà xong là con bé mệt rũ người, mười ngón tay nó cứng đơ, hai bàn tay bé bỏng của nó như rời ra khỏi cánh tay, còn hai cánh tay thì như hai cánh tay giả lắp ráp vào người, mệt còn gấp mấy lau nhà , gấp mấy giặt quần áo, nhưng bù lại bà thường cho nó ăn thêm:

- Cho mày cái bánh mật ở chạn đấy, hôm qua bà mới ăn một nửa, còn một nửa nữa cho mày luôn, ngon lắm, lấy ăn đi con.

Con bé trời thương, chẳng ốm đau bao giờ kể cả khi ăn đồ thừa thiu thối. Có khi vừa ăn vừa lợm giọng cố nuốt mà nó cũng chẳng sao. Nó ăn để bà khỏi buồn, để không phụ lòng tốt và tình thương của bà. Ở đây sướng chán, phải lo giữ chỗ. Con bé chỉ tiếc những khi bà kêu nó đấm bóp vào lúc xem TV. Bị đứt đoạn phim bộ thì uổng lắm, không làm sao lấy lại được, có hỏi mấy đứa trẻ hàng xóm thì chúng nói được nói mất chẳng bằng mình xem tận mắt. Cho nên con bé rất thương bà, nó cầu xin cho bà đừng đau ốm, xin ơn trên cho bà không bị đau nhức vào những buổi tối. Hoặc là nếu phải đấm bóp cho bà thì nó chỉ chờ cái lúc bà bảo nó gọi ông vào cho bà biểu.

Một buổi tối mấy đứa con nít cãi nhau chí choé suýt xảy ra đánh lộn, ông bà bèn phạt tắt TV đuổi chúng về, tối hôm sau cũng vẫn còn phạt không cho chúng xem, đóng kín các cửa chỉ có người nhà xem bên trong, lũ trẻ hàng xóm ghiền quá bèn đu cửa sổ nhìn qua khe "coi cọp", bà bèn đuổi chúng ra khỏi sân sai con bé đóng cổng không cho đứa nào đến gần nhà, thế là chỉ còn ông bà và cô cậu ngồi trên ghế bành, một mình con bé "chân bẩn như chân chó" ngồi dưới sàn nhà rộng thênh thang. Xem. Không có lũ trẻ hàng xóm.

Những ngày sau thì ông bà khám phá ra cả vườn tiêu trăm gốc bị nhổ đứt rễ chết hết. Những dây tiêu bao quanh những cột trụ gỗ bị héo rũ xuống. Cả một công trình kinh tế lợi nhuận sụp đổ. Ông bà điên tiết tra hỏi lũ trẻ lối xóm, đứa nào cũng lắc đầu chối "cháu không biết". Bày kế dụ dỗ mua chuộc cũng không có đứa nào khai báo.

Con bé bị đổ lên đầu cái tội ngủ ở dưới bếp mà đêm chúng nó phá hoại cũng không hay biết. Ngủ gì mà ngủ như chết vậy. Mọi người đều vô can, chỉ có con bé phải chịu trách nhiệm.

THẢO TRƯỜNG
Fountain Valley 3/2000
trở về đâu trang