Monday, June 29, 2015

Chuyện buồn người vợ tù

Ý Cơ

 
Chuyện buồn người vợ tù là một chuyện đã thực sự xẩy ra cho một người phụ nữ sau tháng tư năm 1975, Ý Cơ tin rằng hoàn cảnh ấy không xẩy ra riêng cho mình chị, mà câu chuyện thương tâm, phần nào phảng phất một nét đời đã qua nhưng khó quên của mỗi chi em chúng ta, khi có chồng, có con bị tập trung trong trai cải tao. Ý Cơ đã viết lại theo lời kể của nhân vật chính, ví thế chữ tôi được dùng trong chuyện kể, không phải là tác gỉa bài viết, rồi vẫn giữ nguyên danh tánh của hai nhân vật. (Nhân vật tên Chung trong chuyện kể này là Trung Úy Trương Kim Chung, giảng viên Tâm Lý Chiến và Xã Hội Học Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat)

Ngôi biệt thự nhỏ, khiêm tốn, cuối đường Hoàng Diệu, Dalạt. Phía sau là vườn hồng, từ đó, thấp thóang nhìn thấy những mầu áo xanh lam, của nữ sinh nội trú trường Couvent des oiseux. Đó là: “Ngôi nhà hạnh phúc!” của chúng tôi, cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó.
Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc, bên ba đứa con nhỏ dễ thương, và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi, nhất là khi Tết đến, nó lại có cơ hội tiếp đón những ‘Con bà phước’, đó là những Sĩ Quan huấn luyện viên của trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, không được về thăm nhà khi Tết đến, tất cả đều quây quần vui chơi, như chính nhà của họ, bởi vì, vợ chồng tôi, luôn coi các anh như người ruột thịt.
Thời gian như thế chẳng bao lâu, và cuộc sống đầm ấm ấy đã bị đảo lộn, khi tiếng súng bắt đầu nổ vang trên bầu trời Buôn Mê Thuột, để rồi dẫn đến ngày cuối tháng tư đau thương này.
Được lệnh thượng cấp rút khỏi Dalat vào cuối tháng 3/75, Chồng tôi cùng các chiến hữu, đã lặng lẽ lên đường, giữ an ninh lộ trình di tản cho dân chúng và các đơn vị bạn thuộc Tỉnh Tuyên Đức và Thị Xã Dalat, các anh là những người sau cùng rời xa Dalat.
Phải rời xa nơi chốn hạnh phúc của chúng tôi và bè bạn, anh đi mà vẫn quay đầu nhìn lại, anh muốn ở lại để bảo vệ mảnh đất thân yêu ấy, nhưng không thể cãi lệnh thượng cấp, vì anh là một quân nhân, anh kể lại cho tôi như thế, về suy tư của anh trên đường rút quân.

Sàigon thất thủ, Anh cùng một số chiến hữu đã ra đi, sau lời tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh. Nhưng.. .. đến chiều tối, Anh đã trở lại cùng mẹ con tôi, Anh đã rời chiến hạm của quân chủng Hải Quân để về cùng mẹ con tôi, vì anh không muốn xa lìa hạnh phúc đời mình, để ra đi, chỉ một mình anh như thế! Nếu biết, trở lại để rồi phải vĩnh viễn xa lìa mẹ con tôi, chắc anh vẫn quyết đinh như thế, tôi tin như vậy ở tình yêu của anh giành cho mẹ con tôi.. .. .. Đó, chính là niềm đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi trong cuộc sống mẹ con tôi đến cuối đời.
Là một sĩ quan cấp uý, cuối tháng 6/75, Anh cũng như bao người khác đã trình diện để học tập cải tạo, với hy vọng sau vài mươi ngày sẽ trở về, nhưng.. .. .. ..
Vắng Anh, tôi ở lại, với bao hoang mang lo sợ, lo sợ cho sinh mệnh của anh nhiều hơn cho sự bơ vơ của mẹ con tôi. Thời gian cứ hun hút qua đi, không một tin tức nào về anh.

Tất cả chúng ta, các chị và mẹ con tôi, cũng như những người cha, ngưòi chồng yêu qúy của chúng ta, đều bị những kẻ chiến thắng lường gạt một cách một cách hèn hạ.
Anh đã cho tôi và các con anh một đời sống ổn định vững vàng, nay không có anh, tôi đã mất hết, mất cả những ước mơ toan tính cho tương lai con cái về sau, tôi chẳng còn gì, ngay cả mạng sống cũng mong manh bên cháu nhỏ mới chào đời.
Nhưng thực tế, vẫn là thực tế, dù là thực tế phũ phàng, tôi và hầu hết chị em chúng ta phải gánh chịu, phải tự vực mình đứng lên, và tự nhủ, phải đứng thật thẳng để là nơi nương tựa vững chãi cho chồng con.
Tự nhủ như thế để lấy lại can đảm, tôi đã phải ngược xuôi trăm đường, bán buôn đủ thứ nơi đầu đường xó chợ, trong cảnh vạn người bán mà chỉ có vài người mua, để thay chồng nuôi con.
Dân chúng tại các thành phố và tỉnh thị, không có gạo mà ăn. Khoai lang, khoai mì, bo bo .. .. đã trở thành lương thực chính, phân phối theo sổ gia đình, khi nào được mua bột mì, đã là một hạnh phúc lớn cho dân chúng miền nam, vì có thể lấy bột làm bánh mì để ăn, hoặc để bán, đi bán bánh mì cũng là một trong muôn nghề, tôi đã nhờ đó nuôi con.

Ngày tháng cứ qua đi, với buồn lo nặng chĩu hai vai, không người chia sẻ, tôi vẫn nhủ thầm, lúc này, mình không được gục ngã, không thể gục ngã, khi mà các con tôi còn qúa nhỏ, khi mà sự sống chết của người chồng yêu qúy không một chút tăm hơi.
Với một chiếc xe đạp cũ kỹ, tôi chạy ngược xuôi kiếm sống, nuôi con. Khi những người cầm quyền CS biết rằng, đa số chi em chúng ta, đang chiếm lòng lề đường, và những đầu con hẻm làm nơi kiếm sống, họ đã cho thi hành chiến dịch, dẹp lòng lề đường, để triệt hạ con đường sống của những vợ con ngụy.
Tôi đành chuyển cách kiếm sống, khi thì chạy thuốc tây, đôi khi vài ba mảnh vải.. .. để chuyển từ tay người muốn bán, đến tay người muốn mua, ở giữa mình kiếm vài củ khoai nuôi con.. ..
Có những lúc đạp xe muốn kiệt sức, vì từ sáng chưa có chút gì vào bụng ngòai một ly nước lạnh, trời Saigon nắng gắt, đạp xe mà không nhìn thấy gì phía trước, không biết vì mồ hôi từ trán chẩy xuống, hay những gọt nước mắt tuôn rơi. Nhiều lúc đầu óc muốn vỡ tung, vì những mưu toan sinh kế, trước những ách bức nặng nề do xã hội chủ nghĩa gây nên, ấy thế, những giây phút tưởng như cuồng điên ấy, có lẽ còn dễ chịu hơn những khi màn đêm buông xuống,
Ngồi cạnh giường, nhìn đàn con ngủ, những khuôn mặt ngây thơ vô tội, nhưng chắc cũng đã một chút ấm lòng, vì chiều nay mẹ đã mang về cho các con được hơn một ký gạo.
Nhưng còn chồng tôi đâu? đói-no, ấm-lạnh ra sao? Anh là người nặng tình vợ con, liệu có yên giấc ngủ, hay đang chong mắt nhớ vế gia đình, với những lo lắng, mà không sao Anh gánh vác thay vợ lúc này.. Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc, nức nở khóc, để vơi chút buồn lo.

Thời gian qua, gần một năm sau ngày chồng tôi bị đưa đi cải tạo, tôi mới được tin chồng, dù chẳng phải tin vui, nhưng có vẫn hơn.
Anh đang bị bệnh sốt rét ác tính, và thiếu dinh dưỡng trầm trọng, không biết Anh có còn chờ được thấy em lần cuối hay không? Một người bạn đưa tin về, mong ước của Anh là được tin vợ con, trước khi Anh nhắm mắt.
Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi, không còn đủ sức đứng vững, hay tôi đã qùy xuống để xin người về, chỉ đường cho tôi, tìm đến với người chồng bất hạnh cho kịp lúc.
Ngay tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã vội vã lên đường đi, tìm chồng. Băng rừng, vượt suối, muỗi, vắt, cắn bầm tím cả người, không màng tới, quần áo ướt rồi khô, khô lại ướt, gió lạnh căm căm nơi rừng sau, chẳng sờn.
Tìm được trại giam chồng, tôi chưa kịp mừng, một bọn đàn ông với đôi mắt cú vọ hạch hỏi đủ điều, chỉ với lý do, tại sao tôi biết điạ điêm của trại tù này.. .. Nhưng cuối cùng họ cũng cho tôi gặp Anh có lẽ vì: ”cảm phục lòng yêu chồng của phụ nữ miền nam”. Tôi đọc được điều đó, qua ánh mắt của họ gìanh cho tôi lúc đó.
Chồng tôi bệnh nặng, anh em cùng láng, cho mắc võng chồng tôi chính giữa, còn võng cuả Anh Em bao chung quanh để che gió lạnh cho chồng tôi, thật sự, có che được bao nhiêu, vì mỗi khi gió thôi tạt vào, thì tất cả đều phải đón nhận những làn gió lạnh và cát bụi bám đày mặt. Tôi đem lòng kính yêu những tấm lòng ấy, và ngỏ lời cảm ơn các anh.

Tôi chết sững, khi các anh chỉ cho tôi chiếc võng ở giữa, nơi chồng tôi đang nằm, Chồng tôi đó sao? Một người cao gần 1m80, nặng trên 70 ký, nay chỉ còn là một bộ xương sơn đen, hàm răng trắng nhô ra, làm cho đôi má đã hóp, lại càng thấy trũng sâu hơn, đôi mắt lõm sâu không thần sắc.. .. .. nước mắt như cùng lúc với tôi, nhào lăn đến bên Anh, tôi ôm ghì bờ vai Anh, đôi bờ vai ấy, những năm tháng qua đã là nơi nương tưa qúy báu cho tôi, những khi tôi buồn. Còn Anh, Anh không đủ sức kéo đầu tôi ngả vào vai như ngày xưa nữa. Thời gian như ngừng lại, các bạn Anh đứng bên cũng yên lặng ngậm ngùi, yên lặng đến độ tôi đã nghe thấy âm thanh của nước mắt tôi rơi trên vai chồng.
Làm sao tôi có thể quyên được đêm ấy, bên đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt, mà tôi chắc, trước kia oai phong và đẹp trai lắm, trong bộ quân phục VNCH .. .. nhưng.. .. bây giờ.. .. quanh tôi.. .. chỉ còn là những bộ xương biết cử động. Hai mắt tôi đã đau nhức vì khô cạn nước mắt, tôi khóc cho tôi, tôi khóc vì các anh, và chắc các anh cũng đang cùng tôi khóc cho quê hương dân tộc.
Chồng tôi nằm đó, thoi thóp thở, miệng vẫn cố cười, nụ cười héo hắt, chắc Anh đã mãn nguyện, khi biết rằng vợ con Anh còn sống?
Đứa con gái út của Anh mới được tám tháng, nên mẹ nó còn sữa, hai bầu sữa căng nhức đã kéo tôi ra khỏi cơn mê, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi các bạn Anh tránh ra xa môt chút, để tôi có thể san xẻ phần sữa của con tôi cho bố nó.
Bưng bát sưã, vừa bỏ thêm hai muỗng đường, xúc từng muỗng đưa lên miệng Anh, tôi hy vọng là không có giọt nuớc mắt nào của tôi, rơi vào bát sữa, để Anh không phải uống thêm những đắng cay của cuộc đời vào lúc này.
Không hiểu vì bát sữa, hay vì tôi đã đến, sáng ra Anh đã tỉnh lại nhiều, các bạn Anh bảo, nhờ có sữa tiên nên Anh mới khoẻ lại như vậy, tôi biết các bạn Anh nói đùa, vui, cho chồng tôi lên tinh thần. Xin cảm ơn các Anh.
Chiều đó tôi bắt buộc phải rời trại giam.

Trên đường về, đầu óc lại làm việc, mong sao tìm được cách kiếm tiền đi thăm nuôi chồng, càng sớm càng tốt, nếu không tôi sợ không kịp.. .. không kịp,.. .. không kịp?.. .. tôi không dám nghĩ tiếp.
Sau lần thăm ấy, tôi bị mất liên lạc, vì chồng tôi bị chuyển qua nhiều trại khác.. Mãi đến giữa năm 1977, tôi mới nhận được giấy báo của trại cho phép đến thăm Anh, tại trại an dưỡng Biên Hòa. Sau lần đó, chồng tôi cùng các bạn bị chuyển ra Bắc.
Thời gian này thật khủng khiếp, vì Anh luôn bị chuyển trai, hết Lào Cai, rồi Yên Bái, rồi Lạng Sơn.. .. .. .. !
Vừa được tin anh ở trai này, đến nơi, anh đã bị chuyển đi trại khác, tôi rượt đuổi theo anh nhiều ngày tháng, nhưng không sao bắt kịp bước đi của anh. Phải trở về, vì bốn đứa con nhỏ còn đang cần mẹ. Tôi phải hối lộ cho bọn cán bộ Bưu Điện để có những tấm phiếu gơi qùa, qua đường bưu điện, mỗi phiếu được ba ký. Phải tính tóan làm những món ăn để được lâu, một chút thịt mỡ cũng phải kho thật mặn.. .. .. trông thấy tôi làm những món ăn gởi cho Anh, các con Anh nói:”Bố sướng qúa, bố có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi mình !”.. .. .. còn gì đau khổ và xót sa cho tôi trước những câu nói so sánh ngây thơ ấy, nhưng cũng có chút an ủi cho chúng, là còn được vét xoong.
Cuối cùng tôi cũng tìm ra, họ đã chuyển Anh về Nghệ Tĩnh, tôi vội ra thăm Anh, dù không có giấy phép, đủ mọi mưu kế, đủ mọi tính toán .. .. .. .. tôi không biết mình đã trở thành người nhiều mưu kế như thế tự bao giờ, và cuối cùng tôi đã xin được giấy chứng nhận bị mất cắp tòan bộ giấy tờ và tiền bạc, trong đó có giấy phép được thăm nuôi, nhờ thế tôi đươc vào trại giam chồng tôi. Tôi đến được trại giam vào tối thứ bẩy, qua ngày chủ nhật sẽ được gặp mặt chồng, nhưng qua hôm sau cán bộ ở trại họ cho biết, đến thứ hai mới gặp được vì chồng tội bị đi lao động xa, và họ sẽ cho gọi Anh về.
Đêm chủ nhật trằn trọc mãi không ngủ được, phần vì lạ chỗ, phần thì mừng, mai được gặp mặt chồng sau nhiều năm xa cách, hơn nữa, xem Anh có mạnh khỏe hơn, sau lần được uống sữa tiên hay không? Nhiều ý nghĩ dồn dập tới.. .. .. Nhưng mệt qúa nên tôi cũng thiếp đi được một chút. Trong giấc ngủ, tôi nằm mơ thấy anh về báo tin cho tôi là anh đã chết.. .. .. .. Tôi chòang thức giấc, mà miệng còn ú ớ, như đang nói điều gì, tôi tỉnh dậy, lo buồn, khóc thành tiếng, làm thức giấc các chị cũng đến thăm chồng thăm con như tôi. Các chị biết chuyện, hùa vào an ủi, thôi, sinh dữ tử lành, yên tâm ngủ đi, rồi mai thế nào cũng được gặp, tôi cũng tự an ủi mình như thế.
Hôm sau, mờ mờ sáng, tôi đã cùng chị em nấu cơm cho chồng, cho con một bưã, mong được ấm lòng cả hai. Trời sáng hẳn, qua màn sương mỏng, từ cao nhìn xuống, tôi thấy từng lớp người lũ lượt theo từng tóan đi lao động. Tôi như kẻ mộng du, như có ai xô đẩy sau lưng tôi, tôi chạy ào xuống chân núi, nơi cấm những thân nhân tù cải tạo đến gần, tôi thấy, toán 1, rồi tóan 2, rồi tóan 3 .. .. Tôi chợt nghe tiếng gọi: ”Chị Chung.. .. à .. .. Chị Minh” và tiếp theo có tiếng người la to: ”Anh Chung chết rồi”. Tôi ngã xuống và không còn biết gì nữa.

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình bị trói chặt tay chân vào một chiếc chõng tre, một người y tá đang chích thuốc cho tôi. Tôi nghe kể lại, tôi đã bị ngất xỉu hơn một giờ đồng hồ, họ phải khiêng tôi lên từ chân núi, họ phải trói tôi lại vì sợ tôi vật vã, làm gãy kim chích. Tôi nói, tôi không sao, cởi trói cho tôi.
Sau cơn chóang qúa đau đến dại người, tôi trở nên bình tĩnh lạ thường, bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn sợ cho sự bình tĩnh cuả tôi lúc đó, miệng tôi luôn lẩm bẩm: ”Anh linh thiêng đến thế sao?” Khi nhớ lại giấc mơ đêm qua.
Tôi được gặp trại trưởng, tôi yêu cầu gì, họ cũng chấp thuận. Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi, trao lại cho các anh hơn 120 kg qùa tôi mang đến cho chồng, tôi nói với các Anh rằng, ai cần gì thì lấy thức đó, rồi thư về cho vợ con, trả tiền lại cho tôi sau, phải nói thế các Anh mới chịu nhận, thực trong lòng tôi thương các Anh như thương chồng mình vậy.
Sau đó, cán bộ trại mang đến cho tôi một xách tay, bên trong không có gì khác hơn ngòai một bộ bà ba đen đã bạc mầu.
Họ cho tôi một chén cơm hẩm, còn hôi mùi mốc, trên có một qủa trứng luộc, để mang ra mộ Anh, tôi đi như một xác không hồn, mắt mở căng như tóat ra nỗi căm hờn, phẫn uất, nhưng nào nhìn thấy gì phiá trước, bước thấp, bước cao, theo hai người diù tôi đi.
Tôi không thể chết bên mộ chồng, vì ở nơi xa kia, còn có bầy con thơ đang chờ mẹ về, kể chuyện đi thăm bố.

Vài tháng sau, tôi nhận được hai gói qùa trả lại với hàng chữ: ”Người nhận đã chết, trại yêu cầu hoàn lại”. Ra bưu điện nhận lại hai gói qùa, tới bưã ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành, những món qùa trả lại, vì bố các cháu không còn cần nữa, mắt tôi lại một lần mờ lệ thương thân.
Vài năm sau, tôi dời mộ chồng về Saigon, trong ngày bốc mộ Anh, tôi được vài người bạn tù của Anh giúp đỡ, một trong các Anh lấy lên từ dưới mộ, đưa cho tôi một kỷ vật, do chính chồng tôi làm ở trong tù, nó được chồng tôi làm từ những sợi giây kẽm nhỏ, thành sợi giây chuyền, với chiếc mặt nhựa kính máy bay, có khắc hình hai đứa đứng cạnh nhau. Anh đã dấu diếm từng ngày để không bị cán bộ CS tịch thu, các bạn Anh đã tìm thấy trong khi liệm xác Anh, họ đã chôn nó cùng Anh trong huyệt lạnh.
Hơn một năm, sau ngày Anh mất, phường khóm đưa đến cho tôi một biên bản ”Phạm nhân chết”, trong đó ghi rõ tội ác của chồng tôi can tội: ”Giảng viên tâm lý chiến, xã hội học, Trường Võ Bi Quốc Gia Dalat. Án phạt: 3 năm tập trung cải tạo”. Nhưng khi chồng tôi chết, Anh đã bị tù đúng 3 năm 7 tháng. Bẩy tháng oan nghiệt giết chết chồng tôi.

Đến năm 1994 tôi được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO vì có chồng chết trong khi bị tập trung cải tạo.
Nay các con tôi đã khôn lớn, đã thành đạt, và các cháu rất hiếu thảo. Tôi đã và luôn tự nhủ, phải đứng thẳng làm nơi nương tựa vững chắc cho chồng cho con, trách nhiệm phần nào đã nhẹ gánh.
Em đã sống vì anh, thay anh nuôi dậy con chúng ta, tôi vẫn thì thầm cùng anh như thế, ”Hãy đợi em đến cùng anh”. Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên như thế, để được xum họp với chồng tôi, để nối lại gánh hạnh phúc của chúng tôi bị gẫy sau 4 năm 5 tháng chung sống. Tôi chắc Anh có nhiều nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đến cùng Anh.
Ý Cơ

Thursday, June 11, 2015


Lòng trần còn tơ vương khanh tướng…

Tôi viết bài này thể theo yêu cầu của chị HạtSươngKhuya, người mà tôi quen biết trên một diễn đàn paltalk và chưa một lần gặp mặt. Cũng trên diễn đàn này, thỉnh thoảng tôi được nghe chị chia sẻ quan điểm chính trị cũng như thưởng thức giọng ca thánh thót của chị khi có phần văn nghệ chen vào. Tuy vậy, tên thật ngoài đời của chị thì tôi hoàn toàn mù tịt và tôi cũng không tò mò.

Nghe chị chia sẻ, được thưởng thức giọng ca của chị đã cho tôi cái cảm giác lạc quan chen chút ấn tượng hay hay mà mường tượng ra rằng người có giọng ca hay ắt phải có nhan sắc. Tuy là giọng ca tài tử nhưng đã có sức cuốn hút lạ thường, ngay cả giọng nói của chị cũng không chịu kém. Một chút gì đó nhẹ nhàng, một chút gì đó thân thiện nhưng thẳn thắng và tự tin, đây là nét đặc trưng trong phong cách của chị thì phải. Hơn thế, cái giọng nói ấy nó còn tựa như chất giọng của “người em gái hậu phương” Dạ Lan gởi đến “anh trai tiền tuyến” thủa nào trên đài Phát Thanh Quân Ðội ở thời chinh chiến xa xưa. Cái giọng của người em gái hậu phương Dạ Lan xa xăm ấy phải nói là không lẫn vào đâu được, nó chẳng những bộc lộ cái tình cảm thương mến ngọt ngào mà còn biểu thị những chăm chút âu lo cho từng đời lính trận mà hằng đêm từ 7 giờ đến 9 giờ tối, với chỉ vỏn vẹn 2 tiếng đồng hồ ngắn ngủi thế mà đã được hầu hết những người chiến sĩ VNCH trú đóng trên khắp bốn vùng chiến thuật thương yêu mong đợi, trong đó có tôi.

Riêng đối với chị HạtSươngKhuya, tôi vẫn thầm tiếc mỗi khi được thưởng thức giọng ca của chị, với chất giọng thánh thót, sắc nét và tròn trịa ấy nếu được đào tạo từ trường lớp theo quy chế chính quy thì cái chắc chị đã không còn là HạtSươngKhuya nhỏ bé khiêm nhường như cái nick name của chị mà đã trở thành Vì Sao Mai lừng lững trên vòm trời ca nhạc VN từ khuya rồi. Cũng cần nói thêm, chị Hạt Sương Khuya là phu nhân của anh LamSơn719, anh là một cựu sĩ quan của sư đoàn Nhảy Dù, một trong hai sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH. Cũng như chị, thỉnh thoảng anh vào chương trình Paltalk đóng góp, nghĩ rằng, anh lấy nick name LamSơn719 chắc cũng có ngụ ý. LamSơn719 là tên của một chiến dịch do QLVNCH thực hiện mà đơn vị của anh được giao trọng trách làm nỗ lực chính được khởi động ngày 8 tháng 2 năm 1971 mà phải kết thúc nửa chừng vào ngày 24 tháng 3 năm 1971. Mục tiêu chính của chiến dịch này là làm sao phá tan cho được hệ thống hậu cần của bộ đội Việt Cộng tại Lào và cắt đứt đường mòn HCM tại thị trấn Xê Pôn nằm sâu trong núi rừng hiểm trở, cách biên giới Việt Lào 40 km về hướng Lào nhằm vô hiệu hóa mọi phương tiện tiếp tế của CS Miền Bắc cho các đơn vị của họ tại chiến trường Miền Nam.

Chiến dịch Lam Sơn 719 là một chiến dịch phải trả một giá rất đắt của QLVNCH, nó chỉ đạt được mục tiêu trong một thời gian ngắn ngủi rồi phải rút lui do các cuộc tấn công tới tấp của địch quân vào đội hình chính của mình. Nói về tổng thể đây là một cuộc hành quân đã không đạt được mục đích nếu không nói là bị thất bại mà nguyên nhân của nó là do tính chủ quan, một phần là dựa quá nhiều vào sự yểm trợ hỏa lực tưởng như dồi dào của mình mà xem thường phần yểm trợ hỏa lực của đối phương, một phần là do yếu kém về mặt tình báo cũng như bảo mật cùng với những mâu thuẩn trong hệ thống chỉ huy. Thiết nghĩ, anh dùng nick name LamSơn719 như để nhắc nhở đến một kỷ niệm đau đớn trong đời binh nghiệp của mình và của đơn vị mình chăng?

Trở lại với chị HạtSươngKhuya, số là sau khi trình bày nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông trong một diễn đàn nọ, chị có yêu cầu tôi, nếu được hãy viết một bài về người nhạc sĩ tài hoa nhưng cũng lắm truân chuyên này. Chỉ vỏn vẹn lời yêu cầu này thôi, thế mà tôi đã “hơi bị” khó xử khi nghĩ đến cái tật làm biếng của mình. Hình như, ngay lúc đó, tôi đã ừ ừ hữ hữ cho qua chuyện với những mong rồi chị sẽ dần quên!

Cho mãi đến hôm nay, đã gần 2 tháng, có thể chị ấy đã thật tình quên nhưng người muốn chị ấy quên là tôi thì lại phải nhớ và cái nhớ của tôi cũng có lý do của nó. Số là mới đây tôi có nhận được một email nói về “Paris xuống đường”, nói về cuộc biểu tình ngày 14-9-2011 tại Paris và kèm theo 1 cái link bao gồm hình ảnh cũng như bài viết tường trình ngày Paris xuống đường biểu tình chống lại âm mưu bành trướng bá quyền của TQ đối với Việt Nam mà tôi chắc là trong hàng lớp người biểu tình đó có sự hiện diện tích cực của anh chị LamSơn719 & HạtSươngKhuya. Lại nữa, trong Email gởi cho tôi người gởi có phổ biến bài viết “Paris Xuống Đường” của chị HạtSươngKhuya đã cho tôi xác quyết điều này.
Những hình ảnh, những khẩu hiệu được trưng lên để nói rõ với thế giới rằng, cách đây 53 năm (14-9-1958) Phạm Văn Đồng, thủ tướng nước VNDCCH đã đặt bút ký công hàm công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc với mưu đồ tranh thủ sự ủng hộ của nước này trong cuộc chiến xâm lược miền nam VN của họ để cho đến nay phía TQ đã lợi dụng công hàm này như là 1 bằng chứng về chủ quyền biển đảo của họ. Báo chí, truyền thông cũng như trên các kênh truyền hình chính thống của TQ đã ra rả nhắc tới bản công hàm 1958 này và xem như Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi nhận và tán thành tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý, đồng thời đã chỉ thị cho các cơ quan nhà nước của CSVN có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Thực hư việc này như thế nào nó còn dính đến những cuộc họp mật giữa họ với nhau và cái chắc là họ sẽ chẳng bao giờ hé lộ cho dân chúng biết.

Hình ảnh mà tôi đoán mò về anh chị trong đoàn người biểu tình cũng như sự tích cực đóng góp tiếng nói của chị hòa cùng dòng người xuống đường nêu cao tinh thần yêu nước của người con dân VN xa xứ khiến tôi vô cùng xúc động. Thế là tôi dẹp cái “sở tật” qua một bên, làm quân tử nhất ngôn, quyết trả cho xong món nợ văn nghệ này. Tôi xắn tay áo, ngồi vào bàn phím kì cạch gõ, lẽ dĩ nhiên, nói gì thì nói, sau cùng tôi cũng phải nói lời cảm ơn đến chị, vì nhờ vậy mà tôi có được bài viết này.

Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi”? Đây là đoạn kết trong nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Lời tán thán ẩn dụ này đã như vận vào đời của người sáng tác ra nó…. Với nhạc phẩm này tác giả tâm sự như sau:
Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt.


Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muối sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”


Nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới là một nhạc phẩm hay, năm 1961 nhạc phẩm này đã được nghệ sĩ Trần Văn Trạch đem chuông đi đánh xứ người và đã được Ðài Truyền Hình Pháp, đài Europe số 1 thu âm, thu hình, gây tiếng vang ở Âu Châu. Sự kiện này dội ngược về trong nước khiến chỉ trong vòng vài tháng, giới yêu nhạc VN lúc bấy giờ đã nuốt trọn trên 60.000 ấn bản do nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam phát hành, phá kỷ lục số ấn bản lớn nhất kể từ trước đó cho đến thời điểm lúc bấy giờ.
Như con tuấn mã đang sung sức, thế mà nó còn được tăng lực bởi “Ðại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam” do chính nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn với dàn nhạc của Ðài Truyền Hình Pháp nên sự hâm mộ của giới thưởng ngoạn trong và ngoài nước càng được nhân lên và lan rộng. Nỗi vui mừng về đứa con tinh thần mang nặng đẻ đau với dáng vóc khôi ngô cùng niềm hãnh diện chưa bị nguôi ngoai thì bỗng đâu “mưa bay gió cuốn” ập đến với tác giả! Nó như cơn giông bất chợt đầu mùa ngoài biển khơi, gây cảm giác bất thường mà cũng đầy bất trắc cho người đi biển. Trong bài viết “Hình ảnh người lính khác, trong nhạc Nguyễn Văn Đông” của thi sĩ Du Tử Lê có cho biết như sau:


“Theo một bản tin được phổ biến trên trang mạng Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia thì, sau khi hai ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” và “Mấy Dặm Sơn Khê” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông được bằng hữu trong giới, trân trọng giới thiệu với quần chúng, tác giả đã gặp nhiều khó khăn từ Bộ Thông Tin Saigòn… Cụ thể, năm 1961, bộ này đã ra quyết định cấm phổ biến hai ca khúc vừa kể với lý do: Nội dung “phản chiến!” Có thể đưa tới sự sa sút tinh thần của những người lính trấn đóng ở những vùng hẻo lánh, núi non, biên giới…”


Cũng có nghĩa là, sau khi lệnh cấm của Bộ Thông Tin được ban hành và được phổ biến trên trang nhất của nhiều tờ báo lúc bấy giờ, tác giả đã phải chấp hành lệnh phạt theo quân kỷ với lý do là đã không tuân hành huấn lệnh quy định, huấn lệnh ấy là: Bất cứ một quân nhân nào, khi sáng tác văn, thơ, nhạc đều phải trình qua giới chức có thẩm quyền của Bộ Quốc Phòng để được xét duyệt và cấp giấy phép trước khi cho phổ biến.

Vì không chấp hành đúng theo quy định này tác giả đã phải nhận 15 ngày phạt trọng cấm cũng như không được phép xuất hiện trong mọi sinh hoạt văn nghệ nơi công cộng dù rằng tác giả đang đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong quân đội. Sự kiện này đã tạo nên một loạt phản ứng từ phía quần chúng, những người mến mộ, họ đứng về phía tác giả, bênh vực những khát khao thầm kín về một đất nước thanh bình, về những cảm nhận mang tính nhân bản mà tác giả đã thầm gởi gấm trong nhạc phẩm của mình. Sự kiện này đã kéo theo hàng loạt những phản ứng buộc báo giới cũng phải nhập cuộc.

Cho mãi đến bây giờ, qua bao nhiêu lớp sóng phế hưng, bao nhiêu thăng trầm dâu bể với bao thay đổi về lối sống, nếp nghĩ, về cách cảm nhận nghệ thuật và ngay cả phong cách thưởng thức âm nhạc của quần chúng, ấy vậy, khi ngoảnh nhìn lại, người ta vẫn không thể nào phủ nhận được những giá trị nhân bản của những nhạc phẩm viết về lính của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, thậm chí ngay cả những người lính của phía đối nghịch cũng chấp nhận nó một cách tự nhiên để rồi nghêu ngao hát như hát cho chính mình, dù rằng chân dung của người lính VNCH đã được tác giả minh họa trong những nhạc phẩm ấy. Hãy nghe một anh Bộ Đội hiện đại mến mộ nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới gởi gấm tâm sự của mình.

Theo tôi, chả có lý do gì mà cấm không cho phép người Việt mình hát, bộ đội mình hát ca khúc Chiều mưa biên giới cả. Cho dù là người lính Việt Nam cộng hoà hay người lính cộng sản cũng đều mang chung những tâm trạng như vậy cả thôi. Chiến tranh dưới con mắt của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, nguyên là một người lính Việt Nam cộng hoà, vẫn không có gì là tốt đẹp cả.

Có lần tôi được nghe kể rằng người trình bày ca khúc Chiều mưa biên giới hay nhất là Trần Văn Trạch, tuy nhiên tìm được bản thu của ông này trên mạng giờ hơi khó nên tôi chỉ có những bản thu của Hà Thanh, Bảo Yến, Ngọc Huyền, Thanh Tuyền, Giao Linh, Mai Thiên Vân mà thôi. Trong số những con người này, không hiểu sao tôi thích nghe nhất là giọng Ngọc Huyền (ca sĩ cải lương ngày xưa ở SG), hát trong chương trình Asia 48 – 75 năm âm nhạc Việt Nam. Không biết cuộc sống sau khi sang Mỹ có gì vất vả khổ sở không mà trong chương trình ấy, Ngọc Huyền hát hai bài, bài còn lại là Dạ cổ hoài lang, đều rất tâm trạng, thậm chí còn khóc trên sân khấu.
                                                    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh năm 1932 tại Sài Gòn nhưng cha mẹ ông gốc ở Tây Ninh. Thuở nhỏ, ông học nhạc với một thầy giáo nhạc người Pháp. Là một nhạc sĩ của dòng nhạc tình miền Nam ông chẳng những hát mà còn sử dụng được nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandoline và guitare Hawaiienne. Trong sự nghiệp văn nghệ của mình, ở mỗi đoạn đường ông đi là một đóng góp tích cực cho khu vườn văn nghệ nghệ thuật nước nhà, ông đã trải qua biết bao nhiêu giai đoạn sinh hoạt văn nghệ nổi bật. Ở thập niên 50, ông đã từng là Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân, một đoàn văn nghệ quy tụ một lực lượng ca nhạc sĩ tên tuổi lúc bấy giờ, ngoài ra ông cũng còn tổ chức và điều khiển các chương trình Đại nhạc hội tại Sài Gòn cũng như khắp các tỉnh ở Miền Trung và Miền Nam.

Năm 1958, ông là trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài phát Thanh Sài Gòn, đến năm 1959 ông là trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp quốc gia và đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia, một giải thường do bà Ngô Đình Nhu trao tặng. Ngoài ra ông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi tiếng, với sự cộng tác bởi những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân… cho ra đời nhiều chương trình ca nhạc, các vở tuồng, cải lương. Chính ông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng do các ca sĩ đã thành danh lúc bấy giờ hợp tác như: Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Phương Dung, Giao Linh … và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.

Ngoài bút danh quen thuộc Nguyễn Văn Đông, ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử. Với 2 bút danh Phượng Linh và Đông Phương Tử ông đã viết nhạc nền và làm đạo diễn cho những tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như: Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng v.v..
Những nhạc phẩm nổi tiếng về người lính VNCH đã được ông sáng tác như: Chiều mưa biên giới, Phiên gác đêm xuân, Mấy dặm sơn khê, Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp, Lá thư người lính. Riêng “Chiều mưa biên giới” và “Mấy dặm sơn khê” cũng đã gây cho ông nhiều khó khăn như đã nói trên.
Nhạc sĩ cũng chính là người thầy, người đở đầu cho những ca sĩ nổi tiếng như Thanh Tuyền, Giao Linh và Hà Thanh.

Về đường binh nghiệp của mình, ông đã trải qua những giai đoạn sau: Năm 1946 ông vào thụ huấn trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Năm 1950 ông được cử theo học khóa 4 trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tàu và tốt nghiệp thủ khoa với cấp bực thiếu úy năm 1952. Sau đó lần lượt ông theo học các khóa “Ðại Ðội Trưởng” tại Trường Võ Bị Ðà Lạt, khóa “Tiểu Ðoàn Trưởng” tại Trường Chiến Thuật Hà Nội. Năm 24 tuổi ông nắm chức vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Trọng Pháo 553, xem như ông là một tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của QLVNCH lúc bấy giờ.

Trải qua nhiều chức vụ, nhiều đơn vị và đồn trú ở nhiều địa bàn để rồi cuối cùng ông thuyên chuyển về Saigon, giữ những chức vụ khá quan trọng. Cấp bực cuối cùng trong Quân đội của ông là đại tá, chức vụ cuối cùng trong Quân Lực VNCH của ông là Trưởng khối lãnh thổ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông cũng từng được trao tặng Bảo Quốc Huân Chương.
Khi biến cố Tháng Tư 1975 xảy ra, như hầu hết những sĩ quan QLVNCH khác, ông bị tù cải tạo. Năm 1985, sau gần 10 năm lao khổ ông được trả về với lý do bị bệnh sắp chết nên được thả ra cho gia đình đem về nhà chôn cất! Nghe nói, gia đình phải võng ông về. Về sự kiện này, ông có tâm sự:
Khi trở về, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Chắc có lẽ, Trời Phật đã nhìn lại mình mà cho mình sống, dù là một đời sống lây lất, cho đến ngày hôm nay”
“Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lãnh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tị hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!”


Chiều mưa biên giới anh đi về đâu ?

Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu
Kìa rừng chiều âm u rét mướt
Chờ người về vui trong giá buốt
Người về bơ vơ
Tình anh theo đám mây trôi chiều hoang
Trăng còn khuyết mấy hoa không tàn
Cờ về chiều tung bay phất phới
Gợi lòng này thương thương nhớ nhớ
Bầu trời xanh lơ
Đêm đêm chiếc bóng bên trời
Vầng trăng xẻ đôi
Vẫn in hình bóng một người
Xa xôi cánh chim tung trời
Một vùng mây nước
Cho lòng ai thương nhớ ai
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay
Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng
Đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng
Người tìm về trong hơi áo ấm
Gợi niềm xa xăm
Người đi khu chiến thương người hậu phương
Thương màu áo gởi ra sa trường
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi


Nhạc viết về lính của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông như đời lính của ông mà nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới là một điển hình. Nó nói lên tâm trạng thật của đa số người lính tác chiến ngoài mặt trận, nó không cổ võ lòng thù hận cũng không mảy may tâng bốc hay ca tụng những giết chóc của súng đạn, nó chỉ khiêm nhường nói lên thân phận của người trai thời loạn là cầm súng bảo vệ cuộc sống thanh bình của người dân khi bị ai đó xâm phạm. Người lính của Nguyễn Văn Ðông là thế, nó bình thường, nó đúng nghĩa một người lính…




Thursday, June 4, 2015


BẢO QUỐC TRẤN KHÔNG

Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc, lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay 

Trần Ngọc Nguyên Vũ là bút hiệu của Thiếu Tá phi công khu trục "Thiên Kích, Skyraider" Trần Ngọc Hà, cựu SVSQK63A/KQ.
Tháng 11 năm 1970, từ Căn Cứ KQ Biên Hòa, ông thuyên chuyển lên Phi Đoàn tân lập 530 Thái-Dương trên PleiKu, Phi-Đoàn Trưởng là Th/Tá Lê Bá-Định. Mấy tháng sau ông được bổ nhiệm làm trưởng-phòng huấn-luyện KĐ72/CT thay vị trưởng phòng cũ đi Hoa-Kỳ. Cũng trong năm 1971 ông bị bắn rớt, và nhẩy dù thoát hiểm trong phi-vụ yểm trợ cho tiền đồn BenHet.
Mùa Hè năm 1972, tại mặt trận Tây nguyên, phi công Trần Ngọc Hà đã phải nhảy dù tại Charlie vì phòng không địch, trong phi-vụ giải vây TĐ11 Dù. Vào thời điểm căng thẳng nhất của cuộc chiến, để khích lệ tinh thần các chiến hữu, ông coi việc nhảy dù ra khỏi chiếc phi cơ bốc cháy trên vòm trời lửa đạn như là một môn thể thao thời thượng!
Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, SĐ6KQ thành lập, ông được bổ nhiệm làm Tham-Mưu Phó CTKH/SĐ6KQ và đặc trách phần thuyết trình về vấn đề không yểm cho các Sư-Đoàn BB và các Tiểu-Khu thuộc lãnh thổ QK2. Đầu năm 1975, ông được thuyên chuyển về khối CTKH/BTLKQ tại Tân-Sơn-Nhất.
Ông cộng tác thường xuyên cho Đặc San Lý Tưởng KQ và Đặc San KQ Bắc Cali. Trần Ngọc Nguyên Vũ cũng rất quen thuộc với Trang nhà Cánh Thép.






BẢO QUỐC TRẤN KHÔNG
VIỆT NAM MẾN YÊU. MỘT THỜI ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT

Nơi đất trích trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha nhìn quanh cả vạn muôn
Há chỉ mình ta xuôi biên tái
"Nhất khứ bất phục phản" là thường.(2)
*****

PleiKu! Vùng đất nghiệt ngã của thiên nhiên dành cho con người với những cơn gió núi mưa rừng rả rích trói buộc bước chân người khách lữ. Những người lính đồn trú ở đây gọi nó là "vùng đất đầy ải", hay một cái tên nghe có vẻ giang hồ và lãng mạn hơn là "Đất Trích". Cái thành phố mà "Lính" nhiều hơn "Dân" này, nằm nhô mình lên giữa một vùng núi đồi trùng điệp của vùng Tây Nguyên quanh năm ngút ngàn khói lửa. Ở đây vào mỗi buổi chiều, khi chiếc phi cơ của hãng hàng không VN vừa cất cánh để bay về SàiGòn, cùng tiếng gầm rú của chiếc C130 cuối cùng theo sau rời phi đạo, thì người ta có cảm tưởng như mình bị cô lập trong một thung lũng huyền bí mà ngoài kia là những rình rập bí ẩn của núi rừng...PleiKu là nơi dừng chân của nhiều sắc lính từ khắp 4 vùng chiến thuật. Những người lính mà tên tuổi đã danh trấn giang hồ như Đào Trọng Vượng, Đào Văn Năng, Nguyễn văn Song, Trần Cao Chánh, Vương Mộng Long, Phùng Nhi Cầu, Hậu, Phong, Bình, Thủy, Quán, Thại, Ý , Đỗ Mạnh Trường, Trần Tiễn San của Biệt Động Quân, và Nguyễn Đình Bảo, Sông Lô, Bùi Đức Lạc, Mễ, Đoàn Phương Hải, Tô Đạm Liệu, Hiệp, Thanh của Nhẩy Dù...và còn rất nhiều những người khác nữa. Họ là những người đã được tôi luyện trong những "lò cừ" của quân đội, và được bọc kín trong cái vỏ "quân phong quân kỷ" bằng thép. Nhưng đôi khi họ cũng tự thoát ra khỏi cái vỏ cứng ngắc đó để sống tuyềnh toàng theo "giang hồ". Cũng bởi giang hồ không có vua, nên những ông "vua không ngai" này chỉ khuất phục trước cái "phong độ" và "luồng hào khí ngút trời" của tráng sĩ. Riêng Trần Cao Chánh cũng đã có lần muốn làm nên đại cuộc, nhưng ý trời chưa thuận theo lòng người nên nửa đường đành đứt đoạn...Sau này trên bước đường giang hồ phiêu bạt, vào những đêm trăng mờ huyền hoặc, người ta lại nghe được tiếng gầm bi thiết của con mãnh sư lạc bầy, cô đơn bốc lên như muốn chọc thủng cả một khung trời tưởng vọng...

Đối với lính, thì dù là đất trích hay đất lành, họ cũng là những người đến rồi đi như bóng mây. Nhưng với người dân sống ở đây thì PleiKu như có một ma lực vô hình nào đó giữ họ lại; chẳng khác nào như những dòng sông huyền hoặc quấn chặt lấy núi rừng, cuộn mình nằm yên lặng làm chứng nhân cho những buổi lễ phong thần...Ai đã một lần đến đây và thấy yêu PleiKu, thì phải ở cho đủ hai mùa mưa nắng, mới "thấm" và "cảm thông" được tâm tình u uẩn của "người phố núi".


PleiKu gió núi mưa rừng đổ
Người đến rồi đi như bóng mây
Bỏ lại những chiều nơi phố thị
Thung lũng buồn thung lũng ngóng mây bay

Tây Nguyên! ...Theo lời kể của một "hậu duệ" dòng họ Võ là Trung Tá Võ Quế, KĐT/KĐ/YC PleiKu thì ngày xưa nơi đây là vùng "đất phong" của nhà Nguyễn cho những người có công với triều đình. Những tỉnh như Võ Đắt, Võ Định gần PleiKu là đất phong của nhà vua cho họ Võ, và hiện nay vẫn còn ghi trên bản đồ nước Việt. Đối với dân Không Quân thì PleiKu chẳng phải là vùng đất xa lạ gì, họ có mặt ở đây từ cái thủa mà phi đạo của phi-trường Cù-Hanh còn được lót bằng những tấm vỷ sắt (PSP), nằm cạnh "cô hàng xóm" Holloway của đoàn Trực Thăng Không Kỵ Hoa Kỳ. Cái khắc nghiệt nhất của PleiKu đối với dân phi-hành là phi-trường này chỉ có độc nhất một phi đạo nằm theo hướng "Đông - Tây". Buổi sáng thì gió thổi từ hướng Đông, còn buổi chiều thì gió lại kéo về từ hướng Tây. Cho nên khi cất cánh hay về đáp, người lính KQ luôn luôn phải trực diện với tia mặt trời quái ác chiếu thẳng vào mắt họ. Một tay nghề còn non rất có thể sẽ lãnh một hậu qủa nguy hiểm. Về mùa Hè, sau những phi-vụ vật lộn với tử thần nơi chiến địa. Người phi-công mang con tầu về đáp, trong lúc đầu óc còn đang miên man suy nghĩ tìm một vần thơ tình tự gởi về cho "người phố núi"...đến khi nghe thấy tiếng âm thoại trầm ấm văng vẳng vỗ về bên tai: " - VNAF! Đây đài kiểm soát Holloway..." thì người phi công hào hoa mới hoảng hồn tỉnh mộng, và thấy mình đã lạc cánh sang nhà "cô hàng xóm" mất rồi. Nhưng đã qúa muộn. Trong cuộc đời của người lính chiến KQ, nếu có những lỗi lầm chết người, thì đôi khi cũng có những lầm lỗi thật dễ thương, và thật...đáng nhớ. Sau khi theo chiếc xe Pickup mầu xanh có đeo tấm bảng kẻ hàng chữ mầu trắng "Follow Me" to tổ chảng ( để dù mắt có lèm nhèm cũng vẫn đọc được) về bến đậu. Người khách lạ lạc đường, một đêm gõ nhầm cửa, được "cô hàng xóm" dễ thương khoản đãi một bữa ăn tối "để đời" tại câu lạc bộ sĩ quan (BOQ). Sáng hôm sau trước khi lên đường lại còn tiễn thêm một bữa ăn sáng đầy đủ chất dinh dưỡng, kèm thêm một "ly cối" coffee hảo hạng loại "Good to the last drop" cho tỉnh ngủ... 
 



PleiKu! Vùng đất đầy ải đã từng đón tiếp những tên tuổi lẫy lừng của KQ như Trần Văn Minh, Đỗ Trang Phúc, Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Hồng Tuyền, Lưu Đức Thanh, Võ Quế, Nguyễn Ngọc Khoa, Lê Bá Định, Nguyễn Văn Bá, Lê Văn Thảo, Nguyễn Quốc Thành, Lê Mộng Hoan, Lê Như Hoàn, Phạm Bính, Phạm Đình Anh, Dan Hoài Bửu, Lê Thanh Hồng Vân, Trần Mạnh Khôi, Tạ Thượng Tứ, Nguyễn Văn Mười, Lê Quốc Đức, Trần Văn Nghiêm, Phan Hiền Tính, Nghiêm Ngọc Ẩn, Nguyễn Quan Vĩnh, Đào Bá Hùng, Nguyễn Ngọc Lành, Lê Thuận Lợi, Ngô Nhơn, Phan Đình Hùng, Đào Quang Vinh, Vĩnh Quốc, Phạm Công Khanh, Nguyễn Văn Thắng, Trương V. Vinh, Nguyễn Phú Chính, Đặng Văn Âu, Nguyễn Qúy Chấn, Nguyễn Quý An, Trương Nguyên Thuận, Thái Ngùng, Ngô Đức Cửu, Vũ Ngọc Liễn, Phạm Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Dzũng, Võ Ý, Mai râu, Trần Văn Lân, Lê Văn Bút, Đạt...cùng những khuôn mặt trẻ như Hoàng Trọng Hùng, Hai còi, Lê Bình Liêu, Hùng Chùa, Đinh Đức Bản, Nhân (hạt ni), Vĩnh Hiếu, Nguyễn Đình Xanh, Chỉnh, Phạm Hữu Lộc, Đệ, Thống, Lạc, Xuân, Long, Thụy, Sơn, Tuấn, Trung, Vĩnh Thuận, Hải, Phúc, Nguyễn Tài Cơ...và bao nhiêu những người khác nữa. Họ là những người đã tạo nên những "Huyền Thoại" cho vùng đất này. Những huyền thoại không cần kiểm chứng. Bởi vì có bao giờ ta đứng ngắm một bông lan rừng mọc cheo leo trên gềnh đá, mà còn hỏi cơn gió nào, hay loài chim nào đã mang hạt giống hiếm qúy gieo xuống đây, để nó mọc lên chồi lan đang tỏa hương thơm ngát này hay không? Trải qua suốt một khoảng chiều dài trong lịch sử của cuộc chiến, đã có biết bao nhiêu người KQ đã làm nên "huyền thoại" như Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Quang Tri, Phạm Long Sửu, Nguyễn Ngọc Biện, Lưu Kim Cương, Nguyễn Văn Tường, Dương Thiệu Hùng, Huỳnh Văn Vui, Phạm Đăng Cường, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du, Trần Thế Vinh, Nguyễn Gia Tập, Đào Giang Hải, Bùi Đại Giang, Bùi Ngọc Bình, Khưu Văn Phát, Trương Phùng, Trang Văn Thành, Tào Thuận, Dương Huỳnh Kỳ...và nhiều người khác nữa. Họ, những người trai thế hệ, không những đã ghi những dòng chữ bi hùng trên trang quân sử máu của dân tộc mà còn đi sâu vào lòng người qua bao thế hệ...

Mùa Hè năm 72, trời Tây Nguyên nổi cơn gió bụi. Thành phố PleiKu sôi sục như nồi nước trên ngọn lửa. Những tin tức tối mật và thượng khẩn từ biên thùy tới tấp gởi về phòng hành quân Quân Đoàn và Trung Tâm Hành Quân Không Trợ. Máy truyền tin bốc khói. Phi trường PleiKu nhộn nhịp suốt ngày với những chuyến bay hành quân, chuuyển quân và di tản. Những chiếc vận tải cơ kổng lồ C130 khi đáp nhả ra những toán quân tăng viện, và khi cất cánh mang theo những người dân di tản về vùng an toàn...

Ngồi trong phòng lái của chiếc phi-cơ chất đầy bom đạn đậu nơi đầu phi-đạo chờ cất cánh, người lính chiến Không-Quân đã nhìn thấy cảnh đoàn người cúi rạp mình dưới sức gió vũ bão của chiếc C130, tất bật chạy lên phi cơ. Lẫn lộn trong cái hỗn độn, vội vàng kia, là hình ảnh một người con gái với mái tóc rối bời tung bay theo gió, vạt áo dài quằn-quại quấn lấy bước chân nghiêng ngả trên sân bay... Hình ảnh bi hùng này đã làm cho tấm lòng chai đá của người lính KQ nổi lên nỗi xót xa… Anh giơ tay vẫy chào tạm biệt đoàn người trên sân bay, và bấm nút vô tuyến liên lạc với người phi-công vận-tải: “Chúc bạn một chuyến bay an toàn, chúng tôi đang vào trận để cản bước quân thù đây.” Rồi anh mím môi tống tay ga, đưa con tầu lao mình vào vùng trời mịt mù khói lửa… 
Trời đất mịt mù cơn bão lửa
Phượng hồng rũ cánh tả tơi bay
Em đi bụi đỏ vương tà áo
Quấn cả theo chân bước đọa đầy.
Gặp em buổi nắng tàn phi đạo

Rối bời vạt tóc xõa tung bay
Ơi người con gái chiều di tản
Trôi dạt về đâu thế cuộc này.


Giữa tháng Tư năm 1972, phố núi bừng lên, đêm cao nguyên mở hội đón những người lính "Nhẩy Dù" đến tăng viện cho chiến trường. Phạm Văn Thặng cùng các bạn đến "Quán Biên Thùy" uống ly rượu ân tình để đưa tráng sĩ lên đường...Sóng gió gầm thét vang trời. Những người lính Bộ Binh, Nhẩy Dù, Biệt Động Quân và Không Quân vào trận, quay cuồng trong lửa đạn, phóng tay điểm lên bức tranh sơn hà những đường nét bi tráng...Dương Huỳnh Kỳ, con thần điểu của phi-đoàn Thái Dương 530, lao xuống mục tiêu, trầm mình trong ngọn lửa mịt mùng đốt cháy địch quân. Cuốn theo ngọn âm phong xoáy thủng lòng người: 


"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi"
"Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi"
"Chinh phu tử sĩ mấy người"
"Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn." (1)

  
Khói lửa ngút ngàn...Hồn tử sĩ chập chờn muôn ngả..."Đá vọng phu mọc khắp biên cương." (2) Cả đất trời cũng nhạt nhòa ngấn lệ, tiếc thương cho người anh hùng nửa đường đứt gánh. Kỳ ra đi mang theo cuộc tình lỡ của "người em gái nhỏ PleiKu", và cả mộng ước bình thường của người cha gìa, chỉ mong có một đứa cháu nội để bồng ẵm trước khi cụ về với cụ bà nơi cõi vĩnh hằng cao diệu vợi...Khi Kỳ leo lên chiếc khu-trục cơ chất đầy bom đạn để ra chiến trường, thì cha của Kỳ cũng đáp chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam từ PleiKu về SaìGòn, để từ Sài Gòn lấy xe đò về Cần Thơ. Ngồi trên phi cơ cụ miên man xây mộng... "Tháng tới lên đây làm lễ cưới cho tụi nó, rồi năm sau lại lên đón vợ chồng chúng nó bồng con về thăm quê nội..." Nhưng những điều mơ ước của cụ đã bốc thành mây khói theo với bom đạn ngang trời...

 Cuối tháng 5 năm 1972, Phạm Văn Thặng một mình lội qua bờ sông định mệnh...Dòng Dakbla sủi bọt gầm lên mộ khúc bi ai...Trời KonTum lại thêm một lần vần vũ đám mây tang khóc cho một loài chim gẫy cánh. Toán Lôi Hổ của "Chiến Đoàn 2 Xung kích" nhẩy xuống bốc xác người lính KQ tuẫn quốc. Xác Thặng được mang về SàiGòn để làm lễ an táng...Thiếu Tá Ngô Văn Mai TĐT/TĐ11/BĐQ và Trung Úy Trần Cao Chánh quyên góp anh em một số tiền lớn giao cho con "tiểu mãnh sư" Phùng Nhi Cầu mang về SG đưa cho gia đình Thặng. Ngày an táng Thặng, Th/Tá Đoàn Phương Hải, người lính vừa trở về từ cõi chết, chống nạng đến đưa tiễn một người bạn đang quay lưng đi vào cõi chết...Có nhìn thấy những người lính Dù và Biệt Động Quân đứng sau quan tài của Thặng, người ta mới cảm nhận được tất cả những ân tình sâu đậm, và nghĩa cử cao đẹp của người lính đối với chiến hữu của họ.

Rồi thì "cơn gió bụi" cũng qua đi...Sau cơn mưa dông trời lại sáng. Nhưng cuộc chiến nào cũng có cái giá của nó mà người tham dự phải trả. Hàng chục ngàn địch quân đã ngã xuống. Về phiá ta, tất cả những đơn vị tham chiến đều bị thiệt hại nặng nề. Tiểu đoàn BĐQ biên phòng phải hy sinh vị tiểu đoàn trưởng anh dũng là Đ/U Bửu Chuyển và hơn một nửa quân số. Thiếu úy Nguyễn Đình Xanh thoát ra khỏi chiếc khu trục cơ lâm nạn, nhẩy dù xuống giữa trận tiền cản đường quân giặc, để TĐ phó Phan Thái Bình dẫn nửa còn lại từ Polei-Kleng rút về hậu cứ. Tiểu đoàn 11 Dù đã phải bỏ lại người anh cả thân yêu của tiểu đoàn, Trung Tá Nguyên Đình Bảo, cùng những "kinh kha của thời đại" nơi chiến địa. Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Mễ bị trọng thương, Đ/U Đoàn Phương Hải thay quyền của Đích Thân, dẫn anh em rời "vùng đất chết Charlie" dưới cơn mưa pháo của địch. Tiểu đoàn 11BĐQ của Th/Tá Ngô Văn Mai cùng những con mãnh hổ của vùng "rừng núi sình lầy" cũng cùng chung một định mệnh như những người lính Lôi Hổ của "Chiến Đoàn 2 Xung Kích"...Sư Đoàn 22BB mất đi vị chỉ huy khả kính cùng hằng ngàn tráng sĩ thà chết không bỏ thành. Để lại tấm gương trung liệt cho ngàn sau chiêm ngưỡng. Không Đoàn 72CT và các đơn vị tăng phái của Không Đoàn 62CT chưa bao giờ mất nhiều phi-cơ và nhân sự như thế.Thiếu Uý Nguyễn Tài Cơ một trong "53 Thái Dương Chi Bảo" của PĐ/530, đã bỏ chiếc phi-cơ bốc cháy trên vòm trời lửa đạn, bung dù thoát hiểm. Sau 2 ngày lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, áp dụng tất cả những gì đã học được từ bài học "thoát hiểm mưu sinh" để lẩn tránh những đơn vị của địch quân đang điên cuồng tìm bắt người phi công lâm nạn. Cuối cùng người phi công trẻ của phi đoàn 530 đã được Jean Paul Van, cố vấn của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đang bay thị sát chiến trường, nhận được tín hiệu, nhào xuống bốc về PleiKu...Sau khi đưa anh về đơn vị, viên cố vấn cao ngạo nhất trong những cố vấn của đồng minh Hoa Kỳ, theo đúng luật giang hồ, đã đứng thẳng người giơ tay chào người phi công can trường của KLVNCH. Mấy ngày sau, phi cơ của Jean Paul Van bị bắn nổ tung trong lúc bay qua vùng đóng quân của địch. Jean P. Van một người trai xứ lạ, anh đến đây và chết ở đây như một lời nguyền của những dòng sông oan trái. Ngày anh đi, hành trang chẳng có gì để mang theo, ngoài một khối tình không trọn của người ở lại...Trong cuộc chiến khốc liệt này, có biết bao nhiêu tráng sĩ, cùng những người lính Không Quân đã nhập cuộc trọn vẹn, để góp phần cho cuộc chiến thắng của toàn quân.


Thái Dương vừa rơi hôm trước
Bàng hoàng còn tưởng cơn mê
Thần Tượng Lạc Long chưa tìm được xác
Bắc Đẩu Sơn Dương chẳng thấy về
Mưa rừng rơi phủ lê thê
Bản đồi cúi mặt chiều tê tái buồn.
 
Máu của địch, máu của quân ta đã đổ ra chan hòa khắp nẻo, để tưới bón cho ngàn cây xanh lá, cho khóm Dã Quỳ hoang dại trổ sắc vàng tươi. Áp lực cuả địch quân ban đầu trùm lên cả một vùng núi đồi rực lửa từ PoleiKleng, Tân Cảnh đến KonTum, Pleiku đã được những người lính oai hùng của QLVNCH giải tỏa.
Người dân sau một lần tất bật di tản, nay lại lần lượt trở về theo tiếng gọi của rừng sâu núi thẳm. Họ trở về để gây lại cuộc sống đã hơn một lần bị đứt đoạn. Những con đường sau một thời gian vắng bóng, nay lại thấp thoáng những vạt tóc mềm ấp ủ bờ vai, những tà áo dài quấn quýt bước thân thương, cùng những tiếng giầy, tiếng guốc ngập ngừng gõ nhịp trên mặt đường...Đoạn đường tuy có ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để hồn thơ của khách đa tình dấy lên, hòa nhịp theo với cung đàn diễm tuyệt. Hàng quán lại mở ra ân cần mời mọc người khách lạ phương xa...Nhưng ánh mắt long lanh, đằm thắm của "cô hàng" hôm nao; nay trong tia nhìn, trông sao đượm mầu đăm chiêu xa vắng. Ngọn đèn khuya vẫn le lói mà như heo hút chập chờn...Chao đảo theo cơn gió lạnh của núi rừng, như đợi như chờ người đi không trở lại. Người đi không trở lại, nhưng người ở lại vẫn đợi vẫn chờ. Niềm thương nỗi nhớ theo ngày tháng chồng chất lên vai, càng lúc càng nặng như những đám mây đen gầm gừ, chậm chạp kéo về tự cuối chân trời.
 
Anh đi rồi PleiKu gầy guộc nhớ
Đồi Cù Hanh sương khói phủ lê thê
Bao nhiêu chiều con đường xưa vẫn đợi
Từng mùa mưa lầy lội lối đi về.

Và rồi tất cả lại được bắt đầu bằng những xây đắp cần cù và nhẫn nại của "người phố núi", như những con dã tràng se cát, để tạo ra cuộc sống, để làm nên cuộc tình...Cho đến ngày như định mệnh đã an bài, một thảm họa khốc liệt khác lại bất thần chụp xuống vùng núi đồi Tây Nguyên trùng điệp, kéo theo ngọn sóng thần cuồng nộ dâng lên, tràn theo tỉnh lộ 7, phủ trùm lấy KonTum, PleiKu, Phú Bổn...Cuốn trôi tất cả những dấu vết của vùng đất đầy oan trái. Vùng đất một thời được gọi là "Đất Trích!"
Ta vẫn hoài mong từ dạo ấy
Một lần tạ lỗi với tang thương
Với khung trời phủ mờ sương khói
Với những gian truân những đoạn trường. 

Trần Ngọc Nguyên Vũ
_______________________


Vùng trời biên-trấn!
(Để vinh danh những hảo-hán đã một thời tung hoành nơi quan tái.)
Trần Ngọc Nguyên Vũ







“Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây.”
Chinh Phụ ngâm

…Kể từ ngày cuộc chiến leo thang, và để đáp ứng cho nhu cầu đòi hỏi của chiến trường, theo với đà bành trướng của Quân Lực Việt Nam Cộng-Hòa, quân-chủng Không-Quân cũng đã nâng cấp số đơn-vị từ Không-Đoàn thành Sư-Đoàn Không-Quân. Cho tới năm 1970 thì KQ đã có 4 sư-đoàn, chia đều cho 4 quân-khu, và căn-cứ 92 KQ nằm trong lãnh thổ của Quân Khu 2, đã trở thành căn-cứ KQ Pleiku trực thuộc Sư-Đoàn 2 KQ, với hai Không-Đoàn chủ lực là Không-Đoàn 72 chiến-Thuật và Không-Đoàn Yểm-Cứ PleiKu. 

Trước kia, căn cứ 92CT/BTLKQ đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh; ngoài những quân nhân thường trú thuyên chuyển lên đây, căn cứ này còn là nơi tiếp nhận những đơn-vị biệt-phái ngắn hạn. Các biệt đội quan-sát, trực-thăng, vận-tải, và khu-trục thường được biệt-phái lên PleiKu từ 2 đến 3 tuần lễ, để yểm trợ cho nhu cầu chiến trường của quân-khu 2, hoặc cho các cuộc nhẩy toán của Biệt-Kích vào mật khu của địch, xuất phát từ các căn-cứ B15 ở KonTum, và B50 ở Ban Mê-Thuột. Nếu những người được đổi lên làm việc tại PleiKu coi như là bị “đi đầy”, thì đối với dân biệt phái, nhiều người lại thích cuộc sống xa đơn-vị gốc này; một cuộc sống xa nhà, nhưng phảng phất một chút gì bồng-bềnh lãng-mạn, để thỏa cái chí “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” của người trai thời loạn:

PleiKu gió núi mưa rừng
Mây Trường-Sơn phủ mù vương cuộc đời.

PleiKu được giới giang-hồ khoác cho một cái hỗn danh là “vùng đất trích”! Tuy là một vùng đất nghiệt-ngã, kể cả về khí-hậu lẫn địa-dư, nhưng PleiKu lại là miền “linh địa”, nên cũng là nơi những “kỳ-nhân dị-hán” đến ẩn mình, để khi gặp dịp là thỏa sức vẫy vùng, tung hoành ngang dọc…Họ là những người một thời đã viết lên bản “Huyền-Sử-Ca” bi hùng trên những trang quân sử máu của dân-tộc. Một trong những “Kỳ Nhân” mà tên tuổi sáng chói trên vòm trời Không-Lực, đó là “Cửu-Long Đại-Hiệp” Trung-Tướng Trần Văn-Minh.

 Thủa ấy, ai đã từng ghé qua căn cứ 92CT vào mùa mưa, khi đi ngang qua cổng Phi-Vân, nhìn về phía bên trái, sẽ thấy một dẫy cư xá lẫn lộn trong khu nhà trên con đường bùn lầy đất đỏ, có một gian nhà nhỏ trông đơn-sơ thanh-tịnh, nhưng lại có một sức thu hút kỳ lạ, khiến cho khách lữ-hành phải dừng chân đứng ngắm. Đó là tư-thất của “Ngọa Long Tiên-Sinh”…Thiếu-Tá Lê Bá-Định, cử-nhân Luật, khóa 58 SVSQ/KQ Trần Duy-Kỷ, một “Đại Hiệp” của ngành khu-trục. Thuộc mẫu người “văn-võ-song-toàn”, phong độ hào-sảng, coi trọng cái khuôn thước mẫu-mực của đạo nghĩa trong xã-hội, luôn luôn ưu-tư đến đại-cuộc, thích cuộc sống ngang-tàng khí-phách, dám làm những chuyện “lấp biển vá trời”, và biết thưởng thức cái vẻ đẹp qua những đường nét đan-thanh của văn chương, thơ, phú…Lúc chưa gặp thời, người vẫn ung-dung tự-tại nhận một chức vụ thật khiêm-nhường của phòng Tâm-Lý-Chiến trong cái căn-cứ quanh năm gió bụi, mưa bùn lầy lội này. Rồi sau đó, người đã về đầu quân dưới trướng một thiên tài lỗi-lạc của ngành “Không-Quân-Chiến-Thuật” là Trung-Tá Nguyễn-Văn-Bá, để chiêu nạp những “anh-hùng hào-kiệt” từ các nơi đổ về, dựng nên một “Không-Đoàn Biên-trấn” lừng danh vùng biên-thùy của miền Tây Nguyên đất Việt; với các phi-đoàn Khu-Trục Thái-Dương 530, Trực-Thăng Lạc-Long 229, Sơn-Dương 235, và Quan-Sát BlackCat 118, mà sau này đổi danh-hiệu là Bắc-Đẩu.

Nói đến dân biệt-phái của Không-Quân, thì không thể không nhắc tới những tên tuổi lẫy lừng một thời như: Nguyễn Ngọc-Oánh, Vũ Văn-Ước, Trần Phước, Đằng-Vân Đặng Văn Hậu, Đỗ Trang-Phúc, Dương Hùng-Cường, Ôn Văn Tài, Nguyễn Ngọc-Biện, Huỳnh Văn-Vui, Ngô Văn-Kim, Nguyễn Quốc-Thành, Nguyễn (Trần) Phước-Hội, Lê Mộng-Hoan, Nguyễn Ngọc-Thức, Nguyễn Văn Trang, Đàm Thượng-Vũ, Võ Công-Minh, Lưu Đức-Thanh, Lê Như-Hoàn, Phạm Đình-Anh, Phạm Bính, Dương Ngọc-Ẩn (Cọp), Trần Văn-Lân, Nguyễn Phú-Chính, Lưu Huy-Cảnh, Nguyễn Phúc-Hưng, Hồ Danh-Lịch, Nguyễn Tuấn-Dị, Đinh Sinh-Long, Nguyễn Quan Vĩnh, Phạm V. Thặng, Nguyễn Văn Huynh, Đinh Trần Chính, Ấn (Đen), Hoàng Mạnh Dũng, Nguyễn Hoàng Mai (Râu), Trần Thanh-Long (TiTi), Lê Quốc-Đức, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Công-Khanh, Đoàn Văn Quang, Lê Văn Bút, Trần Văn Nghiêu, Nghiệp, Thịnh, Võ Ý, Vĩnh-Quốc, Huỳnh Hải-Hổ, và hàng trăm những “Hiệp-Sĩ Không-Gian, và dưới đất” khác…

“Khu-Trục Đại-Hiệp” Lê Như-Hoàn, khóa 61 SVSQ/KQ. Xuất thân từ trường Hải-Quân Phi-Hành Pensacola, Florida Hoa-Kỳ; anh là một phi-tuần-trưởng khu-trục trẻ tuổi, tài hoa và đầy nhiệt tình. Con Hồng-Điểu (Phượng-Hoàng Rosa) của vùng trời xứ Bưởi, cùng với các Đại-Hiệp của Không-Lực VNCH trên khắp 4 vùng chiến-thuật như: Phạm Đình-Anh, Dan Hoài-Bửu, Lê Quốc-Hùng, Phạm Đăng-Cường, “Hiệp-Sĩ Say” Nguyễn Văn-Phong, Phạm B. An, Việt, Cung, Nguyễn Tiến-Thành, Nguyễn Văn-Mười, Nguyễn Đình-Lộc, Trần Mạnh-Khôi, Huỳnh Thanh-Minh, Lê Thanh Hồng-Vân, Nguyễn Q. Chấn, Nguyễn Đạm-Thuyên, Nguyễn Quốc-Đạt, Lê Văn Thặng, Sử Ngọc-Cả, BS. Phước thuở ấy, và sau này có: Nguyễn Quý-An, Nguyễn Gia-Tập, Bùi Đại-Giang, Đào Giang-Hải, Phan Hiền-Tính, Trần Văn-Nghiêm, Hồng Khắc-San, Thái Phương-Thủy, Tạ Thượng-Tứ, Ngô Đức-Cửu, Nghiêm Ngọc-Ẩn, Nguyễn Kim-Năm, Vũ V. Cần, Phan Đắc-Huề, Khưu V. Phát, Nguyễn Văn Xuân, Dương Thiệu-Chí, Lê Thuận-Lợi, Vũ Công-Hiệp, Nguyễn Du, Bạch Diễn-Sơn, Trần Như-Đẩu, Trịnh Đức-Tự, Đoàn-Toại, Đào Bá-Hùng, Trương-Phùng, Trần Thế-Vinh, Tự (Điên), Lê V. Luận, Nguyễn Văn-Sung, Vũ Ngô Khánh-Truật, Nguyễn Văn Trót, Đoàn-Phan, Đinh Đức-Bản, Phạm Gia-Đôn, Nguyễn Văn Hai (Còi), Lê Bình-Liêu, Nguyễn T. Thụy, Đỗ V. Dự, Thành, Nguyễn Thanh-Sơn, Trần V. Toàn, Hùng Phan, Trương Nguyên-Thuận, Nguyễn Đình-Xanh, Nguyễn Tài-Cơ, Phạm H. Lộc, Thống, Đệ, Nguyễn Q. Hải, Độ, Phạm Nghị-Luận, Lạc, Vĩnh-Thuận, WingmanF5, Thành536, An-Vũ-Dương, Nguyễn Phát-An, Xuân (tóc đỏ), Tuấn (Bocassa), Phúc (Cháy), Nguyễn Công-Phúc (Gangdhi), Trần K. Long, Phạm M. Xuân, Trung (Mọi), Dương Huỳnh-Kỳ, Tơ (gìa) Togia9, Hoàng Trọng-Hùng, Nhân (hạt ni), Phạm Vương-Thục, Long (Ghiền), Vũ Ngọc-Huyên, Trang V. Thành, Tào-Thuận, Thái-Ngùng, Nguyễn mạnh-Khang, Trịnh Trọng-Khang, Phan Vũ-Điện, Đào Quang-Vinh, Trịnh Minh-Nhựt, Nguyễn M. Dũng, BS. Khanh, BS. Kỳ và biết bao nhiêu những “tài hoa son trẻ” khác…là những ngôi sao sáng trong ngành phi-hành, cũng như không phi-hành, sẵn sàng nối tiếp bước chân của các bậc đàn anh tài danh như Phạm Ngọc-Sang, Nguyễn Quang-Tri, Phạm Long-Sửu, Võ Xuân-Lành, Từ Văn Bê, Phan Phụng-Tiên, Dương Thiệu-Hùng, Nguyễn Hồng-Tuyền, Đặng Văn-Phước, Ông Lợi-Hồng, Trần Doãn-Hoành, Bồ Đại-Kỳ, Nguyễn Văn-Cử, Lê Xuân-Lan, Thái Bá-Đệ, Nguyễn Ngọc-Khoa, Nguyễn Văn Tường (Mực), Lê Văn-Thảo, Nguyễn Quốc-Hưng…Người đã từng vạch lên những đường bay hào-hùng, lả lướt như những nét chấm phá tuyệt-vời, trong một bức tranh thủy mạc trên vòm trời Tây-Nguyên mịt mù khói lửa, vào những năm anh làm Biệt-Đội Trưởng biệt-đội khu-trục ở PleiKu. Sau này Lê Như Hoàn đã đem cái phong-độ “Hào-hùng trên không - Hào-hoa dưới đất” của người “Hiệp-Sĩ Không-Gian” nơi vùng trời biên-trấn, về truyền lại cho những cánh chim non, trong thời-gian anh phục vụ tại Trung-Tâm Huấn-luyện KQ Nha-Trang, cùng với Phi-Hổ Nguyễn Hồng Tuyền.  

 PleiKu không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, L ôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ, như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải, Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh, Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:

Tôi người lính trận từ xa tới
Gặp em nơi phố núi sương mù
Quán nhỏ ngây buồn nghe tâm-sự
Một buổi chiều mưa rơi…pleiKu

Rồi sáng hôm sau các anh lại lạnh lùng quay lưng cất bước lên đường khi:

“Gió Lào dậy tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng gìa bạt núi non
Mùa chinh chiến theo chân thù nghịch
Ta về theo cho dậm chiến trường.” (1)

Chiến trường Tây-Nguyên quanh năm mịt mù khói lửa, với những địa danh ngang dọc bước quân hành in dấu chân của tráng-sĩ, cùng với những:

“Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
lớp lớp tràn lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh-phụ
Cô đơn chót núi đứng bồng con
Khu chiến trập-trùng cơn bão lửa
Đá vọng phu mọc khắp biên-cương.” (1)

Lồng vào cái khung cảnh đất trời quay cuồng trong cơn bão loạn đó, “Không-Đoàn 72 chiến-thuật” đã trưởng-thành, và vươn lên cùng với khí thế ngút-ngàn của những anh-hùng, hảo-hán chốn sa trường…Chỉ sau một thời-gian ngắn hoạt-động, mà tên tuổi đã danh trấn giang-hồ. Pleiku thuở đó cũng đã thu hút được nhiều phóng-viên nổi tiếng của các hãng thông-tấn quốc-tế…Cùng các phóng-viên chiến trường quốc-nội như Sao Bắc Đẩu, Quỳnh-Như, Kiều-Mỹ-Duyên, Phan N. Nam, Nguyễn Ngọc Hạnh…đến tận nơi sinh-hoạt, làm phóng-sự, ghi lại những hình ảnh hào-hùng, sống động của người lính chiến vùng trời Tây Nguyên. Tờ báo quân đội “Diều Hâu” của nhà văn Trung-Tá Nguyễn Đạt-Thịnh hồi đó đã nhận xét về KĐ 72CT qua bài viết “Tìm hiểu hiện-tượng nhổ giò của KQVN” như sau:


“…Chỉ vào một hố bom khá sâu, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh nói với tôi: 
- Anh biết quả bom này bỏ cách chiếc thiết giáp của mình bao nhiêu không? 
- ...? 
- Ba thước.
Thao thao bất tuyệt, vị Tư lệnh trẻ nhất Việt Nam kể cho tôi nghe trận đánh khó khăn nhưng vô cùng hào hứng, vừa xẫy ra tại ngọn đồi mà chúng tôi đang đứng.

Một Tiểu đội Cộng quân, trang bị bằng một khẩu đại bác, một khẩu đại liên phòng không, đã chiếm giữ ngọn núi đá trên đường 14, cách Pleiku khoảng 20 cây số về hướng Bắc. Cây đại bác được nhét thật sâu vào lòng núi, bom bỏ bao nhiêu cũng không suy xuyển. Sư đoàn 23 đã phái một đơn vị có chiến xa yểm trợ tiến lên núi, để diệt khẩu pháo đang gây khá nhiều trở ngại cho xe cộ di chuyển từ Pleiku đi Kontum. Một trong những chiếc thiết giáp yểm trợ bị bắn cháy. Xạ thủ B-40 chỉ khai hỏa cách chiếc xe ba thước. Khu trục được gọi đến can thiệp, và nhiệm vụ của người phi công là phải bỏ lọt trái bom vào một miệng hầm nhỏ, mà không làm tổn thương đến những người có thể còn sống trong thiết giáp. Lắc đầu tỏ vẻ thán phục, Đại tá Bá tiếp:
- Chiếc AD-6 bay với tốc độ mấy trăm cây số một giờ, mà anh chàng phi công này thả bom như để. Trái bom rơi hẳn vào hầm rồi mới nổ, không gây một hư hại nào bên ngoài cả.

Những lời khen ngợi của Đại tá Lý Tòng Bá khêu gợi lòng tò mò và tôi đã tìm đến Không đoàn 72 Chiến Thuật, để gặp người phi công "bỏ bom như để", Thiếu tá Lê Quốc Đức. Ngoài 30 tuổi, Thiếu tá Đức trông hiền như ông thầy giáo. Anh tỏ ra hơi ngượng khi tôi lập lại với anh những lời của Đại Tá Bá. Giọng anh nhỏ nhẹ:
- Thật ra thì việc tôi làm tại Núi Đá, bất cứ người phi công nào cũng làm được. Dĩ
nhiên, sự chính xác này đòi hỏi đôi chút cố gắng.

Câu nói chỉ là một câu khiêm nhường. Tôi nghĩ như vậy. Nếu quả thật tất cả mọi phi công Việt Nam đều "khéo tay" như Thiếu tá Đức, thì có lẽ chúng ta nên nghĩ đến những loại kỹ nghệ đòi hỏi sự chính xác, khéo tay như kỹ nghệ làm đồng hồ chẳng hạn, để thiết lập sau khi chiến tranh chấm dứt.




Thấy tôi có vẻ không tin được rằng bất cứ người phi công nào cũng thả bom chính xác như Thiếu tá Đức, vị Tư lệnh Không đoàn 72, Trung tá Nguyễn Văn Bá bảo tôi:
- Anh còn đi nhiều, còn gặp nhiều đơn vị Bộ binh. Những người đó sẽ là nhân chứng cho sự chính xác hay không chính xác của anh em phi công. Riêng phần tôi, tôi nghĩ rằng có một điểm anh nên đào sâu hơn, tìm hiểu hơn là tinh thần của người phi công Việt Nam. Qua hai chữ tinh thần, tôi muốn nói cả tinh thần đồng đội với những người bạn họ yểm trợ mà không hề bao giờ biết mặt, cả tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, chấp nhận mọi nguy hiểm. Tôi đi tìm hiểu cái tinh thần đồng đội, tinh thần nhập cuộc ấy qua những nhân chứng khác…

Bốn trăm phi công, một ngàn chuyên viên làm việc quần quật. Máy bay được bảo trì, tu bổ cả đêm để mờ sáng hôm sau lại cất cánh, đáp ứng những nhu cầu yểm trợ của Bộ Binh. Một vị Tướng lãnh đã dẫn chứng cho tôi thấy Cộng quân đặt rất nặng yếu tố bất ngờ. Trong mỗi trận đánh, họ đều dành cho ta ít nhất là một bất ngờ. Tết Mậu Thân, yếu tố bất ngờ có thể được ghi nhận trên ba bình diện: Thời gian, không gian và vũ khí. Về thời gian, Cộng quân đã đánh vào cái lúc mà chúng ta không chờ đợi nhất: Những ngày đình chiến Tết. Về không gian, chúng đã chọn những chiến trường mà từ trước đến nay chưa bao giờ chúng chọn: Thành phố. Và yếu tố bất ngờ cuối cùng là những khẩu AK, B-40, B-41 lần đầu tiên được đem xử dụng ồ ạt. Trong trận Hạ Lào, cái bất ngờ mà địch quân dành cho chúng ta là những chiếc PT-76 khá lợi hại trước những thiết vận xa M-113 trang bị kém hơn. Lần này, sự bất ngờ có tính cách chiến thuật. Không ai có thể ngờ được rằng quân đội Bắc Việt lại công khai vượt tuyến và đánh trận địa với chúng ta. Những khẩu đại bác 130, 122 ly, những chiến xa hạng nặng T-34, T-54 cũng có thể kể là những bất ngờ chiến cụ.

Nhưng lần này, chính địch quân cũng bị bất ngờ. Họ bất ngờ trước sự trưởng thành đột ngột của Không Quân Việt Nam. Là Quân Chủng rất nặng về kỹ thuật, Không Quân không thể xé quy luật lớn, vượt lên, ra ngoài những công thức ước tính rất toán pháp.

 Sau ba lần thử lửa, người ta có thể khẳng định rằng tình trạng "nhổ giò" của Không Quân là một "thực tế" (xin mượn tiếng của ông Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ để nói về Không Quân đấy nhé) và thực tế này không chỉ làm cho địch quân bất ngờ mà thôi. Nó còn là sự bất ngờ của người Mỹ và người Việt Nam nữa. Vì thật ra, trước khi có những minh chứng hôm nay, chắc chắn không ai dám tin được rằng, những người lính rất ít chất lính, rất bay bướm lại có thể là người lính tốt. 

 Trên ba mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên và Bình Long hàng trăm ngàn người lính Việt Nam, hàng trăm ngàn người lính Cộng đang chứng kiến cái vươn vai Phù Đổng của Quân chủng Không Quân. 
KBC xin ghi nhận sự chuyển mình quan trọng đó.”

*****

…Rời khỏi phòng họp của Không-Đoàn 62CT/SĐ2KQ, thì trời bắt đầu mưa lâm râm. Lân qúa giang ông Liên-Đoàn Trưởng LĐ62 Tác-Chiến để ra phi-cơ. Là một phi-tuần trưởng khu-trục tài hoa son trẻ, lại thêm phong độ hào-sảng của một tráng-sĩ, qua những lần dẫn biệt-đội đi biệt phái PleiKu, ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của LĐ62TC/KĐ62CT Trần Văn-Lân đã lọt vào cặp mắt xanh của con “Ngọa-Long” vùng đất trích. Anh-hùng ngộ anh-hùng, để rồi sau những đêm “Tri-kỷ tương phùng như sương khói – Trăng tàn chưa nghĩ chuyện chia tay”, Lân đã được Thiếu-Tá Định dàn trải tâm-tình, ngỏ ý muốn mời anh cùng vung gươm, vẫy vùng nơi quan tái…Ai tráng-sĩ mà không mê say đại cuộc. Sinh ra giữa thời ly loạn, tới lúc trưởng thành, cũng như bao nhiêu những nguời trai cùng thế-hệ, đã gắn liền cuộc đời mình với kiếp sống“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”,(2) cùng cái hào-khí của tiền nhân “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa – Gieo Thái-Sơn nhẹ tựa hồng mao” (3)… Để rồi qua những lần lang thang làm “Anh khách lạ, đi lên đi xuống” (*) trên con đường ngắn ngủi mà chỉ “Đi dăm phút đã về chốn cũ” (*), trước cửa hiệu thuốc tây có tấm bảng đề chữ “Cao-Nguyên”…Cho đến một ngày “Anh Khách Lạ” chợt thấy “May mà có em, đời còn dễ thương” (*), thì cái vùng đất gió núi mưa rừng này đã trở thành miền quê ngoại của cánh chim bằng miền thùy-dương cát trắng. Nay lại gặp tri-kỷ mở lời thì hiểm nguy nào ngăn cản được con thần ưng, chỉ mong xoải cánh bay vào vùng trời dông bão…

Chiếc khu-trục cơ AD5 không gắn bom, và hỏa-tiễn dưới cánh, trông gồ ghề như một con quái điểu nằm trong ụ đậu, chờ hai ông phi-công lên nổ máy cất cánh. Thấy Long đang đứng đợi mình dưới cánh phi-cơ, Lân cười chạy tới bắt tay Long nói:
- Thật là thất lễ, làm ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của PĐ 530 phải vất vả.

Long cười giọng hào-sảng:
- Có gì đâu, chỉ là chuyện nhỏ. Ông Định dặn tôi bằng mọi giá phải đưa bạn lên PleiKu hôm nay.

Lân cảm động trước tấm chân tình của những người lính chiến Không-Quân. Anh nhớ hôm về Nha-Trang họp để làm nốt thủ-tục bàn giao biệt đội Khu-Trục cho KĐ-72CT tân lập, Thiếu-Tá Định đưa Lân ra tận bãi đậu Trực-Thăng. Trước khi lên phi-cơ, ông ân cần dặn dò Lân:
- Toa về trong ấy họp, lo thu xếp công việc rồi lên đây bay cùng anh em.
- Vâng, tôi sẽ ráng thu xếp mọi chuyện cho được mau chóng.
- Cũng không cần phải vội vàng lắm; cần nhất là phải lo cho chị nhà và cháu bé trước. Có tề gia rồi mới nghĩ đến chuyện “bình thiên hạ” được chứ…

Cử chỉ chăm sóc kín đáo, và những lời bộc lộ chân tình, đã nói lên mối quan tâm của Th/Tá Định đối với các chiến hữu, và ông đã thu phục được cánh chim trời bạt gió của vùng biển Nha-trang ngút ngàn sóng nước…

Long và Lân leo lên hai bên cánh phi-cơ để bước vào phòng lái. Cột xong giây dù và nón bay, Long đưa ngón tay ra hiệu cho người cơ-trưởng đứng dưới đất để quay máy. Tiếng động cơ gầm lên, chiếc AD5 lừng-lững di chuyển ra phi-đạo. Long liên-lạc với đài kiểm-soát Nha-Trang xin cất cánh. Chiếc phi-cơ phóng về phía trước rồi vụt bốc lên, biến mình mất hút vào trong màn mây, mưa mịt mù dầy đặc…

Dán mắt vào bảng phi-cụ trước mặt, Long bấm máy nói với Lân:
- Trời xấu toàn vùng, mình sẽ lên cao độ 12,000 bộ. Lấy hướng đi Phú-Bổn, rồi từ Phú-Bổn lấy hướng thẳng về PleiKu.

Lân quay sang Long nói:
- Tiếc thật, chiều nay gía tụi mình còn ở lại Nha-Trang, tôi sẽ mời bạn thưởng thức món chả cá đặc biệt của vùng biển. Trời mưa rả rích, ngồi trong chiếc quán lá bên gềnh đá, nghe trùng dương rì rào vỗ sóng, nhâm nhi ly rượu cùng bạn hữu, kể chuyện “tình người lính chiến”, thì còn gì thú vị bằng.
Long cười trong máy:
- Cám ơn bạn, tôi cũng thích món chả cá xóm Bóng lắm, nhưng xin hẹn lần sau. Hiện nay phi-đoàn đang thiếu người.
- Tôi đâu dám dụ dỗ ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của phi-đoàn. Nhưng vào mùa này thì thời tiết buổi sáng cũng không khá hơn buổi chiều đâu nhé. 

Cả hai người đều bấm máy cười sảng khoái. Phi-cơ đội mưa lên đến cao độ bình phi. Long rà núm điều chỉnh cần lái, để phi-cơ bay lướt trên những cụm mây xám bồng bềnh như sóng nước của dòng sông thiên-hà dưới cánh. Bỗng có tiếng vô-tuyến dồn-dập trong ống nghe của nón bay:
- Thái-Dương 03 đây Peacock gọi. Chúng tôi vừa được Trung-Tâm HQKT-2 chuyển lệnh khẩn cấp cho bạn liên-lạc để làm việc với BlackCat trên tần-số FM…

Long đưa mắt nhìn Lân rồi bấm máy trả lời:
- Peacock, Thái-Dương 03 nhận bạn 5/5. Tôi sẽ liên-lạc với Blackcat, tần số FM…

Long kiểm soát thật nhanh bảng phi-kế, điều khiển cần lái chúi mũi làm “penetration” cho phi cơ xuyên mây xuống cao độ, rồi quay qua nhìn Lân nói:
- Chắc có chuyện làm ăn lớn, lần này bạn có dịp biểu diễn tài tác xạ…

Phi cơ xuống tới 4,000 bộ, nhìn bản đồ Long thấy mình đang ở trên Phú-Nhơn, anh bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Blackcat đây Thái-Dương 03 gọi, tôi đang ở trên Phú-nhơn, cao độ 4,000 bộ, bạn cho biết vị trí.

Tiếng người phi-công quan sát dồn-dập vọng lên:
- Thái-Dương 03, Blackcat nghe bạn 5/5. Chúng tôi đang ở cao độ 3,000 bộ, về hướng Đông - Bắc của Phú nhơn 2 dậm…OK! Chúng tôi thấy bạn rồi. Hiện tại Black Cat đang ở hướng 10 giờ của Thái-Dương, bạn cho biết trang bị.
- Thái-Dương 03 chỉ có 800 viên đại-bác 20ly. Bạn cho biết chi tiết mục tiêu.
- Thái-Dương 03, mục tiêu được ghi nhận là nơi đóng quân của địch. Chúng tôi sẽ cho bạn một trái khói mầu cam…

Chiếc L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh tọa-độ của người phi-công quan-sát:
- Thái-Dương 03, bạn sẽ oanh-kích ngay trái khói, trải dài theo hướng Đông – Tây 300 thước.
- Thái-Dương 03 nhận rõ. Từ trái khói, dọc theo hướng Đông-Tây 300 thước.

 Nói xong Long liếc mắt kiểm soát lại các đồng hồ phi-cụ, điều chỉnh cần hòa-khí về vị thế chiến đấu, bật nút khai hỏa lên nòng 4 khẩu đại-bác, rồi làm một vòng “roll” 360 độ, lao xuống mục tiêu. Long bấm nút tác xạ, những họng súng đại bác hai bên cánh khạc lửa, tung ra từng tràng đạn 20ly công phá, cầy nát một khoảng rừng…Bỗng một cột lửa bung tỏa ra, rồi một tiếng nổ long trời lở đất dội lên như một ngọn hỏa-diệm sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, làm xao động cả một vùng khí quyển. Long kéo mũi phi-cơ thẳng đứng, làm một “nửa vòng số 8” rồi đưa phi-cơ lên cao độ của vòng chờ. Tiếng ngưòi phi-công quan-sát dồn dập trên tần số:
- Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 03 đánh qúa đẹp. Bạn đã oanh kích đúng hầm chứa vũ khí của địch rồi đó.

Long bấm nút vô-tuyến cười nói:
- Chỉ là chuyện nhỏ, cám ơn bạn qúa khen.
- Thái-Dương 03, lần này bạn sẽ đánh về hướng Tây - Nam của trái khói 100 thước. Mục tiêu được ghi nhận có nhiều xe Molotova của địch được ngụy trang dưới lùm cây.
- Thái-Dương 03 hiểu. Tây Nam trái khói 100 thước.

Nói xong Long quay sang nhìn Lân nói qua máy:
- Xin nhường bạn chiêu này.

Lân cười…chuyển nút điều khiển cần lái, rồi lật ngược phi-cơ lao xuống mục tiêu. Đạn phòng không từ dưới phóng lên tua tủa như một mạng lưới lửa đan chéo thân tầu. Tiếng người phi-công quan-sát dồn dập gọi:
- Thái Dương 03 coi chừng phòng không từ hướng Tây.

Lân mím môi bấm nút khai hỏa. Chiếc khu-trục cơ gầm lên theo với nhịp bắn. Bỗng một tiếng nổ chát chúa vang lên, con tầu như khựng lại. Lân liếc mắt nhìn qua bên phải, anh thấy cánh phải của chiếc AD5 trúng đạn phòng không rách toạc ra, rồi một ngọn lửa phực lên từ ổ súng đại-bác gắn trên cánh. Lân vội vàng trả cần lái về vị thế thăng bằng, kéo mũi phi-cơ lên để lấy cao độ. Con tầu rung lên dữ dội…Ổ đạn chứa trong cánh phi-cơ phát nổ làm gẫy lìa một nửa cánh phải, ngọn lửa cháy lẹm qua ống dẫn thủy điều vào buồng máy, bùng lên như một ngọn đuốc khổng lồ trên không. Phi-cơ nghiêng hẳn về bên trái, quay tròn rồi rơi vào vị thế triệt nâng…

Với một phản-ứng vô cùng nhậm lẹ, và bén nhậy của một phi-công khu-trục dầy dạn chiến trường, Long chụp vội cần lái, lấy lại phần điều khiển phi-cơ bên ghế trái, bấm nút vô-tuyến gởi tín hiệu khẩn cấp “MayDay”, rồi ra hiệu cho Lân bung dù…

Lân cảm thấy mình bị hút vào khoảng không-gian vô tận, và quay lộn nhiều vòng rồi bị ngất đi vì lực “G” qúa mạnh…Khi tỉnh dậy Lân thấy mình đang lơ lửng giữa vòm trời. Anh đảo mắt nhìn quanh, thấy chiếc dù của Long ở phía xa. Lân mừng thầm là người bạn đồng hành với mình cũng đã thoát ra khỏi chiếc phi-cơ lâm nạn. Bỗng Lân thấy bầu trời nhạt-nhòa như một màn mưa phùn che trước mặt, Lân liếm môi anh thấy mùi vị tanh tanh và mặn, anh đưa tay vuốt mặt và thấy bàn tay mình đầy máu. Tấm kiếng che mặt trên nón bay đã bị bể nát; một giòng máu nóng từ trên trán chẩy xuống, anh tháo vội chiếc khăn quàng cổ, cuốn lại rồi nhét vào bên trong chiếc nón bay để ngăn dòng máu đang rỉ xuống làm mờ mắt, rồi anh co duỗi hai chân để thử, và thấy an tâm là chân không bị gẫy. Lân đưa tay làm dấu Thánh Gía trên mình, thầm cám ơn Chúa đã mang anh và Long ra khỏi giây phút hiểm nghèo…

Lân nhìn xuống dưới, thấy cánh dù đang rơi đúng chỗ những đám khói nơi trận địa, anh kéo dây điều khiển cho cánh dù lạng về phía Đông để tránh vị trí của địch. Cánh dù từ từ hạ xuống, Lân co hai chân, kéo mạnh dây dù rồi buông ra để giảm tốc độ. Anh nhắm mắt, chụm hai cánh tay che lấy mặt. Cả thân hình anh rớt xuống và vướng vào ngọn cây. Lân cảm thấy hai bên xườn bị đau nhói vì sức va chạm qúa mạnh. Lân mở mắt thấy mình bị treo trên cành cây cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lân nhìn xung quanh không thấy cánh dù của Long, anh nhìn lên trời thấy hai chiếc khu-trục cùng chiếc L19 như những con diều hâu quần thảo trên đầu mình, anh thấy vững bụng.

 Lân tháo dây dù rồi đu theo cành cây nhẩy xuống đất. Anh bỗng thấy một đám khói mầu bốc lên cách chỗ anh đứng khoảng 100 thước, rồi chiếc khu-trục đâm bổ xuống và nhả ra một trái bom, anh vội vàng chạy vòng ra sau thân cây để núp. Một tiếng nổ vang dội như tiếng sấm cùng những mảnh bom bay rào rào như một trận cuồng phong, cắt đứt cành cây ngọn cỏ. Đứng nép mình sau thân cây, Lân thấy tim mình đập như muốn văng ra khỏi lồng ngực. Chưa kịp hoàn hồn thì một tiếng nổ kế tiếp lại ầm vang lên, lần này gần chỗ Lân núp hơn. Lân thấy mặt đất rung lên dữ dội như đang trải qua một cơn địa chấn. Anh cảm thấy ù tai và ngộp thở vì sức ép của qủa bom. Sỏi đá và những cành cây gẫy đổ ào ào rơi xuống như trời xập…Chiếc khu-trục xuống thật thấp, lao vút đi, rít lên như một mũi tên xé gió, nhả từng tràng đạn đại bác 20ly cầy tung mặt đất. Lân có thể nhìn thấy chiếc nón bay của người phi-công ngồi trong phòng lái. Lằn đạn nổ gần đến nỗi anh có cảm tưởng như da thịt mình bị bỏng rát. Đây là lần đầu tiên Lân được chứng kiến cảnh bom nổ, đạn bay nơi chiến địa ngay bên cạnh mình. Một luồng cảm khái rần rật chạy khắp toàn thân, anh thầm cảm phục sự gan dạ và dũng-cảm của những người bạn đồng ngũ…




Khi những chiếc khu-trục đã làm xong công việc giải tỏa bãi đáp cho trực thăng, và phóng lên trời để bao vùng. Lân chạy ra khỏi chỗ núp, anh thấy một chiếc UH1 đang lừng lững bay tới. Lân mừng rỡ chạy ra khoảng đất trống, đưa tay vẫy…Chiếc trực-thăng đảo một vòng ngay chỗ Lân đứng, rồi bất thần lao xuống. Khi chiếc phi-cơ cấp cứu còn cách mặt đất khỏang chừng nửa thước, thì Lân phóng tới bám lấy thành tầu, một cánh tay từ trong khoang tầu vươn ra nắm chặt lấy tay Lân rồi kéo thốc anh lên. Lân lăn mình trên sàn phi-cơ, ngước nhìn lên anh tưởng mình nằm mơ, Th/Tá Lê Bá-Định và Đức (Điên) một cao thủ trong giới cơ-phi Xạ-thủ phi-hành của vùng trời biên-trấn, đứng xừng-xững như hai ông Hộ-Pháp, chắn ngang hông phi-cơ cho Lân dựa người vào khi chiếc phi-cơ nghiêng mình chao đi như một chiếc lá, bay về phía chiếc dù thứ hai đang treo lơ lửng trên cây. Cánh quạt gió khổng lồ quay vùn vụt, chém vạt những cành cây như một con quái điểu đang đập cánh vồ mồi. Chiếc trực-thăng nghiêng ngả, tìm cách đáp xuống để bốc người phi-công lâm nạn…Đưa mắt nhìn xuống bên dưới, Lân thấy cánh tay của Long cố vươn lên như muốn kéo chiếc trực-thăng xuống thấp thêm một chút nữa…Mọi người trên tầu đang hồi hộp theo dõi chiếc phi-cơ tròng trành lên xuống như bị nhồi sóng, thì một loạt tiếng nổ chát chúa vang lên. Con tầu cấp cứu đã lọt vào ổ phục kích, và lãnh trọn luồng đạn thù nghịch từ những hầm trú ẩn của địch bắn lên…

Từng tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm đạn của kẻ thù…

Trong một khoảnh khắc chưa đầy một giây đồng hồ, Lân quên hẳn vết thương trên đầu, anh chồm tới tháo giây cột trên ghế ngồi, kéo người trưởng phi-cơ ra, đẩy về phía Thiếu-Tá Định và Đức (Điên), rồi anh với tay đập mạnh lên vai người phi-công phụ đang ngồi bất động như chết cứng trên ghế…Cú đập bất thần đã kéo người phi-công phụ ra khỏi con mê lộ của tử thần; bản năng tự-vệ dành lấy mạng sống cho anh, cùng mọi người trên con tầu trúng đạn bùng dậy, anh chụp vội cần lái, đưa chiếc trực-thăng bốc mình lên, lấy lại thăng bằng, chúi mũi lao thẳng về phía trước, rồi bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- BlackCat, đây Lạc-Long 04 gọi. Báo cho bạn biết chúng tôi bị lọt ổ phục kích của địch, chỉ bốc được một phi công nhẩy dù. Tầu bị bắn bể ống dầu, trưởng phi-cơ bị thương nặng, chúng tôi phải rời vùng.

Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát vọng lên qua ống nghe như để vỗ về, chia xẻ cùng mọi người trên con tầu lâm nạn:
- Lạc-Long 04, Blackcat nhận rõ. Xin hỏi phi hành đoàn Lạc-Long 04 là những ai đó.
- Trưởng phi-cơ Đại-Úy Huyên, Phi-Công phụ Trung Úy Long.
- Có phải “Thần Điêu Đại-Hiệp Vũ Ngọc-Huyên và “Đại-Hiệp Long Ghiền” đấy không. Xin được tỏ lòng ngưỡng mộ đến “Lạc-Long Đại-Hiệp”, các bạn vừa hoàn thành một phi-vụ cấp cứu vô cùng khó khăn và nguy-hiểm.

- Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Cám ơn bạn qúa khen. Chúng tôi sẽ bay dọc theo QL 14. Phi cơ có thể bốc cháy bất cứ lúc nào, nhờ bạn theo dõi phi trình.
- BlackCat nhận rõ. Xin báo cho Đại-Hiệp biết là Thái-Dương 31 đã thanh toán gọn ổ phục kích của địch cho bạn rồi, và sẽ hộ tống Lạc-Long 04 về PleiKu. Chúng tôi cũng đã nhờ Trung-Tâm Không-Trợ 2 báo cho phòng Hành-Quân-Chiến-Cuộc của KĐ72CT cho xe cứu thương đón Lạc-long 04 tại bãi đáp. Chúc Đại-Hiệp về đáp an toàn. Chúng tôi ở lại bao vùng, để tiếp tục công việc cấp cứu Thái-Dương 03.

Trong khoang tầu bê bết máu, Thiếu-Tá Định kéo Đức (Điên) lại, ra hiệu cho anh ngồi vào chỗ trống của trưởng phi-cơ trên ghế trái, rồi nắm chặt vai Long, như để ngầm gởi gấm sinh mạng những người trên tầu vào tay người phi-công trẻ, xong ông quay xuống săn sóc Huyên và Lân…“Long Ghiền” lấy lại bình tĩnh, vận dụng hết khả-năng và kinh-nghiệm của mình, điều khiển con tầu bị thương, mang các chiến hữu lâm nạn về căn cứ…


*****

…Lân nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, vết thương trên trán bắt đầu hành vì mất nhiều máu. Lúc khâu vết thương, bác-sĩ nói anh thật là may mắn, vì nếu mảnh đạn đi chệch xuống khoảng 1 đốt ngón tay thì anh có thể sẽ mất hai con mắt. Lân mừng là mình đã thoát nạn, nhưng khi nghĩ đến những người bạn vừa cùng anh chia xẻ những nhọc-nhằn nguy-hiểm nơi chiến địa, anh thấy lòng mình quặn thắt.…Cánh dù của Long rơi đúng vào ổ phục kích của VC, bị địch bắt mang đi, không biết sống chết ra sao. Huyên bị trọng thương, và sẽ trở thành một phế binh tàn tật suốt đời. Sự có mặt của Lê Bá-Định trên chiếc trực-thăng cấp cứu, trong lúc mạng sống của mọi người như sợi chỉ treo chuông. Long (Ghiền) “đơn thương độc mã, tả xung hữu đột” điều khiển con tầu định-mạng, dìu mọi người thoát ra khỏi vòng tay oan-nghiệt của Tử-Thần…Tất cả những sự hy-sinh, gắn-bó, và tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, cùng với phong độ hào-sảng của những người bạn Quan-Sát, Khu-Truc, Trực-Thăng, Cơ-Phi Xạ-Thủ phi-hành nơi sa trường, những người lính chiến đã được tinh luyện trong những lò luyện thép của quân-đội, để sẵn sàng thi-hành những công-tác cực kỳ khó-khăn và nguy-hiểm, mà cái gía phải trả cho sự thành-công, đôi khi là chính mạng sống của họ, đã làm con tim anh rúng động…
Có tiếng người lao xao ngoài cửa phòng, Lân đưa mắt nhìn ra, anh thấy Oanh, vợ mình tay dắt bé Luân, đứa con trai đầu lòng vừa được hai tuổi tất tả bước vào. Vừa nhìn thấy Lân trên đầu quấn băng trắng xóa, Oanh chạy ào tới bên cạnh giường bệnh rồi khóc òa lên:
- Chúa ôi! Anh có sao không? Em được anh Định báo tin nên vội vàng dẫn con vào đây.

Lân gượng ngồi dậy, dựa lưng vào thành giường, dang tay đón vợ và con, nói giọng an ủi:
- Anh không sao cả, em đừng lo, làm con nó sợ.

Oanh vòng tay ôm lấy Lân rồi gục đầu lên ngực chồng, giọng thổn thức:
- Anh ơi em sợ lắm! Anh hứa với em là đừng để đứa con của chúng mình ra đời mà không được nhìn thấy mặt cha của nó nghe anh.

Lân lặng người khi nghe Oanh nói. Anh nhẹ vuốt tóc vợ, mái tóc mềm óng ả, một thời mang huyền-thoại người “Em PleiKu má đỏ môi hồng” (*), từng làm thổn-thức con tim của biết bao lữ-khách hơn một lần dừng chân nơi phố núi, bây giờ đã là người vợ ngoan hiền của anh, và sắp làm mẹ của đứa con thứ hai:
- Em đừng sợ, anh không sao cả mà.

Vòng tay của Oanh xiết chặt hơn như không muốn để cho con đại bàng thêm một lần xoải cánh. Lân cười dịu dàng đặt tay lên bụng vợ nói:
- Em coi này, con nó đang đạp chân mừng bố về nè.

Bé Luân kiễng chân chồm lên giường, ôm cánh tay bố khóc thút thít. Nhìn những giọt nước mắt tình cảm của vợ con, Lân thấy lòng hụt hẫng, xót xa…Anh thấy mình đã nợ những người thân, và các đồng đội món nợ qúa lớn:

Những món nợ suốt đời không trả hết
Nợ ba sinh nợ những mối chân tình
Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy thác
Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu linh.

Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc, lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao vào vùng lửa đạn, bỏ lại một ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc, và một ngày cho những đôi mắt vời-vợi chờ trông nơi chốn chân mây tận cuối trời…

Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Một thời ly loạn.)
_____________________________

Chú-Thích: 
(1) Thơ Phạm Ngọc Lư
(2) Kiều của Nguyễn Du
(3) Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
(*) Thơ Vũ Hữu-Định. Bài thơ này VHĐ lấy cảm hứng qua hình ảnh tuyệt-vời của một người con gái tên Nguyễn Thị Hoàng-Oanh nơi tiệm thuốc tây “Cao-Nguyên” trên PleiKu. Bài thơ được nhạc-sĩ Phạm-Duy phổ nhạc…Lời thơ và ý nhạc đã làm hình ảnh của người “ Em PleiKu…” tồn tại mãi với thời-gian.