Monday, February 28, 2011


Nỗi Đau Tuổi Già

Ở đây, chúng ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường...nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này. Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.
Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “ đem cha bỏ chùa ”.

Cũng lại câu chuyện của một người già. Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng.ï Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường Los mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.

Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có passport của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái. Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng. Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi. Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off. Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời. Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá 1ớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng. Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi: -“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?” Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:-“Bả đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ. Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm. Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không có tiếng Anh, sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.
Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồngï đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”. Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.
Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

BÀ MẸ QUÊ

Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì con gọi bố mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai danh từ này cho bài viết về mẹ tôi, một bà mẹ quê.

Thầy tôi qua đời ngày 15 tháng Giêng năm 1947, hưởng dương 41 tuổi! Ông cụ mất đi khoảng sau 2 tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn”(?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không còn nhớ gì nữa! Kỷ niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ, khi đến bên bờ hồ trước cửa nhà thờ thì nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò, còn tôi, một thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi đành buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc vì sợ con trâu sẽ chết đuối.
Nhưng với bu tôi, một bà mẹ quê, thì tôi nhớ nhiều, nhưng chưa một lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu. Khi thầy tôi mất thì bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con, tất cả cùng sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai trái, một mảnh vườn với dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An,thành phố Hải Phòng, và chỉ cách hai nơi này chừng hơn 3 cây số.

Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn còn như đang thấy trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc vườn, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc sau khi đã chôn cất thầy tôi xong.

Bu tôi cả ngày phải chân lấm tay bùn với ruộng lúa vườn rau, mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn (heo) xong thì mặt trời đã lặn, giữa lúc tranh tối tranh sáng, bà lẳng lặng ra góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè mà thút thít khóc trong khi các con không hay biết.

Một buổi chiều tối, khi chim đã về tổ, tôi leo lên cây cau ở góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con “chíp chíp” mà tôi đã rình từ lâu, tôi thất kinh suýt rơi xuống đất khi bất chợt thấy bóng đen đứng khóc góc vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra giải khăn tang trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của bu tôi, tôi vội tụt xuống định chạy vào nhà, nhưng rồi khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì nghe tiếng bu tôi khóc:

“Ối ông ơi! Trời đã tối rồi! Ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống nước với các con ông ơi!” .
Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không biết sợ ma nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các con nghe được, chắc bà cam chịu đau khổ thương nhớ một mình, không đành chia nỗi buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi không ai hay biết việc này, vì sau một ngày quần quật với công việc ruộng lúa vồng khoai thì tất cả đã mệt nhoài, mọi người đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.
Riêng mình tôi biết bu tôi khóc, tôi chẳng nói cho ai hay, nhưng tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau hè nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của khổ đau kéo cành chè gẫy xuống! Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang:
_ Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế! Hãy để cho Quán nó yên nghỉ.

Đó là tiếng của cụ Dưỡng, chú của thầy tôi, chắc cụ cũng sót ruột vì tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu nên phải vâng lời chú, từ đó bu tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu vì nấm mồ chôn chồng chưa xanh cỏ thì làm sao vơi nên nước mắt tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong góc bếp giữa đêm khuya.

Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê với căn nhà lá có nhiều khe hở để gió lùa vào, anh em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò đầu, cái lạnh đêm khuya lại thêm dạ dày trống đúng với câu châm ngôn “bụng đói cật rét” nên giấc ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vửa gáy, tôi thức giấc thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy và mon men tới để sưởi cho ấm thì thấy bu tôi ngồi nấu cám heo, một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa cháy, bóng mẹ tôi in lên vách bếp, ngả nghiêng theo ánh lửa bập bùng. Đêm khuya, thấy con thức dậy bò xuống bếp thì bà mẹ biết con đang thiếu cái gì. Vừa trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:

_ Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu nướng cho con củ khoai.
Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ lép-bép làm bắn ra những tia lửa tựa pháo bông và kéo theo tro bụi phủ lên người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro trên tấm khăn tang trắng rồi lấy củ khoai lang ở cái thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu rau”.

Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro” là gì, mùi vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của bu tôi hiện nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng không biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho tôi không có gì so sánh được. Người ta thường dùng chữ “ban” đề nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế, Chúa, Phật ban cho con chiên, phật tử, nhưng bu tôi đã “ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ con.

Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm rơm chà lên vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:
_ Khoai còn nóng lắm, con ăn từ từ.
Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon với trẻ em miền quê, nếu em đói mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”, ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang dễ bị nghẹn. Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng thì thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn của tôi biến đi đâu mất, tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ cũ khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời nào cả? Biết nói gì hơn, và dù biết văn hoa chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói cũng bằng thừa, là sáo ngữ. Tôi đưa nủa củ khoai cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya mả tôi thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng nhường miếng ăn cho con như tất cả các bà mẹ khác.
Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi không nói gì cả nhưng lại choàng tay qua kéo tôi vào lòng. Tôi biết bu tôi đang thổn thức và rồi bà khẽ nói:
_ Con lên nhà đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để còn kịp “ra đồng”.
Hai chữ “ra đồng” là chỉ công việc ngoài đồng ruộng như cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng bắp (ngô) v.v..những công việc của nhà nông để làm ra thực phẩm mà người “thành phố”, nhất là các bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có thể hình dung ra được nó vất vả như thế nào.

Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre, rồi bị chạy loạn vì chiến tranh! Khi hồi cư về làng cũ thì chỉ còn hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con đi, không biết đi về đâu và làm gì! Những lúc gian nan khốn khổ như thế chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi và mong chồng chỉ lối đưa đường cho vợ góa con côi được về nơi bình an.

Cuối cùng thì gia đình tôi làm dân di cư trôi dạt vào Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương năm 1954. Người nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ dại”, vất đâu cũng sống được với đất, nhưng mẹ con chúng tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có hai bàn tay nên phải xoay sở, các anh chị tôi lúc này đã trưởng thành nên phiêu lưu về thành phố và gia đình tôi lại di chuyển về 172/41 đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, quận Bốn, Saigon.

Bu tôi, một bà mẹ quê “lạc” về thành phố, bỏ lại sau lưng xa tít mù khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn và nhất là mồ chồng mà sẽ không bao giờ được nhìn lại nên bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau khi đã có tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác, thương cháu chăm sóc cháu hơn thương con.

Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái bình với cháo rau đạm bạc bên con cháu cho tới lúc đầu bạc răng long thì chiến tranh lại tràn về, các con trai con rể của cụ lên đường tòng quân, thằng Cao Nguyên, đứa Đông Hà, con trai út ở núi Sơn Chà thì con trai áp út ở mãi tận mũi Cà Mâu, đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ! “Đại bác đêm đêm vọng về thành phố” thì bà mẹ quê khốn khổ thức giấc ngồi tựa lưng vào vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc thầm chuỗi Mân-Côi cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con nơi lửa đạn.

Nhưng hằng ngày bu tôi vẫn nhói tim khi nhìn những xe nhà binh GMC trên chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa! Khi nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của lính chết trận đó thì bu tôi vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.

Rồi sáng ngày N tháng 6/1966, một xe GMC chạy vào xóm và từ từ dừng lại khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng người lính TQLC tìm nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là người cùng quê, để báo tin con trai bà là thằng Mão đã tử trận! Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng muốn xỉu theo, vì Mão và tôi là bạn và cùng tình nguyện vào TQLC. Mão Tiểu Đoàn 1, tôi Tiểu Đoàn 2, cả hai vừa đụng trận tại ngã ba sông Định, thuộc Bích La Thôn Quảng Trị, nó tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên tôi đã nói với hậu trạm là đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo đúng thủ tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe nhà binh đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi, người báo tin chưa kịp nói gì thì bu tôi không còn biết gì nữa!

Vì bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để đi phép. Bu tôi đang nằm trên giường bệnh, thấy tôi về, cụ ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con lắc lắc như muốn biết đây là thực hay chiêm bao? Bu tôi không nói gỉ mà chỉ khóc, có lẽ cụ khóc vì lo âu, cụ khóc vì hạnh phúc còn cầm được tay con vừa từ mặt trận trở về, những bà mẹ của lính chiến thấy mặt con lúc nào thì hạnh phúc lúc đó. Tôi xin mượn ý bài thơ MTHS: “không chết người con lính chiến mà chết người mẹ ở hậu phương”, người lính chiến nếu có chết, chỉ chết một lần, nhưng bà mẹ hậu phương thì chết dần chết mòn, chết giấc vì con!

Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa con, đứa cháu trong họ hàng và cùng ở TQLC lần hồi tử trận như Tô Chiêu, Tô Sơn, Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh v.v..Cuối cùng thì ngày 19/6/1969, trên con kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã loại tôi ra khỏi vòng chiến, nhưng may mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v.., tôi còn nặng nợ, chưa đi được nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh bệnh viện, toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu tôi đang lấy cạy vết máu, vết sình đã khô trên mặt tôi, tôi mấp máy đôi môi, gọi qua hơi thở của bình dưỡng khí:
_ “Mẹ”.
Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi quen với chữ “Mẹ” từ đó.
Tôị bị trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến thì cũng là lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu, thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ kẹp nách thì mẹ lại mỉm cười:
_ “Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo”.

Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc quanh quẩn một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không biết đọc mà chỉ biết khóc vì con. Thế rồi đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tực vất vả vì các con, lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh nhìn mẹ rồi vất đôi dép làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để vào túi xách cho tôi lên đường “vinh quang”.
Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai người anh rể đều lên đường để “được” cải tạo làm con người! Chẳng cần nói thêm thì ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”! Nghe hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho các con để sớm được về đoàn tụ!

Quá khứ đời tôi lính chiến đã khiến mẹ lo âu sợ hãi nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này, tôi lôi đôi dép cao su ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà, mẹ tôi nhìn sững tôi và chắc bà tự hỏi tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để sớm được về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được tình thương mênh mông của bà mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang chín từng khúc ruột. Tôi lẳng lặng cầm túi xách với bộ quần áo lên đường, không lời chào từ giã mẹ già đang ngồi tựa lưng vào vách mà mắt nhìn theo gót chân con!

“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ thấy mẹ, linh tính cho biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà mỗi khi đến thăm nuôi thì được biết mẹ tôi vẫn bình thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong giấc mơ, tôi đem chuyện hỏi lại thì lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách ra một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo nhưng dấu kín. Tôi không còn nước mắt để khóc mẹ vì tôi đã không chào mẹ khi ra đi, không biết rằng đó là lúc chào lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi khóc vì các con phải đi xa khi đã thái bình khiến mẹ mù lòa! Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!
“Lòng mẹ thương con như biển Thài Bình dạt dào”, lòng mẹ như bị dao chém mỗi khi nghe tin con “thắng trận” trở về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa”! Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong vài trang giấy! Những bà mẹ dù quê hay thành phố, dù bên này hay bên kia đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ VN thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui khi các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính chiến luôn canh cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu:
_“Lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống !!!”
Những ai còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì xin chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đã phạm đối với “bà Mẹ quê” để khỏi phải ân hận khôn nguôi./.
Cả hai bài viết " Nỗi đau tuổi già " và : Bà Mẹ Quê" rất hay, nhưng không rõ tác giả .

Tuesday, February 22, 2011

Làm thinh
Tiểu Tử


Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là " nhà ông Lê ".

Cách đây mấy năm, ông Lê -người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng -tên Jean Marie- trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v... Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.

Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy ". Ông Lê giới thiệu: " Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".

Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu ? Sao không cùng ra đây với ông cụ ?". Ông Lê trả lời như không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.

Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước -cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản- ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết ".

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa : "Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !".

Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói : "Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.

Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói :

- Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa !

Ông cười :

- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại !

Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng "lá bùa" đó không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược ! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng lý trí : con người chỉ sống bằng bản năng thôi !

Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói : "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết ! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa !

Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình :

- Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ?

- Họ đâu có đòi. Họ lấy.

- Lấy gì ?

- Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc :

- Lấy hết tài sản ?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc :

- Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói :

- Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ?

Bà chỉ kêu được một tiếng "Trời !" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh :

- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

- Còn luật pháp để đâu ?

- Luật pháp của ai ?

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói :

- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?

Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng !

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :

- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

- Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :

- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao ?

Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :

- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ?

Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh :

- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ?

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng !

Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng !

Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông :

- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng "thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại" !

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.

?Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đoón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng : "Cha mày !". Rồi tiếp : "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.

Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ : "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu "cho tụi nó chết".

Bổng người con hỏi :

- Còn mấy thằng tướng nguỵ ?

Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:

- Mấy người đó thì ba không biết.

- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun !

Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu.

Về đến nhà -ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói :

- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư.

Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.

Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng :

- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.

Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi :

- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?

Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :

- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

Người con ngạc nhiên :

- Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt : chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh :

- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao ?

- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.

Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt - thật mệt - và chán chường - thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực" !

Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.

Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói :

- Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.

Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :

- Ba nói thật : ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.

Ông nói "xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.

Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !

Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời !

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở.

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắt. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì : trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết !

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.

Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.

Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn : "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn : ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn".



Tiểu Tử




TIỂU TỬ


Tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, quê Gò Dầu ( Tây Ninh )

Tốt nghiệp trường kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955, dạy P. Ký 1955/1956, làm việc cho SHELL VN từ 1956 đến ngày mất nước.

Vượt biên rồi định cư ở Pháp từ năm 1979 đến nay.

Viết truyện ngắn từ khi lưu vong.

TÁC PHẨM

Trở về đầu trang



Monday, February 21, 2011

Câu chuyện thiệt dí dỏm , không cần là H .O . cũng nên đọc .
H.O. Lấy Vợ
Tác giả: Đoàn Thị.

Tác giả cho biết bà họ Nguyễn. Bút hiệu Đoàn Thị do họ chồng ghép với cái tên lót dành cho phụ nữ rất VN thời xưa, hiện làm việc trong một văn phòng thiết kế công chánh. Đoàn Thị chỉ mới tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010, nhưng cho thấy có sức viết mạnh mẽ.
Các bài viết của cô thường đề cập những đề tài rất Mỹ, nhưng tác giả là cư dân Paris. Sau đây là bài viết mới nhất.

***

Ngày đó chị là cô hàng xóm nhỏ nhất trong đám con nít hơn chục đứa do anh cầm đầu những năm sáu mươi. Sau tết Mậu Thân anh đi lính, hành quân bốn vùng chiến thuật, lần đầu bị thương ở chiến trường về, gia đình vội cưới vợ cho anh, sau đó mỗi lần về phép là một lần «gieo giống», các con thay nhau ra đời và mang tên địa danh anh đã đi qua. Cô hàng xóm ngày xưa âm thầm dõi theo anh, hụt hẫng, mơ mộng làm người yêu của lính, chưa đủ tuổi để nói lên nỗi lòng, anh đã cưới vợ mất rồi.Tàn cuộc chiến, anh đi tù, vợ anh chạy chợ nuôi con, mỗi lần chị đi thăm anh, cô hàng xóm góp thêm túi cá khô, ký đường ... phụ chị nuôi anh trên rừng. Anh ra tù, mang vợ con đi Mỹ, thế là «đôi ngã chia ly» dù giữa hai người chưa có lời hẹn ước nào, chị đành giã từ mối tình câm. Má hỏi chị, chịu lấy chồng chưa, chị bùi ngùi nói, người ta đi mất tiêu rồi, lính còn đâu mà lấy.
Ba mươi năm sau anh quay về xóm cũ, nhà ba má anh vẫn ở sát nhà chị, gõ cửa hàng xóm, thấy chị ra mở cổng, anh ngạc nhiên ú ớ : bé Xíu, ơ Xíu vẫn ở đây. Chị cười sung sướng: đại ca Liêm, anh về hồi nào vậy ?Mời anh vào nhà, Xíu kể cho đại ca nghe những ngày xa cách, anh cưới vợ chị buồn lắm, nhưng ít ra cũng còn thấy anh thỉnh thoảng trở về xóm cũ, ngày anh đi Mỹ, coi như hết sạch sành sanh, còn ai để mong đợi. Má nói mãi chị mới lấy chồng, sinh được hai đứa con, chồng chị làm «kinh tế mở cửa» nên tung cửa đi luôn với đào nhí, chị tiếp tục nghề gõ đầu trẻ nuôi các con đến bây giờ.Anh bùi ngùi tâm sự, ngày xưa anh cũng thương Xíu nhưng không dám nói, Xíu nhỏ hơn anh gần mười tuổi sợ má anh, má em chửi. Anh định chờ Xíu lớn một chút, binh nghiệp vững vàng rồi cưới cũng kịp, ai dè má anh bắt cưới vợ, chiến cuộc đưa đẩy hai đứa mình xa nhau. Chị mân mê tách trà nóng, nói nhỏ như chỉ cho riêng mình, chúng mình không duyên nợ, biết nhau chừng đó cũng đủ rồi. Anh nắm lấy tay chị ân cần, chưa chắc, chuyện tụi mình chưa bắt đầu làm sao kết thúc, tuy giữa hai đứa mình chưa có gì, nhưng bây giờ tìm hiểu nhau cũng chưa muộn, chị thảng thốt, thế vợ con anh đâu !Anh châm điếu thuốc, kể «chuyện tình buồn» của anh và vợ, cuộc sống bên Mỹ đã thay đổi tất cả.

Hồi mới qua, anh xung phong đi làm «assembly» và đưa đón các con đến trường, để vợ đi học, chị lấy xong cái bằng kế toán xin vào sở Mỹ làm đến bây giờ. Thật ra vợ chồng anh chưa hề yêu nhau, lấy nhau do gia đình sắp xếp, thời chiến vợ anh yên phận vợ hiền, qua đây vợ anh có cơ hội giao tế rộng rãi hơn, trong khi anh còn hoài niệm một thời vùng vẫy hét ra lửa. Anh nhận tội «chồng chúa» nhưng chưa bao giờ «bắt vợ làm tôi», chỉ là chúa tể rừng xanh thôi, quen kiểu nhà binh, xếp ra lệnh, vợ con trở xuống phải tuân theo, giời ạ, bên trời tây sao anh không chịu hiểu, đàn ông có xuống gía chút đỉnh, anh phải giảm bớt «cường độ» chúa tể sơn lâm. Từ ngày vợ anh lên chức xếp kế toán trong sở, anh cảm thấy cái chức «xếp má bầy trẻ» của anh bị cái chức kia lấn át một cách vô hình và xung đột từ đó xuất phát như hỏa châu rơi những đêm giao tranh ngoài chiến trường.Dạo đó anh vẫn giữ tính oai phong, gan lỳ không nhân nhượng «đối phương», dân nhà binh thứ thiệt, có thua cuộc cũng hiên ngang ra đi chứ không thèm níu kéo, lùi bước, hào khí thời chiến, cái máu đại ca thời niên thiếu vẫn như cũ. Hình như anh chưa quen cuộc sống lứa đôi thời bình, giữa hai người lại thiếu một chuyện tình lãng mạn, với cuộc sống mới hối hả hội nhập vào xã hội Mỹ khiến hai vợ chồng càng để lộ những cách biệt đáng ngại. Vợ anh biết anh vẫn sống trong hào quang thời xưa, anh chưa chấp nhận «đại bàng gãy cánh», cuộc sống nội tâm của anh gắn liền với quá khứ khiến anh rơi vào cơn trầm cảm. Có lần chị bàn đến chuyện này mong anh thức tỉnh và giải tỏa mọi hiểu lầm, không ngờ kết quả tệ hơn, anh vin vào chuyện chị đi làm có tiền nên coi rẻ anh, hai người giận nhau cả tháng.Đôi khi ngồi bên nhau, kỷ niệm xưa không chen nhau ùa về để hâm nóng chuyện tình chưa lãng mạng của họ, có nhắc lại cũng chỉ vài bức thư từ chiến trường anh gửi về, vài mẫu chuyện gian truân chị lặn lội đường xa đi thăm nuôi anh, cái nghĩa vợ chồng đến trước vì tình yêu chưa nở rộ.Giờ nghĩ lại đã quá muộn, gía những lúc chị trở về từ sở, tay ôm chồng hồ sơ, tay xách túi thức ăn, anh phải bay vào bếp phụ chị, ngược lại anh bỗng thấy bị «mất gía» trước tập hồ sơ khó ưa kia nên bỏ lên lầu. Không thấy anh phụ một tay, chị đâm bực, lên giọng «xếp sở» cằn nhằn, gian bếp rung rinh như máy bay đang đi qua vùng trũng, seat bell làm gì có để buộc chặt tự ái của hai vợ chồng đang bay lợn lờ đụng trần nhà bếp.Chị Xíu nghe chuyện của anh phát rợn, nhưng phải phục tính cương trực nhà lính của anh, dám làm dám chịu, ít có đấng mày râu nào dám nhận lỗi của mình sau một cuộc chia tay, đa số đều lên án, đàn bà đòi hỏi bình quyền quá đáng, họ từ bẹ sườn bọn đàn ông chúng tôi mà ra, đương nhiên họ phải kém chúng tôi rồi.

Hoàn cảnh của Xíu cũng không khá hơn anh, lấy chồng sinh con để không phải mang tiếng gái ế, chị nghĩ sống bên nhau rồi sẽ yêu, nói chồng chị không yêu chị là không đúng, nhưng yêu say đắm thì chưa, hoàn cảnh đưa đẩy chồng chị phải giao tế làm ăn. Đàn ông không háo sắc, không đam mê, không sa ngã ... đâu phải là một tay chơi đáng nể, đã vui chơi mà phải tỉnh táo không lẫn lộn «cơm với phở» còn gì cuộc chơi, không biết cái triết lý «bia bọt» này do ai tung ra làm cánh đàn ông bên nhà «sùi bọt mép». Chồng chị đâu phải là người đàn ông tuyệt hảo, chị cũng chỉ là người phụ nữ bình thường, đôi bên chẳng ai đủ bản lãnh để cứu lấy mái ấm của họ, vì thế chuyện tình đôi ta đến đây là hết, chỉ tội mấy đứa bé ngơ ngác giữa cuộc phân tranh của cha mẹ.

Từ ngày rời Sài Gòn, trở lại Mỹ anh vui và yêu đời hơn, họp đám bạn cũ lên chương trình «cưới vợ miền xa», kẻ khen, người cản bảo coi chừng cái «rờ mọt» bên đó nặng lắm, anh hiên ngang trả lời, nếu quá sức, moa cho nổ mìn đứt luôn. Đám ủng hộ lên tiếng, tụi nó thử sức toa, dân nhà binh tụi mình đâu có ngán ai, tuy nhiên cũng nên cân nhắc, chỉ ngại cách sống bên đó không hạp với bên này thì mệt đó, lỡ bưng người ta qua không dể vứt ra đường đâu. Mấy người bạn làm anh bần thần, lòng anh đã vững như kiềng ba chân, tự nhiên lời vào tiếng ra khiến anh «suy tư bên bờ vắng», ai chứ Xíu anh biết từ nhỏ, nhưng chuyện tan vỡ gia đình Xíu, hư thực ra sao anh không rỏ chỉ nghe em than như thế, chưa chắc lỗi do anh chồng gây ra.

Bên Sàigòn má chị Xíu đâm lo, bà thở dài, coi chừng thằng Liêm có máu «đại ca» quyết định bốc đồng, con nhớ hồi trước nó dẫn cả đám tụi con đi xinê đến chiều tối mới về làm cả xóm nhốn nháo tưởng chúng mày bị bắt cóc, bị đòn một trận, ra tết tiếp tục dẫn cả đám đi chùa, ăn cơm chùa... đến tối mờ tối mịt, cái xóm này sợ nó luôn.Chị cười thầm, đấy chị yêu anh cũng vì cái tính bốc đồng đáng yêu đó, hình như anh chồng cũ của chị thiếu cái nét phong lưu của đại ca Liêm. Chồng chị nhẹ dạ dễ sa ngã, lại ngã vào tay người đẹp ai mà cưỡng lại được, lỗi do chị quá tự tin, nghĩ mình là hậu phương vững chắc nên không sợ «tróc gốc», cái vai vợ hiền của chị chưa đủ tiêu chuẩn níu chân anh chồng vui chơi triền miên, vì cách mạng là ngày hội mà.

HO về Sàigòn cưới vợ, có người trề môi, tưởng gì lấy «bà gìa», đồng đội bênh vực, hồi trước nó từng lái «bà gìa» (máy bay), bây giờ cưới là phải rồi, có giọng phản biện, phải cái gì, dại chưa từng thấy, hay muốn chơi ngông lấy tiếng. Mặc thiên hạ bình luận, anh biết Xíu, chỉ còn một chút «bí mật» anh chưa giải mã, Xíu làm răng mà chồng bỏ, sự đổ vỡ nào cũng đến từ hai phía, nhưng anh cao thượng nên «cho qua» luôn.

«Cưới vừa xong là anh đi», về bên này anh sửa lại căn town house, sơn trắng nội thất, gắn rèm màu bordeaux, sắm chiếc giường đôi, dựng dressing ... tất cả đều do bàn tay con gái của anh «phù phép». Con nhỏ còn nhớ cô Xíu và ủng hộ bố cưới vợ, vợ cũ của anh cũng không phản đối, đàng nào cô dâu cũng là hàng xóm cũ, anh báo cho Xíu biết bên này OK mối tình muộn của hai người, hú vía chị Xíu lọt mắt xanh bên chồng.Vợ cũ của anh đã tái gía từ lâu, thấy anh hẩm hiu tội nghiệp, chị không ích kỷ, tìm đuợc hạnh phúc mới, chị không quên người chồng cũ, nhờ anh mà chị mới thành công ngày hôm nay, anh đã quá hào hiệp với chị, chỉ thiếu một chút kiên nhẫn mà ra nông nỗi. Sau khi leo lên ghế xếp, chị định khuyến khích anh trở lại trường, chuyện chưa đến đâu, anh mặc cảm thua kém vợ rồi sinh ra bất hòa đến đổ vỡ, gía lúc đó chị nhịn nhục, gía lúc đó cả hai đừng tự ái, háo thắng quá đáng. Chị mừng biết anh cưới Xíu, cô hàng xóm tốt bụng, đàng nào hai bên biết nhau tong tỏng, không lo anh trao duyên lầm «người đẹp mã», sang sông rồi «con sáo sỗ lòng bay xa».

Vợ anh tái gía với ông Mỹ gìa, chị học được lối đối xử lịch lãm của người phương tây, vợ chồng cũ không rủ cũng nên trở thành «bạn hiền» để chung sức giáo dục các con. Hận thù, ghét bỏ, bêu xấu nhau làm gì để các con bị tổn thương khi phải nghe những lời chê trách, cha mi, mẹ mi là người ti tiện, nhỏ mọn, cái gì đã qua cho qua luôn, như thế mới giữ được sự nể trọng của các con.Ngày chị Xíu ra mắt bên chồng, ngoài đám bạn của anh, người nhà khá đông, các con của anh với vợ cũ, các con riêng của chồng Mỹ bà vợ cũ của anh, tiếng ta tiếng Mỹ mạnh ai nấy hiểu, chị Xíu thấy lạ quá, đám cưới của chị mà khách còn vui hơn cả chị nữa. Tàn tiệc đôi uyên ương đưa nhau về nhà nghỉ ngơi, chuyện động phòng tính sau, hôm nay cô dâu chú rể ê càng đuối sức vì nhảy đầm quá trớn.Tuần trăng mật anh đưa chị lên sòng bạc Las Vegas thử vận, chị đùa, vận chị bây giờ neo vào anh rồi, đỏ đen gì đành chịu, anh hí hửng, chơi xả láng, tình mình đỏ rực nên có đen bạc cũng dễ hiểu. Chắc chắn là họ thua nhà sòng, trước mua vui sau anh lấy lại cái vai vế đại ca của đám con nít ngày xưa, trông anh liếng thoắng như trai trẻ, hình như đàn ông muôn đời vẫn là một đứa trẻ thích được nâng niu. Tuần trăng rồi cũng qua, mật đọng lại đâu đó, chưa lộ hình nhưng bàn bạc trong những ngày đầu tập tễnh vào vai «việt kiều» bên quê chồng. Tuy nhỏ hơn anh gần mười tuổi trông chị xấp xỉ tuổi anh, mấy người thầm tiếc hộ anh, rinh «bà gìa» còn đòi ra mắt thiên hạ, sao người ta kỳ thị chi lạ, trước sau gì chị sẽ sánh bước với anh, phải là người mẫu chân dài mới đủ tư cách làm vợ việt kiều sao.Anh dẫn chị ra mắt bạn bè, chị ngoan ngoãn nghe các bà, các chị bên ni giáo huấn, «ma mới» nghe «ma cũ» lên lớp vài buổi, tự nhiên được trainning miễn phí lại được tiếng «ngoan». Chị phục các bà các cô bên này, vừa đi học vừa đi làm, có khi cày hai jobs nhà cửa vẫn tươm tất, nghĩ lại dân Sàigòn nhàn và sướng chán. Khách ra về hài lòng khen, vợ anh Liêm «biết điều», đại ca nghĩ khác, anh hỏi, sao cô giáo vào vai học trò hay vậy ? Chị thành thật, mình đến sau nghe người đến trước chỉ dẫn, tranh thủ như thế không hay sao, đâu phải ai cũng tốt bụng chỉ bảo mình như các chị, họ còn rủ em đi shopping nữa đó.

Một năm sau, shopping, chợ ta, chợ mỹ, lái xe, lớp ESL, cái job đầu tiên làm việc với đồng hương, cuộc sát hạch «hội nhập» chị vượt qua không khó, kẹt cái góc Sài Thành của chị chưa phai, cái mảng từ ngữ chia duyên rẽ thúy giữa chị với đồng hương chưa tàn lụi.

«Gọi điện báo anh, chị tăng ca đột xuất, công việc hơi bị nhiều, chị phản ánh với cấp trên», anh phát rét nghe chị nói «tiếng việt XHCN», «ngoại ngữ» này anh tạm gọi là «ViệtSL» thay cho ESL. Để không bất đồng ngôn ngữ với chị, anh muợn khẩu hiệu «vui duyên mới nhưng không quên nhiệm vụ», anh can chị, quên giùm cái đuôi XHCN bên kia và chuyễn hệ dùng ngôn ngữ địa phương cho anh và đồng hương được nhờ. Vẫn là tiếng việt, nhưng Việt Nam Cộng Hòa tiếng nói của người Việt tự do, không cần «tranh thủ, lấy ngắn nuôi dài, bán giá trong giá ngoài, khuôn mặt hình sự, khủng bố tinh thần...”Có đêm hai người trăn trở khó ngủ, họ thì thầm, Xíu của anh chưa từ bỏ góc việt cộng, bạn bè e ngại cho anh phải chung sống với em. Chị giật mình, có chuyện gì không ổn, em làm sao mà bạn anh lo lắng ? Cô giáo ơi, HO mà chung sống với «cán cộng», có đáng ngại không nào ?Chị chợt hiểu, người ta hiểu lầm chị qua ngôn ngữ tuy không bất đồng, nhưng lại dị biệt, tiếng việt bên nhà chuyễn gieng... «trí tuệ» đến độ đồng hương có người ngẫn ngơ khi chị trầm trồ khen «thật là trình độ», tưởng cái gì trình độ, chị khen cái lò nướng thịt, nướng cá đa năng bằng điện, họ nhìn chị mỉm cười chế diễu. Chị cảm thấy hụt hẫng, bị kỳ thị, cũng không trách được, họ đã vứt bỏ tất cả, suýt mất mạng để «lập quốc» ở đây, tự dưng chị lù lù dẫn xác qua, thả cái chùm từ ngữ «không giống ai» vào thành trì tự do của họ, bảo sao họ không khó chịu. Thôi thì, «đồng hương ơi thương lấy đồng bào, tuy là mới đến nhưng dân Cộng Hòa», các vị mới đến cũng xin thương giùm các bác đã đi tù cộng sản, đừng bắt họ quay về quá khứ nghiệt ngã với ngôn từ của xã hội áp bức bên kia, cái gì của «đảng» hãy trả lại cho «đảng», xứ Mỹ không cần những thứ đó.
Chị không ngờ chị bị «viêm não» nặng, viêm kinh niên câu chữ đặc trưng cộng sản, chỉ khi ra khỏi VN chị mới đoạn tuyệt với tiếng việt gốc vô sản lỗi thời. May là chị chỉ nhiễm chữ, chị chưa hề thích ứng cuộc sống mà mọi ngã đường tiến thân đều phải đi cửa hậu, hoặc phải qua ngõ hẹp có «tiền bác sáng đời ta», nói vậy không phải ai ở bên nhà cũng xấu, nhưng tìm được người đạo đức, tự trọng không dễ chút nào.Vì chị thuộc loại người không dễ tìm trong cái xã hội bát nháo bên kia, nên anh đã chọn chị, vì khi anh đề nghị cưới chị, chị rất ngại, làm việt kiều ai không thích, nhưng sống ra sao mới đáng nói, những câu hỏi chị đưa ra làm anh ngạc nhiên quá, sao Xíu nói thầm yêu anh, bây giờ người ta cưới lại làm gía.
Chị nhỏ nhẹ, hồi trẻ yêu cuồng, yêu ẩu, giờ gìa chát, toan tính nhiều hơn yêu, tính toán đây là lượng sức mình chứ không phải tính tiền dollar đâu, không biết mình đủ can đảm làm lại từ đầu ở tuổi này không.Anh trấn an, tưởng gì, dân ở rừng với việt cộng như Xíu, câu này do em nói đấy nhé, đi đâu mà không sống được.Gậy ông đập lưng ông đau điếng, nhưng điều nghi ngại của chị cũng không vô cớ, xứ Mỹ, thiên đàng đầy mộng mị sao lại không sống được, chỉ tại chị bị nhiễm từ ngữ cán cộng nhiều quá, phải có thời gian để chị tái nhập chữ nghĩa Việt Nam Cộng Hòa.Ngoài ra cuộc sống mới với anh tuy thân mà lạ, chị lo lắng, không biết mình đủ kiên nhẫn chịu đựng tính bốc đồng của anh, tuy có nể phục anh, nhưng cuộc đời không êm ả như mặt nước hồ thu, nhất là ở tuổi này, ai chả có tật. Cái tật lớn của anh là không bao giờ chịu thua đàn bà, đến giờ này anh vẫn ấm ức ông tổ loài người đã mê mệt cái bà Eva đưa lời đuờng mật nên bọn đàn ông mới mang cục nghẹn, và anh thề không chùm bước.Cũng tại lời thề đó mà vợ cũ của anh đã ra đi, rút kinh nghiệm đau thương kia chị Xíu thất kinh hồn vía, chị bèn thề sống thề chết «chịu thua anh» cho chắc ăn. Anh sướng mê tơi, hỏi gặn chị, thiệt không, cô giáo «mất dạy» hồi nào mà bữa nay chịu bị bắt nạt dễ vậy, chị cười tình, thỏ thẻ, xuất gía tòng phu mà lị, thỉnh thoảng chịu lép xem anh «khè lửa» ra sao.

Thì ra, Xíu của anh chả hiền tí nào, mà lém đấy, không sao, đại ca dư sức ra chiêu cho Xíu nễ, chị vuốt đuôi, em chờ bao nhiêu năm nay để xem anh trổ tài đấy, đại ca của em. Nói thế thôi, anh giờ này không còn háo thắng như thời trẻ, về Sàigòn «vớt» em gái hậu phương hiền ngoan hủ hỉ tuổi gìa đủ rồi. Ở tuổi senior làm cái gì cũng phiên phiến, ăn chỉ để thưởng thức chứ không cần no, rượu thuốc lá, đàn bà còn khả năng sử dụng, dại gì không hưởng phí đời. Chỉ có yêu là anh không phiên phiến mà yêu hết mình, yêu mãnh liệt như để bù lại đời trai thời loạn anh chưa có mảnh tình vắt vai để hẹn hò những ngày xả trại. Cũng tội cho các ông về Sàigòn cưới vợ, vợ trẻ đẹp cũng có cái gía của nó, ra đường thiên hạ trầm trồ, nhưng về nhà có khi «đôi ngã chia ly», em đáng tuổi con cháu, nhõng nhẽo như trẻ thơ, anh chạy theo hết hơi, huyết áp vọt trên mức báo động sức lực còn đâu mà làm ăn. Tâm tư tình cảm trồi sụt theo sự đồng cảm của hai bên, hên gặp em gái biết điều chịu khó tìm hiểu thế hệ của anh có «con đường Duy Tân cây dài bóng mát» coi như rút ngắn giai đoạn «thích ứng» và đôi ta sẽ cùng chung lối đến cuối đời.
Xui gặp phải em gái lứa «cháu ngoan bác hồ» em nghêu ngao bài «tiền bác sáng đời ta», «hết rau rồi em có lấy măng không», anh buồn thúi ruột, âm nhạc thời oai hùng các anh lính chiến bị «nhạc cộng» hạ sát không thương tiếc. Ra đường em lý lắc ăn diện kiểu «hip hop», anh được lên chức «cha» cô vợ trẻ, đau đứt ruột, mặc kệ tối nay anh gỡ gạc một cú, không giữ được vía nàng thì ôm cứng lấy người, ít ra giữ người mới qua, kẻo mai này đủ lông em vỗ cánh bay xa, coi như nghìn trùng xa cách. Các bác cưới vợ trẻ hơn mình vài thập niên coi như trúng số độc đắc nếu bác gái có «thẻ xanh» dằn bóp mà vẫn vui mộng chiều xuân với bác trai, còn nếu bác gái ôm green card đi luôn, kể như bác trai bị quịt một cú để đời, nhưng nếu còn sức ta về Sàigòn làm «hiệp hai».Thấy các «trưởng niên» vất vả với mối tình son trẻ, anh Liêm chọn Xíu cho chắc ăn, «gìa chát» như chị nên họ mới có cớ nhắc đến kỷ niệm những năm bảy mươi, cái thời «yé yé» của các anh, mấy em trẻ chưa ra đời lấy gì chia sẻ với anh chồng gìa.
Phong trào các bác về Sàigòn lấy vợ nhỏ hơn chục tuổi đang thịnh hành, nàng mấp mé «hết hạng trăng hoa», bỗng có việt kiều cưới, trúng số độc đắc hệ số bình phương, bảo đãm nàng sẽ thề suốt đời nhớ ơn anh việt kiều. Cưới vợ trẻ được tiếng «bảnh», nhưng hậu trường chưa biết ra sao, liệu sức mà o bế cô em bé bỏng, sơ hở bị «phổng tay trên» như chơi, khi nào cô em giận dỗi thì tình mình lại lắm chông gai, một mai chia tay hổng chừng, đã thế có kẻ ác mồm gọi vợ trẻ của anh là «con gái» ngọt sớt.Chiều nay anh với Xíu đi xem ca nhạc, tối đến gối đầu trên cánh tay anh, Xíu thủ thỉ, hồi chiều Trung Chỉnh Hoàng Oanh hát bài «Chuyến đi về sáng» tình ơi là tình, vợ của BS Chỉnh có khi nào ghen với mấy cô ca sĩ không anh, không chờ anh trả lời, Xíu tiếp, ghen làm gì cho mệt, bây giờ BS sổ sữa tròn ú đâu còn đẹp và oai như lúc trẻ. Anh nheo mắt nhìn Xíu, bắt tại trận nhe, mấy bà cũng mê đàn ông đẹp trai vậy mà lúc nào cũng lên án đàn ông mê gái trẻ đẹp, nhưng anh là đứa ngoại lệ, không thèm mê gái trẻ, yêu bà gìa, chồng em bản lãnh chưa.Xíu sung sướng gật đầu, thầm cảm ơn mối tình muộn của anh đã cho chị cơ hội yêu và được yêu như mối tình đầu, họ yêu nhau như để bù lại thời vàng son đã mất.
Ai dám bảo gìa không còn lãng mạn, tình yêu làm gì có tuổi, có chăng người gìa yêu nhau nhẹ nhàng êm đềm đến khó nhận diện. Khi các cụ đã yêu, coi như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của nhân gian không chen chân nỗi với mùa yêu của họ, chuyến này là yêu đến thiên thu, tình chỉ đẹp khi còn dang dở là tình của bọn trẻ, người lớn yêu nhau chỉ có một lần nữa... mà thôi.

Đoàn Thị

Sunday, February 20, 2011

Mây Xám Trên Cánh Đồng Tàn Cuộc Chiến

Phạm Thắng Vũ

Tôi đang đứng trên một bờ ruộng cạnh quốc lộ 22 hướng về tỉnh Tây Ninh, phía sau tôi là cây cầu cũng mang tên cầu Bông, trùng tên với cây cầu trong khu Đa Kao thuộc thành phố Sài Gòn. Cây cầu này là mốc địa giới giữa quận Hốc Môn thuộc tỉnh Gia Định và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa. Thấp thoáng trên các thửa ruộng sau hàng cây trâm bầu là những chiếc xe tank M 113, xe GMC, xe Jeep… của binh sĩ Sư Đoàn 25 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ lại sau khi cả nước tan hàng tập thể trong hơn tháng trước. Trí tưởng của một thanh niên mới vừa 18 tuổi về hình ảnh người lính chiến khiến tôi háo hức rảo bước vào khu vực có các xe quân sự ở đây. Theo sát bên là Trí, em họ, con người cậu ruột tôi. Cả hai lần lượt trèo vào từng chiếc xe, nhất là xe tăng M 113, xà vào chỗ mà những người lính đã từng ngồi khi họ chạy xe hoặc lúc tác xạ… Súng trường, súng đại liên, mũ sắt, giầy trận, quần áo lính và các dây đạn vàng chóe vẫn còn sót lại trong lòng xe cùng nằm rải rác dọc theo các bờ ruộng, trên các đoạn đường nhựa nơi tôi và Trí vừa đi qua.

Là dân sống trong nội đô Sài Gòn, tôi theo mẹ về dưới đây, một xứ đạo di cư từ thời 1954 trong vùng Hốc Môn để bà nhờ thân nhân là cha mẹ của Trí dọ tìm mua ruộng trồng lúa trong buổi giao thời, thay vì chờ nhà nước Cộng Sản đưa đi vùng kinh tế mới như những lời đồn đãi của hàng xóm trong khu phố. Chợt có tiếng lên đạn loạt soạt vọng lại không xa, tôi vội trèo lên khỏi lòng chiếc xe tăng và đảo mắt nhìn chung quanh. Ngay sau các thân xe nhà binh gần kế, vài thanh thiếu niên cũng trạc tuổi hoặc nhỏ hơn tôi đang cầm một cây súng trường M 16 trên tay.

Tiếng một thanh niên trong nhóm đó chỉ dẫn cho các bạn mình cách sử dụng cây súng và rồi là tiếng bấm cò, tiếng kim hỏa mổ vào chỗ trống. Cây súng không gắn đạn. Các thanh thiếu niên trong nhóm chuyền tay nhau, lập lại các động tác vừa được chỉ dẫn vài lần trong tiếng cười vui đùa giỡn rồi sau đó, họ vất cây súng vào một thùng xe và kéo nhau bỏ đi.

- Mấy thằng đó có vẻ rành súng đạn quá mầy Trí. Tụi nó là ai vậy? Tôi nhìn theo đám thanh thiếu niên, buột miệng hỏi.

- Đám con lính đó anh. Tụi nó ở khu gia binh công binh gần chợ Thành Ông Năm, em biết mặt hết nhưng không quen. Trí trả lời tôi.

Thảo nào! Tôi nghĩ thầm, Trí quay qua tôi nói: “Mình ráng kiếm xem coi có cây ru lô nào không anh”. Thanh niên, hầu như ai cũng thích được sở hữu một khẩu súng lục trong tay, Trí và tôi cũng vậy. Do đó, nó mới rủ tôi đến đoàn xe nhà binh vô chủ trên cánh đồng nhưng hai đứa lục tới lục lui từng chiếc một mà vẫn không thấy. Nếu còn, đám thanh thiếu niên ban nãy đã xí phần rồi vì khi tôi và Trí vào đây đã thấy mặt họ từ trước. Dù vậy, cả hai đứa tôi vẫn cố sục sạo trong đống đồ đạc lính bỏ sót lại ở thùng xe. Súng trường nằm đầy chung quanh nhưng làm sao tôi dám mang một khẩu về nhà! Đám du kích biết là chết, ru lô còn dấu trong người được. Có lúc gặp cả lựu đạn thân tròn như quả vú sữa hoặc giống hệt quả na rất đẹp nhưng sợ nó nổ bất tử, hai đứa tôi chẳng dám đụng vào. Gió đồng bắt đầu thổi tạo thành các vệt sóng màu cẩm thạch uốn éo trên mặt lúa con gái trong các thửa ruộng trông thật đẹp. Tìm không ra súng, tôi và Trí bỏ đoàn xe và quay trở ra ngoài đường lộ mà chưa biết sẽ làm gì tiếp. Trời đã gần chiều, xa xa có bóng một phụ nữ mặc áo trắng đang lui cui nhặt tìm cái gì đó ở gần lề đường. Hai đứa tôi tiến lại chỗ người phụ nữ. Bà đang xem từng tấm thẻ căn cước quân nhân, thẻ bài kim khí, thẻ lãnh lương của lính vất nằm vương vãi trên đường, ở các cạnh bờ ruộng hoặc dạt vào chân các bụi lúa. Nhiều tấm thẻ nhòe mực dấu đỏ, bết đất sình hoặc thấm ướt đẫm nước. Vài mũ sắt, giầy trận, dây thắt lưng lính… nằm rải rác sát đường nhựa. Mắt người phụ nữ này đỏ hoe như vừa khóc xong. Tôi nhìn bà, hỏi:

- Dì kiếm cái gì vậy hả dì?
- Chị xem coi có giấy tờ của anh ấy không? Chiến tranh chấm dứt rồi mà chị không thấy ảnh về nhà.
Rồi kể thêm, chồng bà là một binh sĩ Biệt Động Quân tăng phái chiến đấu trong khu vực Hốc Môn-Thành Ông Năm này trong những này cuối cuộc chiến của tháng 4 vừa qua. Gượng gạo cười với hai đứa tôi, bà tiếp:
- Ảnh tên Tia, Nguyễn Văn Tia… Các em nếu thấy tấm thẻ bài hoặc giấy tờ nào ghi tên Nguyễn Văn Tia thì đưa cho chị nha. Rồi bà lầm thầm: “Anh Tia ơi! Anh ở đâu sao không về. Để một mình em với các con biết làm sao xoay sở đây hả anh?”. Tôi và Trí nhìn nhau im lặng rồi gật đầu với bà. Người phụ nữa quay đi, lò mò nhặt tiếp các tờ giấy vương vãi dọc theo các bờ ruộng. Hai đứa tôi kéo nhau băng sang qua phía bên kia đường nhựa. Ngay chân trụ điện cao thế sát lộ, loang lổ đất cát lấp vội vào một hố cá nhân nhưng vẫn còn để lộ các lóng xương, mảnh vụn thi thể người ở bên dưới. Mũ sắt, súng cùng vài băng đạn vẫn còn nằm gần bên trên mặt hố. Chúng tôi vội lùi xa khi luồng gió đồng thổi đến làm bốc lên mùi xác người đã rữa. Không xa lắm gần mép bờ ruộng có một gò đất nhỏ mới đắp, nhìn kỹ hơn, đó là nấm mộ mà ngay phía trên đầu có một khẩu súng trường cắm ngập xuống đất với chiếc mũ sắt chụp lên báng. Hình ảnh trông in hệt trong một cảnh phim chiến tranh lúc tàn cuộc. Chợt có tiếng người phụ nữ ban nãy gọi chúng tôi xa xa, hai đứa liền quay trở lại. Đến gần, tôi nhìn kỹ mặt bà, một phụ nữ miền Nam khoảng 40 tuổi. Vẻ nhẫn nại, chịu đựng với nét buồn bã của người vợ lính đi tìm tông tích chồng nhưng vô vọng, làm tôi tự dưng có cảm tình với bà. Bà hỏi:

- Các em ơi! Có biết lính mình còn đóng quân ở đâu nữa không? Các em có nghe có thấy nơi nào trong vùng này mà… lính quốc gia mình vẫn còn chiến đấu chưa ra hàng không? Chỉ cho chị biết chỗ đó đi.
- Lính thấy hay đóng trong khu rừng Điều lắm… Mà khi đó chứ bây giờ chắc không còn ai nữa đâu dì ơi. Không còn ai nữa. Hết rồi. Trí trả lời.
Mắt người phụ nữ sáng lên, nhìn trân trối vào Trí, miệng bà lắp bắp hỏi dồn dập: ” Rừng Điều! Lính còn đóng ở đó hả? Cách đây bao xa? Làm sao đi vào trong đó được? Hay là em vào đó tìm anh Tia giúp chị đi. Chị gửi tiền cho em ngay bây giờ. Đi ngay đi em, giúp chị đi mà. Tội nghiệp chị”. Rồi bà nấc lên khóc, khóc ngon lành trong màn lệ nhìn chúng tôi. Tôi bối rối, thương cảm, quay qua nhìn Trí dò hỏi. Nó im lặng nhìn tôi, nhìn người phụ nữ trong chốc lát rồi khẽ lắc đầu, quả quyết:
- Không còn lính mình trong đó nữa đâu dì ơi! Cháu biết rõ như vậy, với lại muốn đi vào đó phải có xuồng chứ lội bộ sình lầy không cách nào được.
Người phụ nữ hai mắt đỏ hoe, sụt sùi nài nỉ Trí cố giúp nhưng nó vẫn lắc đầu, đứng yên. Thấy không xong, bà quay qua nắm lấy tay tôi, van nài:
- Giúp chị nha em? Tôi nghiệp chị mà! Nhà chị ở xa lắm, đến đây nào có biết đường đi vào đó đâu.
Nước mắt bắt đầu từ từ rỉ ra từ mắt tôi. Khẽ gỡ tay bà, tôi trả lời:

- Dì ơi, Dì! cháu cũng ở Sài gòn mới về đây có ít ngày hà. Cháu thực không biết chỗ đó đâu. Nếu biết thì cháu…
Tôi lắp bắp chưa nói hết câu thì bị Trí kéo tay đi ra chỗ khác. Được một quãng khá xa rồi nó mới nói:

- Anh đừng nhận lời giúp bả. Làm sao mà mình đi vào đó được? Hơn một tháng giải phóng rồi, không còn lính nào còn trong rừng Điều đó hết. Em biết rõ như vậy.
Tôi chưng hửng nhìn Trí rồi quay đầu về chỗ người phụ nữ, bà vẫn còn đó, tay vẫy chúng tôi trong tiếng nấc. Hai đứa tôi lại đi dọc theo con đường nhựa và ở khoảng cách không xa lắm trước mặt, một chiến xa M 113 nằm khuất bên rặng cây bình bát mọc chung với các bụi sim dại cùng dứa gai. Tôi và Trí hăm hở tiến đến cùng ý nghĩ sẽ vớ được một khẩu ru lô trong chiếc xe tăng đó và quên hẳn chuyện bà phụ nữ đáng thương. Đến nơi, nhìn qua cánh cửa mở toang ở phía sau, trong lòng chiến xa có nguyên một cây súng Cối khá lớn. Một chút ngạc nhiên vì lần đầu tôi thấy súng Cối được đặt trong lòng xe tăng M 113. Tôi hăm hở, nắm tay vào cạnh cửa xe, định trèo vào trong thì mũi ngửi thấy mùi khăn khẳn. Mùi xác người chết. Nhìn kỹ, thi thể một quân nhân còn nguyên cả đồ trận, giầy saut nằm ngay trên sàn xe sát cạnh chân đế cây súng Cối. Tiếng ruồi vo ve gần bên, thân chiếc xe tăng không một vết đạn, không lẽ người lính này đã tự sát hoặc bị thương rồi chịu đựng không nổi, kiệt sức mà chết, tôi thầm nghĩ vậy. Trí thò đầu vào cửa xe, thấy có người nằm chết nó vội kéo tay tôi đi ra xa và nhăn mặt, nói khẽ:

- Sao không ai chôn ông lính đó đi… Để vậy trông ghê quá anh.
- Ê! Hay mình lại chỗ bà vừa rồi bảo bả đến đây xem thử cái xe tăng này. Biết đâu chồng bà là người nằm ở trong đó mầy. Tôi nói với Trí.
- Thôi anh, hơi sức nào. Trí lắc đầu rồi sau đó tiếp: “Chồng bả là lính Biệt Động Quân còn ông nằm trong xe mặc đồ xanh bộ binh mà, không phải đâu, kệ bả “.
Hai đứa tôi đi thêm một đoạn đường nữa thì gặp một cây cầu xi măng đúc bắc ngang qua mặt con rạch sát với đường nhựa. Trí kéo tôi băng qua cầu, tiến vào bên trong của khu đất khá rộng. Một tòa nhà gạch lớn chỉ còn các bờ tường chung quanh cùng nền nhà loang lổ, trống trơ, toác hoác nằm giữa khu đất. Cây dừa cụt ngọn cùng cây mít èo ọt đứng gần một hố nước lớn nổi váng xanh rì. Mái nhà lợp ngói đã sụp gần hết, lòi ra những rui gỗ cháy đen nhẻm, lở dở. Những phần tường còn lại đầy vết đạn nham nhở, dấu vết một trận giao tranh đã xẩy ra ở đây. Tòa nhà được ai cất biệt lập giữa cánh đồng và bị hoang phế bao lâu rồi? Tôi thắc mắc hỏi thì Trí cho biết:

- Nhà này có từ thời Tây lận và bị tan tành khá lâu rồi. Mấy ổng năm đó kéo về cố thủ rồi trực thăng bay đến quần nhau mới teng beng như vậy. Xác người chết nhiều lắm, em nghe kể vậy chứ cũng không thấy vì lúc đó còn bé tí biết gì nhiều anh.

Phần cuối khu đất dẫn ra một con đường hẹp có các lùm bình bát, bụi ô rô, cụm cóc kèn, vạt nhành nhành hoặc đám sim dại mọc xum xuê về một phía như khu rừng lưa thưa. Phía đối diện là con rạch nhỏ chạy song song với con đường. Hoa sim dại mầu tím sẫm cùng cánh trắng của các đóa nhành nhành đung đưa trong làn gió chiều. Vài con ong rung cánh u u bay kiếm mật lướt ngang các bông hoa. Cánh mỏng của con chuồn chuồn ngô đỏ sậm khẽ đáp rồi lại đậu chập chờn trên các cành cây la đà. Nước trong vắt chảy lững lờ dưới con rạch, lôi vài nụ bèo cái cùng giề lục bình trôi nhè nhẹ. Chợt Trí lấy tay chỉ tôi xem cái gì nổi lùm xùm trong một bụi năng. Hai đứa tiến lại xem. Trời! Một xác người đang rữa nát. Đi tiếp, tôi và Trí trông thấy thêm các xác người khác nổi dập dềnh đây đó trong lòng con rạch. Họ là thường dân, chắc chắn như vậy vì đều mặc thường phục. Hầu hết là xác đàn ông nhưng cũng có một xác phụ nữ qua mái tóc dài cùng bộ y phục hoa hòe trên người. Trí kéo tay, chỉ tôi nhìn một xác đàn ông nổi úp mặt, phơi lưng gần bờ mà hai tay bị trói chặt bằng dây thừng. Bước chồm sát tới để xem cho rõ, chân của Trí vô tình đạp trúng vài cục đất trên bờ rạch làm chúng lăn tòm xuống nước.

Nghe động, một đàn cá rô bơi ra từ dưới bụng của xác người đó. Trên lưng áo trắng bỏ vào quần của nạn nhân còn dấu những vết đạn, máu loang lổ đã phai đổi sang màu nâu sậm. Tôi và Trí tay bụm miệng kinh hoàng nhìn nhau. Những xác người nổi phềnh trong con rạch này là ai? Tại sao họ bị thảm sát bỏ xác ở đây và ai đã giết họ? Tôi khẽ gật đầu đồng ý khi nghe Trí thều thào: “Mấy người này chắc mới bị giết chừng hai ba tuần lễ, anh à!”.

Khá xa, tuốt trong phía sâu con rạch có bóng hai người lui cui khuất sau các hàng cây, lùm bụi xanh đen. Ai trong này? Họ có thấy xác người không mà còn ở đó. Gan quá vậy! Tôi và Trí tò mò, im lặng tiến lại xem. Một người đàn bà cùng một cô gái tuổi thiếu niên đang quỳ gối, cúi đầu đọc kinh lầm thầm trước một tờ báo cũ trải ngay trên mặt đất với ít bánh ngọt bisquit và chung nước nhỏ. Gần mép rạch, vài cây nhang tỏa khói cắm gần một dép nhựa đã cũ. Loại dép có dây quai bọc gót và là chiếc ở phía chân trái. Tôi nhìn xuống con rạch, thoáng rùng mình khi thấy xác một người đàn ông áo trắng sọc ca rô, quần xanh đen nổi phềnh trên các bụi năn bụi lác. Chân phải nạn nhân vẫn còn dính chiếc dép có dây quai.

Một xe Honda Dam hai bánh dựng gần bên phía có nhiều cây cối. Trí quay sang hỏi vài câu với người đàn bà và cô gái nhưng cả hai vẫn nhắm nghiền mắt, miệng lầm thầm nguyện kinh, không để ý đến sự việc chung quanh. Gió đồng thổi từng cơn, thoang thoảng mang mùi xác chết từ dưới lòng con rạch thốc vào mũi hai đứa tôi.

Cái mùi kinh khủng, đặc biệt và không lẫn với bất cứ mùi nào khác. Tôi khoát tay ra dấu cho Trí thối lui, cả hai im lặng quay về lối cũ. Ngang qua những xác người chương sình, hai đứa tôi rảo chân bước nhanh hơn. Xác đàn ông đều nổi xấp, một điều siêu hình hay ngẫu nhiên? Những nạn nhân dưới lòng rạch này bị giết lẻ tẻ từng người hay cùng chung trong một vụ thảm sát tập thể. Người phụ nữ và cô gái, nhân thân họ thế nào? Nạn nhân nổi dưới lòng rạch là gì của họ? Cha, chồng hay anh em ruột thịt? Tại sao họ lại nín lặng không trả lời khi Trí cất tiếng hỏi và đặc biệt lại không than van, khóc lóc mà chỉ lầm thầm đọc kinh. Có xe Honda Dam dựng gần bên, vậy thì họ cũng ở đâu đó không xa trong vùng. Đã gặp được xác người thân, sao họ không mang về chôn? Sợ? Do hoàn cảnh riêng hay một cấm đoán từ chính quyền mới? Ở Sài Gòn, chốn phồn hoa đô hội, có bao giờ gặp hình ảnh này. Tôi thắc mắc và choáng váng, bước chậm từng bước chân rã rời, mơ hồ như thấy cảnh thảm sát vừa mới xẩy ra ở trước mặt.

Đồng lúa ở đây vào chiều thật êm ả cùng vài cánh cò trắng bay chập chờn như trong các câu chuyện, hình ảnh về cảnh thôn quê thời thanh bình. Trên con đường nhựa quốc lộ xa xa, xe gắn máy hai bánh, xe đò và xe lam chở khách bình thản chạy vụt qua lại. Đâu ai biết bên vệ đường đang có một người tuyệt vọng mò tìm tung tích của chồng mình và trong tận cùng con rạch nhỏ, có hai người đang nguyện kinh bên xác thân nhân.

Đứng trên mặt cầu xi măng đúc gần con đường nhựa, tôi và Trí dừng chân nghỉ ngơi trong giây lát. Trời bây giờ đã thật chiều trên cánh đồng lúa nhá nhem đổi thành màu xanh đen. Mây từ phương xa kéo về giăng giăng xám xịt khắp bầu trời trông thật ghê rợn. Một tiếng chớp nổ đùng chát tai thật to cùng với tiếng gió rít mạnh hơn làm tôi và Trí giật mình hoảng hốt. Nỗi hoảng hốt trước hiện tượng thiên nhiên cũng như hình ảnh đã thấy suốt buổi chiều hôm nay trong lòng con rạch làm tôi khiếp sợ. Bên tôi, Trí cũng vậy, da gà nổi nhọn trên cánh tay ôm khoanh trước ngực nó. Tiếng chớp và mây hứa hẹn một cơn mưa sắp đến gần sau những ngày khô hạn cũng như hình ảnh xác người chết nổi trong lòng rạch báo hiệu một tương lai ảm đạm, thê thảm cho người dân miền Nam Việt Nam Cộng Hòa sau những ngày bại trận.
” Tiếng ai oán hờn căm trong gió
Một tấc quê hương, một tấc người “.
Phạm Thắng Vũ
(May 07, 2010. - Viết để tưởng nhớ các nạn nhân Cộng Sản (viên chức hành chánh cấp Xã, Ấp vùng Hốc Môn-Củ Chi) sau ngày 30-4-1975

Thursday, February 17, 2011

Bầu Bí một giàn .
Tràm Cà Mau

Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà.

Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.

Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.

Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.

Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn. Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan IOM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
"Anh là Phàn phải không"
"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?"
"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?" - Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.

Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:

"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn."

Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:

"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau."

"Ngược ngạo thế thì 'bố giời' mới biết được".

"Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?"

"Nghe được cái quái gì đâu?"

Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.

Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.

Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:

"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?"

Tôi cười và trả lời:

"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa".

Anh Phàn hỏi tôi:

"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?"

"Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?"

"Cũng mệt, nhưng chẵng can gì cả."

"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn"- Tôi nói.

"Kệ nó, để nó làm việc cho quen"

Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.

Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay.
Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa li lớn. Anh nói:

"Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.

Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:

"Cái nầy mới thật là rượu."

Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.

Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:

"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm."

Chị vợ anh Hy nói:

"Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả."

Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:

"Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dàm đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả."

Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó, vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.

Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :

"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế."

"Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu"

"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà."

"Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành."

"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa."

Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .

Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói :

"Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với."

Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : "Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên. "

Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.

Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:

"Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được."

Bà bảo trợ thuyết phục:

"Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe."

"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi."

Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng.
Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng
nói được hai chữ "yes" và "no", vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ "thank you". Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.

Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.

Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn:

"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?"

"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!"

"Nhưng... anh có đi trên xe nầy không?"

"Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi"

Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:

"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm ?"

Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:

"Anh hỏi làm chi vậy?"

"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được."

"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ."

"Tôi không tin."

"Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem."

Anh Phàn cười mũi:

"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được. Thà đừng hỏi."

Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:

"Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực."

Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.

Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo
cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai. Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : "Con cái mất dạy. Đề tôi đến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác."

Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: "Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó . Đừng dại dột." Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: "Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba." Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: "Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo." Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người
Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.

Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm
phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói :

"Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản."

"Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết."

"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!"

Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.

Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có "giấy mời" tối nay ra trụ sở công an, lý do "Cho biết sau". Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm
gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:

"Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình
tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ ..."

Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:

"Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh nói rõ hơn được không?"

Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:

"Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?"

Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:

"Ai nói với anh điều đó? "

"Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả."

Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ."

Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:

"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi."

Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:

"Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi."

Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:

"Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa."

Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:

"Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh."

Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :

"Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị 'báo cáo' lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng."

Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói:

"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời. Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lảnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhĩ ? "

Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:

"Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết."

Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:

"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !"

Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền "ăn quỵt" giúp cho anh chị.

Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:

"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi."

Vợ tôi nói:

"Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây."

Anh Hy phì cười, nói:

"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được."

Tôi nói:

"Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được."

"Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của 'bọn dân tộc anh hùng', ngứa tai chịu không nỗi."

Tôi dịu giọng:

"Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa.
Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được?"

Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: "Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ."

Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chúa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi
lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng." Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.

Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hãi Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đánh đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói :

"Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ ."

Tôi an ủi anh:

"Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích."

"Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? "

Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền trợ cấp. Tôi cười bảo anh:

"Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng
không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm."

"Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. "

Tôi cười, nói đùa:

"Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa , thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu."

Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:

"Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ."

"Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa ?"

"Chưa"

"Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?"

"Tôi không biết!"

"Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? "

"Không có vấn đề chi cả. "

"Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?"

"Chưa muốn. Khoan đã."

Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.

Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.

Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà để trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi
lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.

Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa
hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.

Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.

Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.

Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.". Trong lòng tôi cũng thấy buồn.

****

Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: "Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà." Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết
xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm, thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm
sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.

Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:

"Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn' của anh Hy nói ngày xưa."

Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:

"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời."

Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:

"Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng. "

Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.

Tác giả: Tràm Cà Mau