Sunday, October 7, 2012

Trang nhà
 Mục lục (chuyện đời lính)
Bốc Mộ chồng chết trong trại tù cộng sản
Trạì giam Vĩnh Quang  - Xã  Ðao Trú  - Tam Ðảo Tỉnh Vinh Phú - Miền Bắc VN
ngày 13 tháng 7 năm 2012
.(Đại Uý LLÐB  Nguyễn Hiển K11/ĐT/LTVKTĐ)
1941 - 1979


TOÀN THỂ ANH EM  SĨ QUAN KHÓA 11 ÐỒNG TIẾN
LIÊN TRƯỜNG  VÕ KHOA THỬ ÐỨC  VÀ GIA ÐÌNH XIN CHIA VUI
CÙNG GIA ÐÌNH CHI THẠCH KIM LIỂU QỦA PHỤ CỦA ÐỒNG TIẾN
 NGUYỄN HIỂN  LLÐB  , ÐÃ TÌM ÐƯỢC MỘ ANH ÐỒNG TIẾN
NGUYỄN HIỀN , MỘT CHIẾN HỮU CỦA ANH EM CHÚNG TÔI
VÀ ÐàÐEM  ANH VỀ VỚI GIA ÐÌNH
TRÂN TRỌNG  CHÚC MỪNG
ANH EM CHIẾN HỮU KHOÁ 11 SQ/TB/LTVKTÐÐ




Tiếp theo.



Chuyện Buồn Người Vợ Tù

1-Trần Thị Thanh Minh


Một ngôi biệt thự nhỏ khiêm tốn cuối đường Hoàng Diệu, Đà Lạt. Phía sau là vườn hồng và có thể nhìn thấy trường Couvent thấp thoáng aó xanh lam của các nữ sinh nội trú. Đó là “ngôi nhà hạnh phúc” của chúng tôi cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó. Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc với ba đứa con thật dễ thương và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi nhất là Tết đến còn thêm “những con bà phước” (tức là những sỹ quan Võ bị không được về Sài Gòn ăn Tết vì cấm trại) tất cả đều quay quần vui chơi như chính nhà của họ, bởi vì các anh thích cái không khí thoải mái và thân thương nhất mà chúng tôi đã thật thân tình đón tiếp. Nếu cuộc sống ấy được kéo dài thì thật đúng là chúng tôi đã có một thiên đàng hạnh phúc thật sự rồi. Nhưng đâu có ai ngờ rằng Buôn Mê Thuột mất, mọi nơi di tản về Sài Gòn. Gia đình tôi cũng trong làn sóng kinh hoàng đó. Tôi và các con được ông bà nội các cháu yêu thương đùm bọc, và tôi đã sinh cháu bé ngay tháng tư năm đó . Cũng vì thế mà chồng tôi không thể ra đi một mình. Anh đã lên được tàu nhưng anh lại nhảy xuống bơi về . Nếu anh biết trở về rồi lại phải xa mẹ con tôi vĩnh viễn chắc anh đã chẳng quay về . Đó cũng chính là nỗi đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi của chúng tôi .

Tháng sáu anh đã đi trình diện học tập cải tạo, với hy vọng sau mười ngày sẽ trở về ….. Không có chồng tôi ở nhà, tôi rất sợ hãi và buồn lo. Anh đã cho tôi một đời sống ổn định vững vàng. Nay không có anh tôi không thể làm gì hết, tôi đã mất hết, mất cả những ước mơ toan tính của chúng tôi cho con cái sau này. Tôi không còn gì hết ngay cả mạng sống của tôi cũng rất mong manh vì mới sanh cháu còn quá nhỏ. Rất may nhờ sự lo xa của bà nội các cháu nên mẹ con tôi còn được ăn cơm thêm vài tháng. Toàn dân ở thành phố đã phải ăn khoai lang, khoai mì và bo bo. Lương thực bán theo sổ gia đình, hoàn toàn không có gạo. Khi nào được mua bột mì thì sung sướng lắm. Vì có thể đổi bột lấy bánh mì (món ăn ngon nhất lúc bấy giờ) Nhờ có bánh mì tôi có thêm việc làm để kiếm được vài đồng đi chợ. Tôi phải lo làm nước sốt (muối + cà chua) thái cà rốt củ cải dưa leo làm đồ chua mang ra trước cửa bán từ 4 giờ sáng.


Ngày tháng cứ qua đi với buồn lo nặng trĩu vì 4 đứa con cần ăn để sống . Tôi như con chong chóng hết bán bánh tôm bánh cuốn tại đường Duy Tân lại quay ra bún ốc bún riêu ở đường Gia Long. Nhưng cũng không được bao lâu vì “chiến dịch dẹp lòng lề đường”. Tôi lại phải chạy thuốc tây, ai cần bán cần mua là có tôi làm chân chạy. Tôi còn nhớ một lần có người cần mua 5 chai nước biển, mà tôi chỉ có đủ vốn cho 2 chai, thế là tôi phải chạy làm 3 lần từ chợ Vườn Chuối qua chợ Bà Chiểu mới giao đủ hàng được . Đạp xe đạp muốn kiệt sức vì mồ hôi và nước mắt nhoè nhoẹt đến không thấy đường đi. Nhiều lúc đầu óc tôi muốn vỡ tung ra vì những tính tóan cho cuộc mưu sinh, vì những thay đổi khôn lường của xã hội chủ nghĩa và nhất là vì những hoang mang lo sợ cho chồng tôi đã bao lâu biệt vô âm tín. Ban đêm, nhìn những khuôn mặt ngây thơ của các con tôi trong giấc ngủ say sưa; tôi yên tâm vì tôi vẫn còn có chúng ở bên tôi. Nhưng chồng tôi nay ở đâu? Đói no ấm lạnh ra sao? Anh là người nặng tình chồng vợ, yêu qúy các con, liệu anh có yên giấc được không? Hay cũng như tôi thao thức suốt đêm thâu với bao nỗi lo âu tắc nghẽn không phương giải thoát. Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc nức nở để vơi bớt nỗi buồn lo nặng trĩu bên mình. Tôi không dám khóc trước mặt các con vì chúng sẽ òa khóc theo ngay khi thấy tôi chảy nước mắt.

Mãi gần một năm sau tôi mới được tin chồng tôi dù chẳng phải là tin vui. Anh đang bị một cơn sốt rét ác tính và thiếu thức ăn trầm trọng có thể chết bất cứ lúc nào. Mong ước của anh là muốn biết tin tức của mẹ con tôi trước khi anh nhắm mắt. Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi. Tôi lạy van người đưa tin xin chỉ đường cho tôi đi gặp anh.

Sau cuộc hành trình khá vất vả, lội suối băng rừng, những con vắt cắn tôi chảy máu tùm lum mà tôi không hề biết sợ biết đau. Quần áo ướt hết, gió lạnh làm tôi rét run, xanh mét. Tới nơi chưa kịp mừng thì đã bị cán bộ trưởng trại tra hỏi lâu ơi là lâu. Cuối cùng vì “cảm phục lòng yêu chồng của phụ nữ miền Nam ”. Họ cho tôi gặp mặt. Vì chồng tôi đau nặng nên anh em cùng “láng” cho mắc võng ở giữa còn các anh mắc võng chung quanh để che gió lạnh. Thật sự thì có che được bao nhiêu đâu vì mỗi khi gió tạt vào thì tất cả đều lãnh gió cát đầy cả mặt mũi. Tôi chết đứng khi thấy chồng tôi chỉ còn là bộ xương sơn đen, hàm răng trắng nhô ra vì đôi má đã hóp lại, cặp mắt lõm sâu không còn thần sắc. Tôi khóc lặng lẽ nước mắt như mưa nhào tới bên anh, ôm lấy tay anh, còn anh thì không còn đủ sức để nắm tay tôi nữa. Thời gian như ngừng lại, các anh xung quanh cũng yên lặng ngậm ngùi.

Tôi không thể nào quên được đêm hôm ấy, trước đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt mà tôi chắc trước kia đẹp đẽ oai phong lắm trong bộ quân phục VNCH, bây giờ thì chao ơi là tội nghiệp, họ chỉ còn là những bộ xương người biết cử động . Thương người, thương mình tôi khóc đến đau nhức cả hai mắt. Chồng tôi thì nằm thoi thóp, miệng vẫn cố cười, chắc anh đã mãn nguyện? Đứa con gái út của anh mới tám tháng nên hãy còn bú mẹ. Hai bầu sữa căng nhức, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi mọi người ra xa để vắt sữa. Tôi bưng chén sữa bỏ thêm hai muỗng đường rồi đổ cho chồng tôi từng muỗng một.

Chồng tôi có lẽ nhờ vào mấy chén sữa của tôi mà tới sáng anh đã tỉnh hẳn. Mấy anh bạn cứ chọc anh là uống sữa tiên nên mới được như vậy .

Sau chuyến đi ấy tôi ngã bệnh cả tuần lễ . Vừa khỏi là tôi lại sửa soạn đi một chuyến nưã vì tôi biết chồng tôi rất cần thuốc men và tẩm bổ. Hai chân anh ấy không mang nổi tấm thân gầy chỉ còn 40 ký lô. Nỗi buồn lo này chưa hết, lại đến nỗi buồn vì con bé không thèm sữa mẹ nữa. Thế là tôi mất thêm niềm hạnh phúc vô biên là dược ôm con, ngắm cái miệng xinh xinh của con như gắn liền với bầu vú mẹ để dược mẹ chuyền cho giòng sữa chan chứa yêu thương. Các cụ đã nói là khi dang cho con bú thì không được cho ai sữa của mình kẻo trẻ sẽ chê sữa mẹ. Tôi cũng tin như thế nhưng biết làm sao hơn khi thấy chồng tôi cũng đang cần sức sống.

Muốn có thuốc men và đồ ăn cho chồng thì phải lo tiền nhiều hơn. Bán ngoài đường bị đuổi , tôi soay ra làm bánh croissant ở nhà . Tối nào tôi cũng nhờ mấy cậu hàng xóm sang nhào bột hộ, xong bắt bánh rồi chờ bột nở cho vào lò. Lúc đầu tôi tự làm, tự bán nhưng sau tôi để bà con lối xóm lấy bánh đi bán các nơi, bán nhiều thì lời nhiều. Nếu không bán hết thì tôi lấy lại để nướng khô bán cho các chị đi thăm nuôi. Vậy mà cũng chẳng được bao lâu thì hết vốn vì bánh thì vẫn phải làm mà tiền thì không thu về được vì ai cũng nghèo nên dù bánh bán hết cũng không đủ tiền mua gạo nên lại khất tôi lần sau, rồi lần sau nữa … .Dù sao tôi vẫn phải cố xoay sở cho có đủ tiền đi thăm nuôi chồng.

Tới năm 1977, chồng tôi bị “biên chế” chuyển từ Kà Tum qua Trại An Dưỡng Biên Hòa . Lúc đó chúng tôi mới được đi thăm chính thức. Cán bộ trong trại đã gửi giấy về nhà, cho phép thân nhân đi thăm sau gần hai năm biệt tăm tin tức. Có được đặc ân này là do những xôn xao, bất mãn của gia đình tù nhân cải tạo. Sau lần thăm đó, anh bị đưa ra Bắc lúc nào tôi không hay .


Thời gian này là khủng khiếp nhất vì họ đổi anh đi lung tung, nào Lào Cai, nào Yên Bái, nào Lạng Sơn ! Vừa được tin ở nơi này thì đã bị chuyển đi nơi khác, không có cách nào thăm nuôi được . Tôi phải mua chui những tấm phiếu để được phép gửi quà, mỗi gói chỉ có 3 kg thôi, địa chỉ phải viết theo ám số. Tôi phải làm thịt kho với cả chai nước mắm, hy vọng mặn thì để được lâu vì không biết bao giờ gói quà mới tới tay người nhận. Trông thấy tôi kho thịt, các con tôi nói: “Bố sướng quá, có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi mình!” Còn gì đau khổ và xót xa hơn cho tôi khi nghe thấy câu so sánh thơ ngây này!!


Cuối cùng tôi cũng tìm ra được họ chuyển anh về Vinh-Nghệ Tĩnh. Tôi và chị anh vội ra thăm. Vì không có giấy phép nên chúng tôi phải đi tàu với giá chợ đen, nghĩa là đi từng chặng một và giá vé gấp đôi . Tới nơi tôi sẽ vào báo công an là tôi bị mất cắp nên mất luôn cả giấy phép thăm nuôi và xin họ chứng nhận cho. Phải có giấy đó tôi mới được phép vào trại thăm chồng tôi. Tôi đã phải nói dối mới thoát qua ải lính gác.


Vừa xuống tàu là tôi đã hoảng sợ vì dân địa phương đứng chỉ chỏ bọn tôi: “Vợ ngụy kìa!” Cũng may họ không ném đá chúng tôi như đã ném đá các anh khi phải chuyển ra Bắc. Chúng tôi tới nơi là chiều thứ Bảy, họ không kiếm được chồng tôi. Qua ngày Chủ Nhật tôi vẫn còn hy vọng gặp mặt vì họ nói anh đi xa làm việc, đã cho gọi rồi, thứ hai sẽ gặp. Đêm Chủ Nhật, tôi nằm mê thấy anh về báo cho tôi biết là anh đã chết!? Anh linh thiêng như vậy chăng? Tôi tỉnh dậy khóc quá trời làm thức giấc mọi người. Các chị đi thăm nuôi an ủi tôi “ Sinh dữ tử lành, yên chí đi, mai được gặp”. Tôi không thể nào tả được hết nỗi buồn lo, bối rối của tôi đêm đó và thức luôn đến sáng, không thể nào ngủ lại được. Mờ mờ sáng tôi đã dậy . Mọi người lo nấu cơm vì nghe nói ở đó không bao giờ tù nhân có cơm ăn. Trời sáng hẳn. Dưới lớp sương mù của núi, từ trên nhìn xuống, tôi thấy từng toán người đi ra lao động. Tôi như người mộng du, như có ai đẩy tới, tôi từ từ đi xuống chân núi, nơi cấm các thân nhân tù cải tạo tới gần. Toán 1 đi qua, rồi toán 2, rồi toán 3, tôi nghe thấy tiếng gọi “Chị chung, chị Minh” và tiếp theo tiếng ai la to: “anh Chung chết rồi!” Tôi ngã xuống và không còn biết gì nữa
.

Khi tỉnh lại, tôi thấy tay chân bị trói vao trõng tre, y sĩ đang chích thêm hai mũi thuốc

khoẻ. Tôi nghe kể là tôi đã ngất đi và họ khiêng tôi lên núi cả tiếng đồng hồ qua rồi. Họ phải trói tôi lại vì sợ tôi vật vã làm gẫy kim chích. Tôi nói tôi không sao, cởi trói ra cho tôi . Sau cơn choáng quá đau tôi lại trở thành bình tĩnh quá làm họ cũng phát hoảng luôn. Tôi yêu cầu gì thì họ cũng cho phép hết. Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi, trao lại cho các anh hơn 120 kí lô quà tôi mang đến. Ai cần gì thì lấy rồi viết thư về nhà nhắn vợ con đem tiền trả tôi. Cuối cùng cán bộ mang đến cho tôi một cái túi xách tay, trong chả có gì ngoài bộ bà ba cũ mèm của chồng tôi. Họ cho tôi một chén cơm hẩm, hôi mùi gạo mốc, trên có quả trứng luộc dể mang ra mộ. Trẻ em theo sau để nhìn bát cơm, trầm trồ: “ cơm kìa! cơm kìa!” tôi di như một thây ma sống, mắt mở to mà nào có nhìn thấy gì, tai cũng chẳng nghe thấy gì, bước thấp bước cao theo hai người dìu tôi đi, tim như đau buốt, nước mắt chảy không ngừng. Khi ra tới mộ tôi lại ngất đi một lần nữa. Giá mà khi ấy tôi dược đi luôn theo chồng tôi thì hay biết mấy!


Tôi trở về nhà với một thân xác rã rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng gì, mắt mở to mà chả nhìn thấy gì. Tôi đã phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần . Rất may cho tôi và các con tôi là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận tình.


Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hang chữ “Người nhận đã chết. Trại yêu cầu hoàn.” Ra bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi . Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa . Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “phạm nhân chết”. Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. (Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “tội ác” của chồng tôi!) Can tội: Giảng viên tâm lý chiến xã hội học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt. Án phạt tù: 3 năm; nhưng khi chết đã 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng lời chắc chồng tôi không thể chết.


Thế là xong là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi, nhưng vì bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội tình gì. Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi dùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi . Tình thương con đã thắng cái “điên” của tôi để lo lắng cho chúng nhưng với phường khóm thì tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”. Tôi không chịu đi họp tổ họp phường gì cả . Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi thi anh đã chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không còn gì phải họp với hành nữa”.


Lúc trước mình ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt thì họ xét cho chồng về sớm. Nay tôi không còn gì để sợ nữa thì họ lại để tôi được yên thân.


Tôi bắt đâu tính chuyện vượt biên, mấy mẹ con dắt díu nhau đi tìm đất hứa không biết bao nhiêu lần. Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận vì thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi. Bị bắt tù đày thì lại càng hối hận hơn vì các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi. Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy thì cũng ghẻ lỡ ghê hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa . Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi. Nhưng dù sao đi nữa cũng còn có chỗ để mua “nhu yếu phẩm” và được “thầu” để bán quà cho học trò trong trường.

Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt vì “nhất thân, nhì thế” của xã hội lúc bấy giờ. Phận mình thì xong rồi, bạn bè tôi còn rất nhiều có chồng dang tù tội. Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để “lá rách nát đùm lá tả tơi” đứa nào có thứ gì cho tù ăn được thì mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm. Trong cái tình đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn mà không ai có thể chia xẻ với họ. Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đã chia sẻ từng bó rau muống từng chén nước mắm “muối + nước màu” cho các con ăn. Từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng. Chỗ chồng bạn tôi ở lại có “nhà hạnh phúc” và các anh tù phải làm việc thật tốt thì cán bộ mới cho phép gặp vợ tại đó. Lẽ dĩ nhiên chồng bạn tôi làm khổ sai cật lực để được ân huệ đó . Chị cũng là một cô giáo, sống rất đạo dức và thành tín, thương chồng vô cùng, nhưng khi vào thăm đã thấy “nhà hạnh phúc” có mấy cái trõng tre và mấy anh cán bộ ngồi canh. Chị đã không thể “cho anh” và điều này đã khiến anh nổi giận nghĩ là chị đã có “ai khác” ngoài đời. Chị đã bị anh chửi bới tơi bời còn gì thê thảm hơn nữa không? Thời gian đã qua tôi hy vọng anh đã thông cảm với chị về cái “không thể cho anh” đó. Mặc dù giờ thì anh chị cũng đã xa nhau, thật là một điều rất đáng tiếc.


Lại thêm một cô bạn láng giềng, may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm. Dễ nóng giận và mặc cảm đầy mình. Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng. Ông chồng lại muốn may để mặc vì ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới . Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tý tiền lo cho gia đình nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.” Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người. Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của mình; tuy nhiên anh vẫn đổ lỗi cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó lại là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu cuả vợ tù cải tạo.


Thắm thoát dã qua 7 năm lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đã dễ thở vì chị em bạn bè ở ngoại quốc đã bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh. Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum. Tôi phải gửi mẹ tôi tại Nghệ Tĩnh để cùng với người cháu đi vào K3 chỗ họ chôn xác Anh. Đường thì xa, đất sét trơn trượt tôi nghĩ đành phải bỏ cuộc vì hai bàn chân đã sưng rát. Tôi ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa van vái “anh có linh thiêng xin phù hộ cho em tới nơi để mang anh về gần em và các con”. Đang gục đầu khấn nguyện thì nghe tiếng xe lọc cọc do một con trâu kéo, trên là các cán bộ đi công tác về. Họ tra hỏi và tôi “thành khẩn khai báo” nên họ cho tôi lên xe quá giang tới tận nơi. Tôi nhờ người cháu trở lại để đón Mẹ tôi trở vào trại ngày hôm sau để bốc mộ. Tôi không thể nào quên cái cảm giác hãi hùng khi được anh cán bộ đưa lên núi, chỗ đó là chồ để các thân nhân tù lên ở tạm qua đêm vì không có xe về ngay . Khổ cho tôi là khi tôi tới nơi thì chỉ có một mình, có sợ cũng chẳng làm sao hơn được tôi đành cầu cứu nơi các đấng thiêng liêng, Chúa Mẹ, Phật Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, cầu chồng tôi che chở bảo vệ tôi . Cứ mở mắt to mà van xin cầu nguyện đâu có dám nhắm mắt mặc dù đã quá mệt mỏi . Rất may trời bắt đầu tờ mờ sáng là mẹ tôi đã đến nơi . Chúng tôi được cán bộ hướng dẫn đi tìm mộ, may mắn tôi gặp được anh cán bộ người miền Nam rất tốt bụng đã cho phép chúng tôi được gặp những người đã chôn chồng tôi lúc trước. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là gì và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đã tan vào với cát, chỉ còn bộ xương trắng mà các bạn anh đã từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng mò tìm cho đủ . Một sợi dây làm bằng giây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có hình dáng 2 người đứng bên nhau đã được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đã làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt. Anh đã phải cất giấu bao ngày vì nếu cán bộ thấy là bị tịch thu ngay. Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải bỏ vão trong một cái bị to để chúng tôi mang về . Còn tôi ngồi chết cứng với nước mắt rơi sầu tủi. Xót thương anh.

Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nhìn và khẻ gọi mẹ. Tôi quay lại giúp cô bạn còn vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang thì lại nghe anh ta gọi “em Liễu”. Cô bạn tôi nghe tên ngoảnh mặt lại nhìn và lại bỏ đi luôn. Đem đồ lên đặt cùng chỗ với bà cụ chúng tôi lại quay lại trở lại để đem nốt chỗ còn lại, tôi bảo cô bạn, có lẽ anh tù kia quen Liễu đấy . Ta thấy anh gọi Mẹ lại kêu tên Liễu đó. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra . Tới khi anh ta quên cả sợ cán bộ chồm lên đường kêu Liễu. Anh dây, Tuấn đây mà . Lúc đó bà cụ cũng đã trở lại và nhận ra con, cụ khóc òa ôm lấy anh tù, còn Liễu cũng khóc nhưng la “không phải anh mà” không phải anh đâu . Người chồng yêu quý vì tháng năm đói khổ phải ăn khoai mì nên mặt anh ta biến dạng vì quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai mì làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả . Tôi cũng không cầm được nước mắt lại nghĩ rằng chắc chồng tôi còn sống thì mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.

Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đò, mọi người ngồi chật cứng trong xe, còn có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất là nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh là trời đã tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi. Ngồi sân ga đợi tàu rất là nguy hiểm vì mẹ con tôi nhơ ngác với xứ lạ quê người . Mẹ tôi phải lấy giây buộc cái bị và cuốn quanh người . Chỉ sợ lỡ mất đi thì khổ lắm. Tôi hồi hộp sợ hãi còn hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa. Sau một lúc nói chuyện gây cảm tình và nhờ có “thủ tục đầu tiên” ( xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông quản lý nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát. Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đã có ơn trên che chở nên đã mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn. Vì nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát khỏi xự khám xét trên tàu mà nếu họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng xuơng đi . Giờ đây lâu lâu tôi lại có cơn ác mộng gặp lại cái cảnh mà công an đi sục sạo trên tàu, bắt mở tất cả mọi thứ để khám xét là tôi hét lên bật giậy mồ hôi ướt đẫm người. Sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi vì nhớ thương anh và tủi phận mình đơn độc.

Hiện tại thì chồng tôi đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở Bình Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa vì họ còn tính dẹp cả nghĩa trang mặc dù đó là đất tư mà gia đình tôi đã phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngay trong thành phố Saigon .

Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tả của tháng 6 năm 1994. Được gia đình cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ. Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước công sản đã khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ còn biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.

Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Nay các con tôi đã lớn, đã thành đạt và rất hiếu thảo. Chúng hết lòng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật mãn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng mãi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng. Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, còn lại một mình tôi, tôi lại thấy sợ hãi. Những năm tháng khổ cực, hãi hùng của thời dĩ vãng lại kéo đến ám ảnh tôi. Hình ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tả tơi, thoi thóp trên trõng tre lại chập chờn quanh tôi. Tôi đã thì thầm với anh: “ Đợi em đi cùng!” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên dể được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia dình có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!


Trần Thị Thanh Minh


Monday, October 1, 2012


Bà Aung San Suu Kyi
MỘT GƯƠNG SÁNG CHO NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA :


Bà Aung San Suu Kyi ( Ong Xan Xu Trí - The Lady: Người Phụ nữ không biết sợ vì Không biết hận thù.

"Trong những giây phút của tuyệt vọng, tôi tự nhắc mình là trong lịch sử, sự thật và tình thương luôn luôn chiến thắng. Có rất nhiều bạo chúa và sát nhân tin là họ không bao giờ bị thất bại, nhưng cuối cùng họ vẫn bị tiêu diệt. Chúng ta phải luôn luôn nhớ điều đó !!!".

"Em chỉ xin anh một điều. Nếu có một ngày nào đó dân tộc của em cần đến em, thì em xin anh hãy giúp em làm tròn nhiệm vụ của em. Em chưa đoán được lúc nào sẽ đến, nhưng chuyện đó rất có thể xảy ra......

Tình yêu là hành động không phải là trạng thái yên lành. Không phải đơn giản là ngồi đó và gởi đi những tín hiệu yêu thương, mà phải biến tình yêu đó thành hành động" - Aung San Suu Kyi

Lương Nguyên Hiền (Khatvongtuoitre.net)

Bắt đầu từ một cuốn phim:

"The Lady" là một cuốn phim về cuộc đời của Aung San Suu Kyi được ra mắt lần đầu tiên vào tháng 9 năm 2011 tại thành phố Toronto ở Canada. Trong mấy chục năm qua, Suu Kyi đã trở thành một nhân vật biểu tượng của phong trào đấu tranh bất bạo động tại Miến Điện với 15 năm trời bị quản thúc và được trao tặng giải Nobel Hoà bình năm 1991. "The Lady" của đạo điễn nổi danh Pháp Luc Besson và nữ tài tử Michelle Yeoh (Dương Tử Quỳnh), 48 tuổi cựu hoa hậu Mã Lai Á, đóng vai Suu Kyi. Michelle Yeoh là một khuôn mặt quen thuộc trong giới điện ảnh quốc tế và đã từng đóng những phim sáng giá như Tomorrow Never Dies (James Bond 007), Memoirs of a Geisha, Tiger and Dragon, The Karate Kid,….

Đây là cuốn phim nói về cuộc tình của Suu Kyi và Michael Aris, chồng bà, được lồng trong một bối cảnh chính trị sôi động ở Miến Điện trong thời điểm từ năm 1988 đến năm 1999. Năm 1988, là năm định mệnh, Suu Kyi trở về nước khi nghe tin mẹ bị bệnh nặng, chỉ một thời gian ngắn sau đó Suu Kyi đã đứng lên lãnh đạo phong trào đối lập, cũng từ ngày đấy trở đi Suu Kyi không hề bước chân ra khỏi quê hương mình lần nào và năm 1999, là năm mất mát, Michael Aris, chồng bà, bị chết vì bệnh ung thư.

Nữ tài tử võ thuật Michelle Yeoh đã tuyên bố rất hãnh diện được đóng phim "The Lady" và coi như là một phim để đời cho mình "Tôi đã sống và thở cùng với Aung San Suu Kyi trong suốt bốn năm qua. Ngày cũng như đêm", cô xem đó là điều tiên quyết để đi vào thế gìới của Suu Kyi. Michelle Yeoh còn bay qua Miến Điện để đi tìm chất con người sau lưng hình tượng Suu Kyi và cũng là một dịp để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình đối với bà. Lần thăm thứ hai vào tháng 6 năm 2011 cô bị chính phủ quân nhân Miến Điện cấm không cho vào đất nước này nữa. Yeoh thố lộ "Nếu nhiều người đã cảm phục về con người đấu tranh đòi tự do công bằng của bà, thì người ta sẽ xúc động hơn nếu biết thêm về cuộc tình của hai vợ chồng này, bởi vì Michael Aris là người chồng tuyệt vời đã tìm mọi cách để nâng đỡ vợ mình trong những ngày dài bị giam giữ và cuối cùng thì ông đã chết đơn độc ở Anh trong khi vợ ông vẫn còn bị quản thúc ở Miến Điện".

Nếu biết rằng trong đêm tân hôn, Suu Kyi đã viết cho chồng mình "Em chỉ xin anh một điều. Nếu có một ngày nào đó dân tộc của em cần đến em, thì em xin anh hãy giúp em làm tròn nhiệm vụ của em. Em chưa đoán được lúc nào sẽ đến, nhưng chuyện đó rất có thể xảy ra"

Thì cuộc tình này hẳn phải là cuộc tình rất đẹp và rất thơ mộng nhưng nó ngầm chứa cả một sự đòi hỏi hy sinh lớn lao vô bờ bến cho nhau.

Daw Aung San Suu Kyi, bà là ai?

Tên bà được phát âm (theo tiếng Anh) "Ong San Soo Chee" và có nghĩa là "Chùm hào quang của những chiến thắng đáng nhớ" (A radiant bundle of memorable victories). Bà thường được gọi với tên là Daw Aung San Suu Kyi. Trong ngôn ngữ Miến Điện, Daw được mang ý nghĩa gần giống như Bà (Madame), dùng để bày tỏ sự tôn kính.

Suu Kyi sinh năm 1945 tại Rangun, Myanma (Miến Điện) là con gái út của tướng Aung San, người sáng lập ra quân đội Miến Điện và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Anh giành độc lập cho Miến Điện. Năm 1947 tướng Aung San bị ám sát năm ông 32 tuổi, lúc đó Suu Kyi mới lên hai. Mẹ bà là Khin Kyi, sinh ra 3 ngườì con, hai trai và một gái. Năm 1948 người Anh trao trả độc lập lại cho Miến Điện, tức là một năm sau khi cha bà mất, mẹ bà đã trở thành một nhân vật rất được kính trọng trong chính giới Miến Điện .

Năm 1960 mẹ bà được cử đi làm đại sứ tại Ấn Độ, Suu Kyi theo mẹ qua New Delhi học trung học ở đó. Năm 1964 Suu Kyi qua Anh học ở đại học Oxford và đậu bằng cử nhân về chính trị học và kinh tế học năm 1967.

Năm 1972 Suu Kyi kết hôn với Michael Aris, người Anh chuyên gia về văn hóa Tây Tạng và cũng là một Phật tử thuần thành. Sau đám cưới Suu Kyi đi theo chồng qua Bhutan, một vương quốc nhỏ trong dẫy núi Hy Mã Lạp Sơn, lúc đó Michael Aris nhận dạy tiếng Anh cho Hoàng Gia Bhutan. Hai ông bà có 2 con trai, Alexander sinh năm 1973 và Kim sinh năm 1977. Hai con của bà được dạy dỗ theo phong tục Miến Điện và được hướng dẫn sống theo tinh thần Phật giáo.

Năm 1988 là năm của định mệnh, đang sống êm đềm với gia đình thì được tin mẹ bà đau nặng, tháng ba năm đó Suu Kyi về Rangun để chăm sóc cho mẹ. Tháng 5 sinh viên và dân chúng Rangun xuống đường biểu tình phản đối chế độ quân phiệt của tướng Ne Win cầm đầu. Tháng 7, tướng Ne Win, người đã cầm quyền từ năm 1962 sau một cuộc đảo chính quân sự, vì bị áp lực của quần chúng phải từ chức. Những cuộc biểu tình chống đối đòi hỏi dân chủ tiếp tục leo thang, chính phủ quân đội Miến Điện thẳng tay đàn áp, 5.000 người bị bắn chết trên đường phố vào ngày 8 tháng 8 năm 1988, người ta gọi đó là biến cố 8888. Trong lúc đó Suu Kyi đang ở bệnh viện để chăm lo bệnh tình của mẹ, xúc động trước cái chết dũng cảm của những người đi biểu tình và phẫn uất trước sự sát hại dã man của bọn quân phiệt, Suu Kyi nhập cuộc vào đấu tranh.

Ngày 24.9 cùng với một số bạn bè đồng chí hướng, Suu Kyi thành lập đảng Liên minh Quốc gia Dân chủ (NLD) và được bầu làm tổng thư ký. Chủ trương của đảng là tranh đấu bất bạo động. Mặc dù bị cấm, Suu Kyi vẫn đi khắp nơi để phát động phong trào đấu tranh cho tự do và dân chủ. Có lần Suu Kyi đã đi thẳng vào mũi súng đã lên đạn của binh sĩ chắn đường để mở đưòng tới trước.

27 tháng 12 bà Khin Kyi, mẹ bà, mất lúc 76 tuổi. Trước linh cửu của người mẹ, Suu Kyi đã thề quyết tâm theo chân của cha mẹ mình để phục vụ tổ quốc dù có phải hy sinh đến tánh mạng. Người mẹ thân thương vĩnh viễn ra đi, là sự mất mát lớn nhất đối Suu Kyi, vì mẹ bà tượng trưng cho sự ngay thẳng, can đảm và kỷ luật nhưng cũng rất là nhân ái, những đức tính này đã theo đuổi bà suốt đời. Suu Kyi thường nói "Mẹ tôi dạy tôi một điều căn bản là bất công không bao giờ đứng vững vĩnh viễn và kinh nghiệm của tôi cho tôi biết điều đó là đúng". Có phải cái đó đã mang lại cho Suu Kyi một niềm tin "tất thắng" vững bền trong một cuộc đấu tranh trường kỳ với 15 năm bị giam hãm, vì bà luôn luôn tin rằng một ngày nào đó công lý sẽ chiến thắng bất công.

Cuộc đấu tranh bất bạo động:

Sau tang lễ, Suu Kyi tiếp tục lao mình vào cuộc đấu tranh mặc dù bị đàn áp, đe dọa và bắt bớ. Hội đồng Quốc gia Vãn hồi Trật tự và Luật pháp (SLORC), do chính phủ quân nhân thành lập, ban hành lệnh giới nghiêm. Tháng 2 năm 1989 Suu Kyi bị cấm không được ra tranh cử vào quốc hội, tháng 7 bà bị SLORC quản thúc tại nhà mặc dù không có án lệnh của tòa án.

Tháng 5 năm 1990, dù Suu Kyi vẫn còn bị giam lỏng, nhưng đảng NLD của bà thắng lớn (82%). SLORC không công nhận kết quả cuộc bầu cử.

Tháng 10/1990 Suu Kyi được giải Nhân Quyền Rafto. Tháng 7/1991 bà được gỉải Nhân Quyền Sakharov do Quốc hội Âu Châu trao tặng. Tháng 10/1991 Suu Kyi được giải Nobel Hoà bình, bà từ chối đi Oslo để lãnh giải vì sợ không được trở về lại Miến Điện nữa. Hai người con trai của bà đã thay mẹ đi lãnh giải. Số tiền thưởng 1,3 triệu Mỹ kim được Suu Kyi bỏ vào quỹ xã hội và giáo dục cho dân nghèo Miến Điện.

Cũng trong thời gian này, Suu Kyi cho ra cuốn sách “Freedom from Fear” (Vượt lên sự sợ hãi). Sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bà được mang danh là "Người đàn bà không biết sợ" (Lady of no fear). Giam cầm và bắt bớ, không làm Suu Kyi lùi bước. Bà nói: "Căm thù và sợ hãi luôn luôn đi chung với nhau. Tôi không có căm thù thì tôi không có sợ hãi. Tôi chưa biết căm thù là gì, vì cha mẹ tôi chưa bao giờ dậy tôi điều đó. Nếu tôi bắt đầu căm thù những người đã giam cầm tôi, thì tôi đã tự mang đến thất bại cho chính mình". Ta có thể hiểu là biết căm thù là biết sợ, mà sợ hãi là cái không cần thiết cho cuộc đấu tranh dài lâu".

Suu Kyi chủ trương đối thoại để thiết lập thể chế dân chủ và luôn luôn tỏ thiện chí sẵn sàng hợp tác. Bà không muốn những người mặc quân phục bị bạo lực lật đổ, mà mong họ có cơ hội trở về cuộc sống bình thường để xây dựng đất nước với tất cả khả năng và lòng yêu nước chân thành. Có lẽ trong thâm tâm, bà muốn tránh một cuộc nội chiến tương tàn, 35 năm quá dài để sống dưới chế độ độc tài quân phiệt, người dân Miến Điện đã chịu quá nhiều đau thương, tang tóc. Nếu tính đến năm 2007, thì có 3000 làng mạc bị phá hủy, một triệu người phải trốn đi tỵ nạn, thêm một triệu người bị đầy ải nơi rừng sâu nước độc, một trăm ngàn người bị cưỡng bách lao động, riêng ở Rangun có 15 chùa bị tàn phá. Cũng trong lúc đó, lợi dụng chính quyền quân nhân bị thế giới cô lập, Trung Quốc tìm cách mua chuộc bọn tướng lãnh để được tự do khuynh đảo nền kinh tế vốn đã bệnh hoạn của Miến Điện.

Tháng 7/1995 sau 6 năm giam lỏng, SLORC trả lại tự do cho bà. Nhân dịp này Suu Kyi đã tìm cách cải tổ lại đảng NLD và tiếp tục gióng lên tiếng nói của mình trong nước cũng như ngoài nước. Suu Kyi kêu gọi thế giới không nên đầu tư vào Miến Điện. Mặc dù đây là một quyết định rất khó khăn cho bà, nhưng theo bà là cần thiết, bởi vì dân Miến Điện không thể nghèo hơn nữa và tất cả nguồn lợi kinh tế mang tới chỉ làm cho bọn tướng lãnh giầu thêm và chế độ quân nhân vững mạnh thêm.

Ngày 6/12/2000 tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tặng cho bà huy chương “Tự do” ("The Presidential Medal of Freedom"), đây là một huy chương dân sự cao quý nhất ở Mỹ.

Suu Kyi bị quản thúc lần thứ hai từ tháng 9/2000 cho đến tháng 5/2002.

Khi được trả lại tự do, Suu Kyi cho biết: "Tôi chưa bao giờ có cảm giác là tù nhân bởi vì tôi chưa vào tù (bị quản thúc) và cũng như bao nhiêu người đã vào tù mà họ vẫn cảm thấy có tự do. Từ ngày được thả ra, tôi thấy không có gì khác biệt bởi chúng tôi đang sống trong nhà tù lớn. Nói cho cùng, bị quản thúc cũng chỉ bổn phận của tôi và tôi đang làm công việc tôi phải làm".

Tháng 5/2003 Suu Kyi bị bắt lại, sau đó bị giam lỏng tại nhà ở Rangun. Ngày 13.11.2010 bà được trả lại tự do. Tổng cộng 15 năm trời bị giam lỏng trong 21 năm kể từ ngày Suu Kyi bước chân về nước.

Năm 2005, Suu Kyi được giải thưởng Olof-Palme. Năm 2007 bà được bầu làm công dân danh dự của Canada và năm 2008 bà được tặng huy chương "Vàng" (Congressional Gold Medal) của Quốc hội Mỹ. Năm 2009, Hội Ân xá Quốc tế (Amnesty International) đã trao Suu Kyi giải thưởng "Đại sứ Lương Tâm" (Ambassador of Conscience), một danh hiệu cao quý nhất của hội, thừa nhận sự hy sinh to lớn của bà trong vấn đề bảo vệ và phát huy nhân quyền. Ông Nelson Mandela, cựu tổng thống Nam Phi, người đã bị tù hơn 25 năm trong cuộc tranh đấu chống chủ nghĩa "Apartheid" là một trong những nhân vật nổi tiếng được trao giải này. Những thành quả của Suu Kyi gặt hái được trên quốc tế, đã mang lại cho người dân Miến Điện một sự tự tin vào chính mình trong cuộc tranh đấu dành lại nhân quyền.

Từ một người đàn bà chỉ biết có mái gia đình và nuôi con, Suu Kyi đã dấn thân và biến mình thành nhân vật đấu tranh cho nền dân chủ Miến Điện. Theo gương của Thánh Gandhi đã thành công khi mang phương pháp bất bạo động áp dụng ở Ấn Độ khiến người Anh không thể cai trị một dân tộc với tinh thần yêu nước cao độ như vậy được. Bà luôn luôn đề cao tinh thần tranh đấu bất bạo động trong suốt quá trình hành động. Theo bà bất bạo động có nghĩa đơn giản là những phương thức sử dụng không có bạo lực, nhưng không phải là ngồi thụ động để cầu mong những gì mình muốn có.

Bà gọi cuộc đấu tranh này là cuộc "Cách mạng tinh thần". Ở đây không chỉ đơn giản là cái thiện thắng cái ác, mà tầm nhìn của bà còn đi xa hơn nữa là muốn tạo nên sự thay đổi lớn trong tâm thức của người dân và đem lại sự tự hào, niềm tin cho dân tộc Miến Điện, chỉ có như vậy người dân mới thật sự thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu vĩnh viễn.

Cuộc chiến đấu giữa Kodha (Phẫn nộ) và Metta (Tâm từ):

Một số người quý mến gọi bà là Ghandi Miến Điện, điều đó có thể không đúng lắm, bởi cuộc đấu tranh Suu Kyi có pha trộn thêm những giá trị của Phật gíáo vào những nguyên tắc bất bạo động của thánh Ghandi. Bà lấy Tâm từ làm trọng điểm cho cuộc đấu tranh. Tâm từ (bi) tiếng Pali gọi là Metta là thứ tình yêu bỏ hết vị kỷ, nó không đơn thuần chỉ là tình yêu của người mẹ yêu con, người chồng yêu vợ, mà là lòng ước muốn làm sao mang lại an lành hạnh phúc cho mọi chúng sinh không trừ một sinh vật nhỏ bé nào. Và chỉ có tình yêu cao thượng ấy mới có tác động mạnh mẽ làm chuyển hóa được tâm thức con người và đưa những con người từ yếu hèn vượt lên mọi sợ hãi để biến thành ra một sức mạnh vô song chiến thắng được mọi áp bức. Sức mạnh này ông Vaclav Havel, cựu Tổng thống nước Cộng hoà Czech, cho đó là "Quyền lực của không quyền lực" (The Power of Powerless) hay muốn nói rõ hơn đây là sức mạnh tổng hợp của những người dân bị trị đứng lên đòi lại quyền của mình.

Suu Kyi tìm cách đối thoại với chính quyền quân nhân, nhưng họ không đáp ứng lại, có thể vì họ sợ. Thường thì khi sợ, là lúc con người đánh mất niềm tin vào chính mình. Càng sợ, bọn quân nhân càng đàn áp mạnh. Trước bạo lực mỗi ngày gia tăng, Suu Kyi vạch ra con đường đi: "Càng bị đàn áp bao nhiêu, chúng tôi càng không bỏ con đường Metta (Tâm từ) của chúng tôi. Chúng tôi chủ trương tích cực hành động. Tích cực phát triển Metta vào hành động". Hành động là giai đoạn cuối cùng của phẫn nộ. Phẫn nộ tiếng Pali gọi là Kodha là một hình thức biểu lộ sự phản kháng của con người trước điều ác, bởi vì con người không thể sống như một sinh vật điếc mù câm, không nghe không thấy không nói lên được cái đau cái khổ của chúng sinh. Suu Kyi đã phẫn nộ, từ một người phụ nữ mảnh mai với đóa hoa cài trên mái tóc đã nhập cuộc xuống đường để cùng chia cái đau cái khổ ấy với tha nhân. Bà nói: "Tình yêu là hành động không phải là trạng thái yên lành. Không phải đơn giản là ngồi đó và gởi đi những tín hiệu yêu thương, mà phải biến tình yêu đó thành hành động". Bà muốn chuyển phẫn nộ thành hành động, nhưng hành động phải nằm trong tình thương yêu của con người không có một chút căm thù hay uất hận.

Cả ba người, Mahatma Gandhi, Nelson Mandela và Suu Kyi, đều lấy bất bạo động làm cứu cánh cho cuộc đấu tranh của mình. Nelson Mandela đã đi từ bạo động qua bất bạo động khi chính quyền Nam Phi "Apartheid" của người da trắng đứng trước sụp đổ nếu không tìm cách thay đổi. Mahatma Gandhi đã hướng dẫn cuộc đấu tranh bất bạo động ở Ấn Độ đến thành công năm 1947, vào thời điểm sau đệ nhị thế chiến khi phong trào dành độc lập ở khắp nơi trên thế giới lên cao và ý thức khát vọng tự do đã đi sâu vào đám đông quần chúng. Còn Suu Kyi trước sau như một theo đuổi đường lối bất bạo động, nhưng cuộc đấu tranh của bà có phần khó khăn hơn. Kẻ thù của Nelson Mandela là người khác da mầu nên dễ nhận diện, kẻ thù của Mahatma Gandhi là người Anh không cùng chủng tộc, trong khi đó kẻ thù của Suu Kyi là người cùng xứ sở, cùng máu mủ với bà, nhưng mặc quân phục có 400.000 lính với 70.000 trẻ con cầm súng và sức mạnh của nhóm quân nhân ở thời điểm đó chưa phải trên đường đang tuột dốc.

Muốn có sức bật cho cuộc đấu tranh, bà phải mang lại một ý thức mới cho nhân dân Miến Điện mà đại đa số là tín đồ Phật Giáo: Người dân phải tự chuyển mình vươn lên và phải gạt bỏ được sự thụ động thiếu trách nhiệm của mình. Martin Luther King đã kích động người da đen không được ngồi yên để chấp nhận số phận thấp hèn của mình. Suu Kyi cổ võ cho sự tích cực hành động vì theo bà chỉ có qua hành động, chúng ta mới có dịp tác động để đổi Nghiệp: "Số phận là một khái niệm mà tôi không thể bắt đầu được, mặc dù tôi rất tin vào Nghiệp (Karma). Và chúng ta phải tích cực hành động, lúc đó chúng ta mới tạo được Nghiệp của mình. Khi anh chỉ bỏ tay vào túi quần, thì theo tôi anh không có quyền nói: Tôi hy vọng có dân chủ".

Để tác động thêm cho sự chuyển hóa của ý thức, bà khuyên người Miến Điện nên áp dụng 4 điều căn bản của đạo Phật vào đời sống hàng ngày là Chanda (Dục, dịch theo tiếng Pali): lòng mong muốn thay đổi cái xấu, Citta (Tâm): quan điểm đúng để nhìn thấy được cái sai, Viriya (Cần): có sức chịu đựng để qua được mọi thử thách, Panna (Tuệ): có sự khôn ngoan trong hành động.

Chúng ta phải luôn luôn nhớ điều đó:

Kế thừa ở người cha những đức tính anh hùng, thừa hưởng ở người mẹ tấm lòng nhân ái và noi theo tinh thần cao thượng của Mahatma Gandhi, Suu Kyi đã chứng tỏ cho thế giới thấy tinh thần đấu tranh quyết liệt, ý chí kiên cường và khát vọng tự do cho quê hương của dân tộc bà. Chính nhờ cuộc đấu tranh này, đã thay đổi hình ảnh của Miến Điện, thế giới nhìn vào với cặp mắt kính phục và dân tộc Miến Điện có thêm niềm tự tin vào mình.

Có lần bà bị bọn quân nhân giam cầm cô lập đến nỗi không còn đủ lương thực để sống, bà đã phải nằm liệt giường một thời gian vì kiệt sức. Nhưng bà không buồn cũng như không oán thù họ, bà coi đó như là một cách đóng góp vào công cuộc dành lại tự do, dân chủ cho dân tộc bà. Suu Kyi khuyên những người bạn cùng chí hướng với bà đang còn trong ngục tù: "Các bạn không nên buồn vì thân phận mình trong hoàn cảnh này. Mà phải coi đó như một cơ hội để được tác động vào sự mang lại công bằng và ấm no cho dân tộc mình. Đây là một dịp may hiếm có đừng bỏ qua !!!".

21 năm tranh đấu và 15 năm giam cầm, những thành quả do sự dấn thân của Suu Kyi mang lại cho Miến Điện, tính đến cuối tháng 11/2011, là mới đây chính phủ Miến Điện thả hàng ngàn tù nhân chính trị, cho phép người dân có quyền đình công, được tự do lập công đoàn và đình chỉ dự án đập thủy điện Myitsone với Trung Quốc. Đây là dấu hiệu chứng tỏ Miến Điện muốn thoát khỏi sự kiềm chế của Trung Quốc để tiến lại gần Tây Phương hơn. Cuối tháng 11.2011 bà Hillary Clinton đã tới thăm Miến Điện. Đây là lần đầu tiên sau hơn 50 năm, một ngoại trưởng Mỹ tới nước này.

Cuối cùng xin được nhắc lại câu cùa thánh Gandhi: "Trong những giây phút của tuyệt vọng, tôi tự nhắc mình là trong lịch sử, sự thật và tình yêu luôn luôn chiến thắng. Có rất nhiều bạo chúa và sát nhân tin là họ không bao giờ bị thất bại, nhưng cuối cùng họ vẫn bị tiêu diệt. Chúng ta phải luôn luôn nhớ điều đó !!!".



Mùa đông 2011