Monday, January 31, 2011


Người Lính Gìà Không Bao Giờ ChếtTrần xuân Hiền
Nguời Lính Gìa Không Bao Giờ Chết là câu hát của nguời lính Mỹ trong doanh trại thời truớc, nhưng khi câu hát này đuợc thốt ra từ Tuớng Douglas MacArthur khi ông đọc bài điều trần trước luỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ sau khi bị cất chức Tư lịnh tối cao quân đội Hoa kỳ ở Ðông Nam Á và các lực luợng Liên Hiệp Quốc trong cuộc chiến tranh Nam - Bắc Hàn năm 1950, thì trở thành bất hủ.

"Douglas MacArthur năm 1945"
Ông là một trong những vị tuớng 5 sao của Hoa Kỳ đuợc nhiều huy chuơng chiến trường nhất, và ông là một thiên tài quân sự đuợc xem là một Caesar. Nhưng trong một phương diện khác, ông gây ra nhiều ý kiến chống đối, đó là lý do tại sao ông không đuợc bầu làm tổng thống Hoa Kỳ, mà chỉ làm một nguời Lính Già Không Bao Giờ Chết.

Ông sinh truởng trong một gia đình võ nghiệp. Cha ông là tướng chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ chiếm đóng Phi luật Tân sau cuộc chiến tranh Hoa Kỳ -Tây Ban Nha 1898. Lúc nhỏ sống trong doanh trại, ông được dự những buổi chào cờ và diễn hành quân cách, nên nuôi giấc mộng làm lính. Ông đuợc gởi học truờng thiếu sinh quân, và lớn lên đuợc thâu nhân vào truờng West Point. Sau khi ra truờng vào năm 1904, ông đuợc gắn cấp thiếu úy ngành công binh, và phục vụ ở Phi Luật Tân để xây cất đường sá và bến tàu, rồi làm sĩ quan tùy viên cho cha. Nhờ đó ông đuợc tháp tùng theo cha trong các cuộc thăm viếng Nhật Bản, Trung Hoa và Singapore, và có nhận định sớm là tương lai quyền lợi Hoa Kỳ không phải ở Au Châu mà là ở các nuớc Á Châu đang giành lại quyền độc lập.

Trở về Hoa Kỳ ông tham gia công trình kênh Panama, phụ trách xây cất San Francisco sau vụ động đất 1906, tham gia trận chiến tranh với Mexico năm 1913. Khi Thế chiến 1 bùng nổ, ông là Ðại tá trong đoàn quân Viễn chinh Hoa Kỳ sang chiến đấu ở Pháp năm 1917. Mặc dù là sĩ quan tham mưu sư đoàn, ông thích cầm quân ra trận. Ông là một sĩ quan gan dạ trong các trận đẩm máu nhất của mặt trận miền Tây (Pháp, Bỉ va Hoa Lan) ông được gắn 7 anh dũng bội tinh Silver Star, một DSC (Distinguished Service Cross), một DSM (Distinguished Service Medal) và một Legion d honneur(Bắc đẩu bội tinh) của quân đội Pháp, và đuợc thăng cấp Tuớng một sao.

Cũng như các danh tuớng Mỹ khác, ông có một lối ăn mặc đặc biệt, không gài cúc cổ áo, không mang cà vạt, và thích đội chiếc nón két bàu nhàu thêu kim tuyến trông rất tài tử.

Ông được cử làm Chỉ Huy Trưởng trường West Point năm 1919 lúc 39 tuổi, là một trong nhũng vị chỉ huy truởng trẻ nhất. Ông thực hiện nhiều cải cách sâu rộng như nâng cao tinh thần thể thao, mang môn khiêu vũ vào chuơng trình, khuyến khích SVSQ khích đọc báo hàng ngày để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Về văn hóa, ông thấy người lính tương lai không còn là hạng chuyên nghiệp nữa mà xuất thân từ các tầng lớp xã hội, nên người sĩ quan không thể dùng kỷ luật khắc khe và hình phạt nặng nề để chỉ huy mà phải có tầm hiểu biết rộng rãi về tâm lý, lịch sử, xã hội và những mối tuơng quan trên thế giới, nên khoa Nhân văn (Sử, Văn chuơng) và Khoa học xã hội (Xã hội, Luật, Kinh Tế) được mang vào, và các giảng viên được gởi đến các đại học bên ngoài hàng năm một tháng để trau dồi kiến thức. Nhờ vậy văn bằng tốt nghiệp West Point đuợc Quốc hội HK biểu quyết chấp nhận có giá trị ngang hàng với văn bằng cử nhân ở các đại học dân sự.

Năm 1922 ông được cử trở lại Phi Luật Tân chỉ huy lực luợng quân sự HK ở Manila trong 3 năm, khi trở về HK ông được thăng cấp Tuớng 2 sao chỉ huy cấp quân đoàn, rồi làm việc tại Bộ Quốc phòng.

Năm 1930 ông được cử làm Tổng Tham mưu trưởng quân lực HK, và được mang cấp tuớng 4 sao giả định theo chức vụ. Ông thực hiện nhiều công tác quan trọng, như ra Quốc Hội tranh đấu đòi tăng ngân sách quốc phòng, gia tăng quân đội, lập ra trường tham mưu trung cấp Leavenworth giúp sĩ quan trẻ có cơ hội tiến xa trên đường võ nghiệp, lập ra Ðại học quân sự để giúp cấp tá lãnh đạo sau này. Nhờ vậy khi Ðại chiến 2 bùng nổ, quân đôi HK có đủ cấp sĩ quan lãnh đạo.

Khi TT Roosevelt đắc cử năm 1930, chính sách New Deal đuợc mang ra để giải quyết nền kinh tế khủng hoảng. Một tổ chức gọi là Civilian Conservation Corps thu hút hơn 300 ngàn người trẻ không có việc để thực hiện những chương trình như xây trường học, tu bổ công ốc, xẻ đường, khơi sông và trồng rừng. Chương trình này gặp khó khăn buớc đầu vì tất cả đoàn viên đều là dân thất nghiệp luời biếng và thiếu kỷ luật, nên ông được giao phó nhiệm vụ này. Nhờ áp dụng tổ chức quân đội và dùng sĩ quan điều hành, ông đã thực hiện kế chưong trình này tốt đẹp.

Năm 1934 nhiệm kỳ Tham mưu truởng đáo hạn, ông vận động ở lại để có thể thực hiện nhiều chương trình khác, nhưng không được. Trong lúc đang khó xử, vì ông sẽ trở lại cấp cũ, thì phái đoàn chính phủ Phi Luật Tân sang Washington nhờ chính phủ HK giới thiệu một vị cố vấn quân sự để thành lập một đội quân chuẩn bị cho một nuớc PLT sắp được HK trao lại độc lập vào năm 1946. Nếu nhận chức vụ này ông phải rời quân đội. Ðó là một khổ tâm của ông, mặc dù ông hưởng đuợc nhiều quyền lợi lớn. Cuối cùng buộc lòng, ông chấp nhận, và chính phủ đặc phái Ðại tá Eisenhower đi theo làm phụ tá cho ông.

Vào năm 1940, Ðế quốc Nhật Bản đang bành truớng thế lực trong vùng Ðông Nam Á. Vì thời gian cấp bách và ngân sách eo hẹp nên ông phỏng theo Thụy sĩ lập một đạo quân trừ bị, nghĩa là chỉ duy trì một đạo quân hiện dịch 40 ngàn, còn ngoài ra sẽ đào tạo một đạo quân trừ bị khoảng 200 ngàn nguời trong thời gian 6 năm, khi bình thuờng ở nhà, khi có chiến tranh sẽ trở lại nhập ngũ. Ðó là một kế hoạch sai lầm, vì đạo quân này ô hợp tan rả nhanh chóng khi quân Nhật đổ lộ lên Luzon vào năm 1941.

Sau khi chiếm Triều Tiên, Mãn Châu, miền Bắc Trung Hoa, các tỉnh Thuợng Hải, Bắc Kinh và Ðài Loan, Nhật Bản thấy không đủ sức để chiếm nốt Trung Hoa, nên ngừng lại và quay ra bành trướng trong vùng Thái Bình Duơng để chiếm các tài nguyên quan trọng cần cho bộ máy chiến tranh như dầu hỏa ở Nam Duơng, cao su ở Mã Lai và hầm mỏ ở Úc. Khởi sự Nhật đưa quân vào Ðông Duơng năm 1940 với sự đồng ý của Pháp để đánh chiếm Mã Lai, Singapore, và tiếp tục đổ quân chiếm các quần đảo Marinas, Solomons và Papua New Guinea để xâm chiếm Úc. Truớc tình hình nghiêm trong, Bộ Tổng Tham mưu HK gọi ông trở lại quân đội và thăng ông cấp Tuớng 3 sao vào tháng 7/41 làm tư lệnh quân đội HK và PLT.

Khi quân Nhật thình lình oanh tạc Pearl Harbour ngày 8/12/41, ông đuợc thăng lên tuớng 4 sao chỉ huy tất cả lực luợng HK ở Thái Bình Duơng.

Lực luợng HK ở PLT chỉ gồm có 3 sư đoàn với quân số không đầy đủ duới quyền chỉ huy của tuớng Wainwright, ông yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu (TTM) gởi thêm quân và vũ khí, nhưng không đuợc đáp ứng, vì ưu tiên dành cho mặt trận Âu Châu. Nên khi quân Nhật từ Ðài Loan đổ bộ 200,000 quân cùng với hàng trăm phi cơ lên bán đảo Luzon phía Bắc PLT thì HK không chống đỡ nỗi, quân đội HK rút về cố thủ ở bán đảo Battan cách Manila vài chục dặm về phía Bắc, nhưng Battan thất thủ, ông và và bộ tham mưu rời Manila rút ra đảo Corregidor ngoài vịnh Manila. Ông cuơng quyết cố thủ để chờ tiếp viện. Bộ TTM duới quyền tướng Marshall yêu cầu ông rời hòn đảo này để qua Úc lập lực lượng phản công, ông từ chối dù phải bỏ mạng. Tuớng Marshall lo ngại nếu tuớng MacArthur bị bắt sống thì đó là một sự nhục nhã đối với cường quốc HK và làm mất tinh thần quân đôi HK trên khắp thế giới, nên ra lệnh ông phải rời. Hải quân đuợc lệnh phái tàu đến đưa ông và ban tham mưu xuống đảo Midanao phía Nam PLT, và từ đó không quân đưa ông sang Darwin, thành phố bắc Úc. Ông cảm thấy hổ thẹn như kẻ đào ngũ bỏ rơi quân đội, nhưng ông hứa, “I shall return.” Ðó là câu nói bất hủ đã dày vò tâm hồn ông ngày đêm cho đến khi giải phóng đuợc PLT mới thôi. Khi ông vừa đến Darwin thì không quân Nhật dội bom xuống thành phố này. Khi xuống Melbourne ông được thủ tuớng Úc John Curtin và dân chúng thành phố này đón mừng như một vị anh hùng. Trong khi đó ở HK bộ máy tuyên truyền ca ngợi ông để nâng cao tinh thần quân đội, các hội hè, các đoàn thể và các truờng học đều treo cờ và hình ảnh của ông.

Ông đuợc cử làm chỉ huy lực luợng HK và các nuớc Ðồng Minh ở Viễn Ðông, nhưng ông khổ tâm vì quân lực HK chưa có mặt trên đất Úc. Trong khi đó nuớc Úc đang bao trùm trong một bầu không khí bại trận đến nơi, vì Úc đang bị bỏ ngõ, quân lực Úc gồm 4 sư đoàn thiện chiến đang ở mặt trận Bắc Phi, Hải quân Úc đang ở Ðia Trung Hải và không lực Úc đang ở Trung Ðông, nên dân chúng lo sợ quân Nhật có thể xuất hiện bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

Sự có mặt của ông mang lại một niềm hy vọng lớn cho dân Úc. Ông đặt bản doanh tại thành phố Brisbane, ngụ tại khách sạn Lennon và làm việc tại tòa nhà AMP. Khi mặt trận Âu Châu bắt đầu nghiêng về phe Ðồng Minh, Tổng Tham Mưu Truởng Hoa Kỳ mới bắt đầu nghĩ đến chiến truờng Viễn Ðông, quân đoàn 8 do tuớng Eichelberger và nhiều phi đoàn vận tải và chiến đấu đuợc gởi sang Úc.

Chiến luợc của Nhật là một mặt chiếm các quần đảo Solomons, Papua Guinea, và một mặt khác diệt tan hạm đội HK, cắt đứt đuờng hải vận từ HK, tức là làm bá chủ được vùng Thai Bình Duơng, và vấn đề xâm chiếm Úc không còn khó khăn nữa, nên Nhật đã oanh tại Trân Châu Cảng ngày 8/12/41 hòng tiêu diệt hạm đội 7 của HK, nhưng không thành công, nên qua năm sau, Đô đốc Yomamoto dẫn hạm đội hùng hậu với 4 hàng không mẫu hạm chứa trên hàng trăm phi cơ quyết tâm tiêu diệt hạm đội HK. Nhờ bắt được tín hiệu mật của Nhật, Hải quân HK phát hiện sớm và đánh tan đoàn chiến hạm Nhật gần đảo Midway. Trận hải chiến này đã xoay chiều mặt trận Thái Bình Dương. Trong khi đó, tướng MacArthur bắt đầu phản công những quần đảo. Những trận đánh chiếm những căn cứ Nhât trên các quần đảo này là những trận đẫm máu đắt giá với 1 đổi 2, bởi vì quân Nhật cố thủ trong những hầm hố kiên cố. Sau khi chiếm đuợc đảo Solomons, HK va Úc bắt đầu phản công New Guinea. Khi các căn cứ lớn như Rabaul, Lae, Gona và Buna lọt vào tay HK, và quân Úc đánh tan đuợc quân Nhật ở con đuờng mòn Kokoda phía Bắc thị trấn Moresby của Papua New Guinea thì Đồng Minh coi như làm chủ tình hình quần đảo này, và tuớng MacAthur tuyên bố với dân Úc mối đe doa Nhật không còn nữa.

Bây giờ tướng MacArthur mới nghĩ đến kế hoạch giải phóng PLT như lời hứa, nhưng các tư lệnh Hải quân và Không quân muốn bỏ PLT mà đánh thẳng vào Nhật. TT Roosevelt bay sang Hawai họp với các tuớng vùng Viễn Ðông để vạch một kế hoạch phản công. Ông thuyết phục TT Roosevelt phải giải phóng PLT.

Ông được thăng cấp tuớng 5 sao ngày 18/12/44 chỉ huy các lực luợng Viễn Ðông. Vào năm 1944, quân Ðức bị đẩy lui khắp các mặt trận Âu Châu, nên mặt trận Viễn Ðông đươc tăng cuờng. Cuộc đổ bộ lên đảo Leyte phía Ðông PLT gồm một hạm đội trên 1000 chiếc và hàng trăm máy bay hùng hậu chẳng kém trận Normandy. Tuớng MacArthur lội nuớc từ chiếc tàu đổ bộ buớc lên bãi biển, đầu đội chiếc nón két tài tử và ngậm ông vố là hình ảnh lịch sử khó quên, và từ đó quân Mỹ tiến chiếm Luzon và giải phóng Manila vào tháng 2, 1945.

Hải quân tiến chiếm các đảo chiến lược như Saipan, Iwo Jima và cuối cùng là Okinawa gần Nhật. Ðây là một trận đẩm máu nhất, cả 2 bên đều thiệt hại nặng, HK phải trả gía 50 ngàn quân mới chiếm được hòn đảo này.

Kế hoạch đánh thẳng vào nội địa Nhật bắt đầu, hàng trăm pháo đài bay B.29 từ các căn cứ trên Thái Bình Dương hàng ngày dội hàng ngàn tấn bom xuống các thành phô kỷ nghệ Nhật, nhưng Nhật chưa chịu đầu hàng. Căn cứ vào mức thiệt hại nặng ở trận Okinawa, TT Truman không muốn HK phí tổn và kéo dài cuộc chiến tranh, nên hạ lệnh thả 2 qủa bom mguyên tử xuống Hiroshima ngày 6/8 và Nagazaki ngày 9/8 khiến Nhật đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15/8/45.

Tướng MacArthur được cử làm Chỉ Huy Tôi Cao các lực luợng Ðồng Minh chiếm đóng Nhật. Lễ đầu hàng đuợc diễn ra trên chiến hạm Missouri, tướng MacArthur oai phong với chiếc nón két phong suơng, cổ không thắt cà vạt như thuờng lệ chủ tọa buổi lễ.

Khi quân đội chiếm đóng HK đặt bộ chỉ huy trên đất Nhật, ai cũng tưởng tướng MacArthur sẽ thi hành một chính sách trả thù không nuơng tay đối với sự tàn ác của quân đội Nhật, nhưng nguợc lại ông là một nhà chính trị khôn ngoan. Lúc đầu ông định thiết lập chế độ quân quản và lập tòa án quân sự, nhưng thủ tuớng Yokoda cam kết sẽ thi hành nghiêm chỉnh văn kiện ký kết, nên ông bỏ ý định này, và quả nhiên 3 tháng sau tất cả vũ khí, máy bay, tàu chiến đều được giao trọn cho lực luợng chiếm đóng. Một vài nuớc đồng minh yêu cầu tháo gỡ may móc kỷ nghệ của Nhật để đến bù thiệt hại chiến tranh, và bắt xử Nhật Hoàng về tội ác chiến tranh, ông từ chối, bởi vì bây giờ ông không cầm quân nữa, mà đang đối phó với nền kỷ nghệ sụp đổ, nạn thất nghiệp và các đảng chính trị thiên tả của Nhật. Cho nên vấn đề cấp bách là phục hồi nền kinh tế Nhật để gỉai quyết nạn thất nghiệp trầm trọng do hàng triệu quân Nhật giải ngũ, và dân chủ hoá một nước quân phiệt độc tài.

Ông có công lớn đưa ra một bản dự thảo Hiến Phap Nhật và được Quốc Hội Nhật chấp nhận với những nguyen tắc dân chủ như: biến nước Nhật quân chủ chuyên chế quân phiệt thành một nước quân chủ lập hiến, biến nền kinh tế chỉ huy thành kinh tế thị trường, bỏ chế độ trợ cấp Thần đạo tôn sùng Nhật Hoàng, thành lập các nghiệp đoàn lao động, cải cách ruộng đất, phá bỏ những tổ hợp công ty gia đình phục vụ cho bộ máy chiến tranh...

Mặc dù HK có viện trợ cho Nhật để tái thiêt nền kinh tế, nhưng Nhật không hưởng đuợc chương trình viện trợ Marshall như ở Âu Châu, nền kinh tế Nhật vẫn thấp kém, nên sau 3 năm chiếm đóng ông kêu gọi HK thực hiện một hiệp ước bình đẳng để giúp Nhật bản phát triển kinh tế với các quốc gia khác. Lúc này ông nghĩ đến hoà bình hơn là chiến tranh, nên ông bị công kích là đã bỏ quên vấn đề quân sự.
Ngày 25/6/50 quân Bắc Hàn đột nhiên xua quân sang vĩ tuyến 38 chia đôi Nam Bắc Hàn, quan Nam Hàn tháo chạy xuống Pusan, thị trấn cực Nam của Nam Hàn, HK với quân số ít cũng không ngăn chận đuợc. Ông được cử làm tư lệnh tối cao quân đội các nước Liên Hiệp Quốc.

Lực luợng HK chiếm đóng ở Nhật và Viễn Ðông được gởi sang Nam Hàn. Nhưng muốn đẩy lui quân Băc Hàn trở lại vĩ tuyên 38, tướng MacArtur tính HK phải tổn thất ít nhất trên một trăm ngàn quân, nên ông nghĩ ra một chiến thuật táo bạo, là bỏ mặt trận phía Nam mà đánh tập hậu ở hải cảng Inchon gần vỹ tuyến 38, cách Hán Thành 20 dặm về huớng Tây Nam và cách Pusan 130 dặm để cắt đứt nguồn tiếp vận lương thực, vũ khí và binh lính Bắc Hàn. Ông gởi kế họach về TTM và yêu cầu tăng viện một sư đoàn Thủy quân lục chiến. TTM không tin tuởng kế hoạch này, nên cử một phái đoàn gồm 3 tuớng tư lệnh lục, hải, không quân và tướng chỉ quân đoàn TQLC sang Tokyo để trình bày những điểm bất lợi về địa thế, thời tiết và tiếp vận mà nguyên tắc chiến thuật không cho phép. Ông bình tĩnh trả lời từng điểm va đánh tan mọi sự hồ nghi của ban tham mưu trung uơng, và kết luận: “Ðây là một ván cờ khó khăn, 1 đối với 5000, nhưng tôi chấp nhận. Nếu như thất bại tôi lãnh chịu trách nhiệm, và tôi sẽ cùng binh sĩ chiến đấu rút lui, còn qúy vị không mất gì cả, danh tiếng của tôi sẽ bị chôn vùi. Tôi chỉ xin qúy vị cấp cho tôi một sư đoàn TQLC để đánh tan quân địch”. Ban Tham Mưu không còn lý do ngăn trở và đồng ý.

Ðến ngày 15/9/50, tướng MacArthur đứng trên chiến hạm với tướng chỉ huy TTQC tiến về hải cảng Inchon. Bờ biển Inchon bình thuờng rất cạn, nuớc triều mỗi ngày lên xuống 2 lần là những lúc tàu có thể vào bờ. Khi cơn triều thứ nhất dâng lên vào lúc 8 giờ sáng, một đơn vị TQLC chiếm hòn đảo nhỏ trước mặt hải cảng Inchon chẳng gặp khó khăn, và khi cơn triều thứ nhì lên cách 8 giờ sau, thì cả sư đoàn trên các tàu đổ bộ tiến vào bờ mà chẳng gặp sự kháng cự đáng kể. Bị yếu tố bất ngờ Bắc Hàn không chống cự được, trong khi đó lực luợng HK từ Pusan đánh lên ở thế trên búa duới đe, Bắc Hàn tan rả và chạy trở lại vỹ tuyến 38.

Vói chiến thuật lừng lẫy này MacArtur trở thành một thiên tài quân sự, và tên tuổi đi vào lịch sử. Các danh tuớng từ cổ chí kim và từ Ðông sang Tây thuờng hay ỷ công và bất phục tùng. Tuớng MacArthur cũng không thóat khỏi thông lệ đó. Ðiều này có một ảnh huởng tai hại cho tham vọng chính trị của ông về sau.

thứ nhất khi làm tổng Tham Mưu Truởng quân lực HK dưới thời TT Hoover. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế xẩy ra, hàng trăm ngàn cựu chiến binh mất việc yêu sách chính phủ trả trợ cấp hưu trí liền thay vì phải chờ đến 60 tuổi, nhưng chính phủ không chấp nhận, nên họ tập họp thành một đoàn biểu tình gọi là Bonus Marchers kéo về thủ đô Washington chiếm một số công ốc và gây bạo động, cảnh sát đuợc lệnh dẹp đoàn biểu tình, nhưng bất lực. Chính phủ giao cho quân đội, tướng MacArthur cởi ngựa điều động toán quân với súng gắn luỡi lê và lựu đan cay thẳng tay dẹp đoàn biểu tình, và theo chỉ thị ông phải ngừng lại bên này sông Potomac, thì ông ra lệnh cho quân đội vượt qua cầu cào sạch lều trại của đoàn biểu tình. Vụ đàn áp này làm dân chúng công phẩn, và bị báo chí lên án là một hành động phát xít chà đạp quyền tự do biểu tình của dân chúng của một nước tự do dân chủ ngay giữa thủ đô HK. Cuộc đàn áp này TT Hoover đã trả giá bằng cuộc thất bại tranh cử lần 2, còn MacArthur mang một vết dơ không tẩy xóa đuợ
Và lần thứ hai, sau khi dồn quân Bắc Hàn trở lại vỹ tuyến 38, ông được lệnh của TTM và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vượt qua vĩ tuyến này để giúp Bắc và Nam Hàn thống nhất theo hoà uớc ký kết giữa các nuớc Ðồng Minh sau Ðại chiến 2, nhưng không đuợc tiến gần sát ranh giới Trung cộng. Ðồng thời TT Truman bay sang đảo Wake để gặp MacArthur tỏ sự lo âu một cuộc tham chiến của Trung cộng.

Giữa TT Truman và tuớng MacArthur vẫn có một sự hiềm khích nhau. Sau khi Nhật đầu hàng, TT Truman hai lần mời tuớng MacArthur về HK, nhưng MacArthur thoái thác viện cớ bận rộn công việc, TT Truman tức bực, nhưng không dám ra lệnh triệu về, vì tuớng MacArthur là một vị anh hùng. Và sau trận Inchon thì uy danh của ông lấn át tất cả chính khách HK, trong khi uy tín của TT Truman đang tụt giảm. Khi TT Truman bay sang đảo Wake để gặp tuớng MacArthur, thì theo nghi lễ tướng MacAthur phải phải bay đến truớc để đón tiếp một vị Tổng Thống vừa là tổng tư lệnh quân lực HK, thì trái lại MacAthur ra lệnh cho máy bay hạ cánh cùng lúc với máy bay của TT Truman, tướng MacArthur vẫn ăn mặc thuờng lệ với chiếc nón phong suơng va không mang ca vạt khiến TT Truman tức giận trong lòng và chờ một cơ hội khác để cất chức. Trong buổi nói chuyện MacArthur bỏ ngoài tai mối lo sợ của vị Tổng Thống, và cả khi TT Truman mời MacArthur ăn cơm chiều thì MacArthur cũng từ chối.

Sau trận Inchon, các tuớng trong bộ TTM tự thấy mình nhỏ bé, và không dám tỏ bày ý kiến khi tướng MacArthur cho quân đội HK tiến sát biên giới Trung Hoa và cho không quân đánh sập các cây cầu trên sông Yulu giữa Trung Cọng - Bắc Hàn, và quả nhiên đưa đến sự can thiệp của Trung Cọng. HK bị đánh tan, và Trung cọng vượt qua vĩ tuyến 38 lại và tiến về Pusan. Hoa Kỳ phải khó khăn và thiệt hại nặng mới đẩy Trung cọng về lại vĩ tuyến 38.

Cuộc chiến tranh dây dưa và tổn thất nặng khiến dân chúng HK đòi chấm dứt chiến tranh sớm. TT Truman trước sự chống đối của dân chúng đang tìm cách dàn xếp ngưng chiến với Trung cọng, thì tuớng MacArthur tuyên bố trên báo chí sẽ dùng không lực dội bom các vùng kỷ nghệ Trung cọng nếu không chịu rút quân. Lời tuyên bố này đi nguợc đuờng lối của chính phủ, và chứng tỏ một sự bất phục tùng, nên TT Truman quyết định lấy tư cách tổng tư lệnh quân lực HK cất chức tuớng MacArthur Tư lệnh các nước LHQ, tư lệnh các lực luợng Ðồng minh chiếm đóng Nhật và tư lệnh HK ở Viễn đông và triệu hồi ông về HK ngay.

Khi dân chúng Nhật nghe tin này, một số đông coi như môt cái tang trong gia đình. Khi ông rời phi truờng Tokyo, hơn 250 ngàn dân Nhật đứng 2 bên đuờng tiễn đưa thương tiếc, và khi máy bay đáp xuống sân bay San Francisco, mặc dù không được loan báo chính thức hơn 500 ngàn nguời tụ tập đón tiếp, và khi ông xuất hiện chính thức ở thành phố New York, hơn 7 triệu dân chúng đổ ra đường đón tiếp ông.
Trong bài điều trần truớc luỡng viện Quốc Hội HK, ông đuợc vổ tay hoan nghênh khiến ông phải ngưng lại nhiều lần mà vị chủ tịch Quốc Hội là Joe Martin nói ông chưa hề thấy một chính khách nào đuợc hoan nghênh như vậy suốt 50 năm ở chính truờng.

Ông có nghệ thuật viết và nói truớc đám đông. Trong phòng làm việc của ông khi nào cũng có gắn một tấm guơng lớn. Mỗi lần viết xong một bài nói chuyện, ông thuờng đứng truớc tâm guơng học cách diễn tả trong lời nói và dáng điệu.

Sau khi Nhật đầu hàng, danh vọng của ông không ai bằng. Vào cuộc bầu cử tổng thống năm 1948, một số tổ chức ở HK phát động phong trào “MacAthur For President”, nhưng ông từ chối. Trong cuộc bầu cử tổng thống 1952 giữa lúc chiến tranh Triều Tiên đang gay go, dân chúng HK đòi hỏi một vị tổng thống uy tín có thể mang lại hoà bình, là lúc ông đã từ giã quân đội. Trong kỳ đại hội đảng Cộng Hòa năm 1952 chọn ứng viên ra tranh cử tổng thống, ông bị đàn em là tướng Eisenhower đánh bại như thông lệ, học trò hơn thầy, con hơn cha. Tuớng Eisenhower thua tuớng MacArthur 10 tuổi và là khóa đàn em ở West Point. Khi tuớng MacArthur làm Tổng Tham Mưu truởng, Eisenhower, thường đuợc gọi thân mật là Ike mới là Trung Tá phục vụ ở bộ TTM. Eisenhower lên tuớng 5 sao chỉ 2 ngày sau tuớng MacArthur. Ike luôn luôn kính nể vị niên truởng thiên tài quân sự, nhưng nguợc lại, MacArthur tuy khâm phục tài tham mưu của đàn em, nhưng không khỏi khinh khi Ike là một vị tuớng chưa hề có một huy chuơng chiến truờng. Trong đời binh nghiệp, Ike chỉ cầm quân có 6 tháng, rồi nhảy qua ngành tham mưu, nhưng là một sĩ quan tham mưu xuất chúng, nên MacArthur có lần đã ghi trong phiếu cá nhân của Ike: “một sĩ quan tham mưu xuất chúng mà thời chiến tranh sẽ là một vị tuớng giỏi.”

Trong binh nghiệp, một vị tướng có thể thất bại đôi lần, nhưng chỉ cần một trận lừng lẫy thì có thể trở thành bất tử. Tướng MacArthur thất trận ở PLT, nhưng chỉ một trận Inchon (Triều Tiên) như sấm vang đã đưa ông lên hàng Caesar.

Trong bài điều trần truớc luỡng viện Quốc Hội HK, ông kết thúc như sau:
“Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ thơ ấu đã thành tựu. Thế giới đã đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point, và những giấc mộng và uớc mơ đã tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn còn nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất trong doanh trại của thời đó được hát một cách kiêu hùng: “Nguời lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng”. Và giống như nguời lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc đời binh nghiệp và tàn phai, và nguời lính già đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Thuợng Ðế đã soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin chào tạm biệt mọi nguời” (I am closing my fifty two years of military service. When I joined the army before the turn of the century, it was the fulfillement of my boyish hopes and dreams. The world has turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished. But I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly that - Old soldiers never die, they just fade aways. And like the old soldier of that ballad I now close my military career and just fade away, and old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Goodbye!)
Cả luỡng viện Quốc Hội đều đứng dậy vổ tay hoan nghênh, và một số mắt hoen lệ.

Tất cả người lính già đều chết, nhưng sẽ chết trong bóng tối như mọi nguời, chỉ có những nguời lính già vinh với lính, nhục với lính, không bỏ rơi lính, không chạy trước lính, và giữ trọn phuơng châm “Nhiệm Vụ, Danh Dự, Tổ Quốc” như tướng MacArthur mới đuợc gọi là nguời Lính Già Không Bao Giờ Chết. Ðó là lý do tại sao tác giả cuốn sách này đã dùng câu hát Nguời Lính Gìa Không Bao Giờ Chết để gọi tướng Douglas MacArthur.


Gương sáng Dân Chủ : Tunisie, Belgique .
Tiếng Nói của Dân , tiếng nói của Dân Chủ.
Phan Văn Song

Paris 28 tháng giêng 2011. Hôm kia khi viết xong bài thì ở Ai Cập dân chúng xuống đường biểu tình đòi Tổng thống Hosni Moubarack phải từ chức. Effet domino hay effet ketchup. Hiện tượng vết dầu loan, hay hiện tượng ketchup. Chai Ketchup chúc đầu mãi nay đã vọt ra. Cách mạnh Bông Lài đang đơm hoa kết trái. Ở Ai Cập con đường đầy máu cả ngàn người đang bị đàn áp vào tù ; hôm qua 4 người ngã gục, hôm nay lại tám người nữa. Tổng Thống Moubarack ra biện pháp mạnh, tung quân đội vào đàn áp, thiết luật Thiết quân Luật. Chờ xem, Quân đội cũng như ở Tunisie sẽ là cái chìa khóa. Cuộc đọ sức giữa cái Phải Dân Chủ và cái Trái Cường quyền Độc tài.

Vox populi, vox Dei. Ý Dân Ý Trời. Từ thời xa xưa, từ thời những Cộng Hòa La - mã, vào thế kỷ thứ V trước T.C. đã có từ ngữ nầy. « Tiếng nói của Dân, tiếng nói của Trời ».. Trước thời huy hoàng của Đế quốc La – mã, dân Hy - Lạp cũng đã biết tổ chức những thị xã (bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII trước T.C.) thành những đơn vị hành chánh nho nhỏ rồi. Ngay từ thế kỷ thứ V trước T.C. sau khi đã đánh đuổi được đoàn quân xâm lược của đế quốc khổng lồ Ba Tư, Hy Lạp đã bước vào một thời đại huy hoàng, với những nhà hiền triết như Parménide, Empédocle, Leucippe, họ cho ra đời một trường phái mới, với những nguồn tư tưởng mới, tư tưởng Dân chủ đa nguyên, với một một cái nhìn mới, cái nhìn Dân chủ, đa nguyên, cho một thế giới mới, thế giới Dân chủ : thành phố Athène với một chế độ Dân chủ là cái nôi của một nền văn minh mới, với nhiều trường phái tư tưởng chánh trị và trường phái nghệ thuật đầy sáng tạo đa nguyên đa diện.

Sau thời kỳ huy hoàng của Hy Lạp đến thời kỳ của La – mã. Người La – mã là người có đấu óc tổ chức. Những người La-mã đầu tiên thễ hiện dân chủ qua những tổ chức comita ( tạm dịch là hội nghị - assemblée hay comice). Các hội nghị ấy là cái điển hình của một thể chế dân chủ trực tiếp, đây là một cố gắng đại diện cho tất cả những thành phần xã hội hay thành phần sắc tộc có mặt trong thành phố. Thành phần quý tộc trong các hội nghị lập thành một Hội đồng thành phố các bô lão (conseil municipal des anciens). Hôi đồng thành phố các bô lão cuối cùng biến thành Sénat (tạm dịch là Thượng Viện) các Bô lão. Theo truyền thuyết La – mã, Sénat đầu tiên gồm 300 bô lão (patres) của ba sắc tộc đầu tiên có mặt ở La – mã. Đó là 300 vị sénateurs - nghị sĩ đầu tiên của La – mã.

Về sau dân chúng và các bô lão cần một người lãnh đạo chánh trị duy nhứt gọi là rex. Rex do dân bầu, và các bô lão sẽ là những cố vấn tham mưu.

Nếu Dân Chủ Démocratia là của Hy - lạp thì Cộng hòa – République là do từ ngữ « Res publica », tức là « của công »của La – mã . Lãnh đạo, quản trị là coi sóc chăm sóc, làm việc cho của công, cho cộng đồng. Tiêu đề của Cộng hòa La - mã là « Senatus Populusque Romanus » - Pour le Senat et le peuple Romain, cho Thượng Viện và Nhơn dân La – mã. Câu nầy nói lên cái đoàn kết của Thượng Viện La – mã, nơi các đại diện những gia đình quý tộc La - mã và toàn thể các công dân La – mã. Vox Populi Vox Dei.

Như vậy, như chúng ta đã thấy từ ngàn xưa, vai trò người dân đã được đặt lên ngang hàng các quyền chức lãnh đạo. Những nhà chánh trị, những lãnh đạo một đất nước, một lãnh thổ đều cai trị quản trị do dân và vì dân, họ là những nhà đại diện nhơn dân quản trị một lãnh thổ, nhơn danh nhơn dân của lãnh thổ ấy.

Vox populi, Vox Dei. Đó là những thời đại huy hoàng của những thể chế Dân chủ và Cộng hòa.
Thế nhưng nhơn dân có thật sự cai quản là một chuyện khác. Vì quyền hành cuối cùng vẫn do các người đại diện nhơn danh Nhơn Dân.
Nhưng chẳng chốc, vì lòng tham lam, các bô lão, các quý tộc, các thành phần chức sắc hoặc cần một vị lãnh đạo, hay ngược lại có thể có một vị quan chức đầy tham vọng được bầu lên hoặc tự phong lên một chức vụ duy nhứt, chức vụ Rex tức là Vua . Vua - Rex cho một lãnh thổ nhỏ, Đế -Emperator dùng cho ông Vua đã bắt đầu tham lam đi cướp đất người, để chinh phục . Emperator -Empereur - Đế. Dân Tàu thêm mầu Vàng cho xôm tụ Hoàng Đế. (Yellow Emperor). La – mã có tục lệ các Hoàng Đế lên ngôi tại mặt trận, các tướng khoác Long bào cho Hoàng Đế trước ba quân, ( cũng như ở Việt Nam ta có Lê Hoàn được các tướng khoác Long Bào trước ba quân để thành Vua Lê Đại Hành ) . Nhưng khi được làm Vua thì không muốn xuống nữa, và cũng vì vậy, sợ đủ chuyện, sợ bị ám sát, sợ bị hạ bệ do đảo chánh, nên phải mua chuộc để có thêm tay chơn bộ hạ vây cánh. Nếu không mua chuộc được dân, phải làm cho dân sợ, phải khủng bố, phải đàn áp, phải có Công An riêng, lính hầu riêng, khám lớn, khám nhỏ, trại tập trung, trại cải tạo… Ngự Lâm Quân, Mật Vu, Công An ..KGB.. Stasi.

Nhưng không phải tự nhiên thành bạo chúa đâu ? Những người bắt đầu một triều đại bao giờ cũng một minh quân, có tài quản trị ba quân, biết đảo chánh, biết làm cách mạng thay đổi một thời kỳ đen tối thành sáng sủa hơn. Chính thời gian cầm quyền đã biến các minh quân thành bạo chúa. Vì vậy không được cầm quyền lâu. Một thể chế muốn có dân chủ phải biết thay người lãnh đạo. Néron, Caligula trước khi biến thành những bạo chúa là những minh quân. Các Hiến Pháp các quốc gia dân chủ trên thế giới ngày nay đều hạn chế nhiệm kỳ các vị Chủ Tịch Nước, Tổng Thống ..kể cả các Đảng phái, người cầm quyền phải thay đổi, thay thế. Check and Balances, Kiểm soát và Thay thế là nền tảng của Dân chủ.

Trở lại thời La - mã, các tướng lãnh các bô lão và nhơn dân bầu Rex, lên ngôi Rex thì nhơn danh Dân, nhưng khi làm Vua thì phải Trị dân. Vì chức vị do Dân Bầu, quá nguy hiểm ! Dân bầu được thì Dân hạ bệ được. Nếu mua chuộc không đủ, trị dân không xong, thì chức Vua phải do Ý Chúa do Ý Trời, vì vậy phải Thần thánh hóa cái chức vụ Rex ấy, bày đặt nói là do Thiên mệnh, và nếu cần nói hơn nữa, nói Thiên Tử chẳng hạn, và buộc dân xem như ông ông Thần. Chế độ Dân chủ, chế độ Cộng Hòa của những Văn minh La-Hy chẳng chốc biến thành những chế độ Quân chủ Thần quyền của những thời đại đen tối Trung Cổ Âu Châu. Đó là ta nói chuyện bên trời tây, Âu Châu. Á Châu ta thì khỏi nói ? Chiến Quốc, Xuân Thu, Tam Quốc của Tàu ; Sứ quân , Trịnh Nguyễn của Việt nam. Sử ký Á châu có bao giờ nói đến người dân đâu ? Toàn chuyện các quan, các vua hết đánh nhau, nôi chiến để giành đất lẫn nhau, nếu có ngoại xâm đánh đuổi ngoại xâm cũng để giữ đất nước, nhưng khi hết ngoại xâm lại giành đánh giết lẫn nhau. Mỗi lần thay triều đại là mỗi lần làm cỏ sạch triều đại, chế độ cũ. Trần Thủ Độ bắt cháu lấy dì, để đổi máu mũ, giết cả họ nhà Lý trừ hậu hoạn, buộc gia đình nhà họ Trần phải lấy nhau để giữ cho máu mũ không bị lai đi. Thiếu Đức thiếu luân lý như vậy, nhưng lại có công giữ được đất nước mà Nhà Trần được sử ký Việt nam ghi tên nhớ ơn. Chỉ vì trong những quốc nạn biến cố Nhà Trần biết dựa vào dân và được cả toàn dân ủng hộ chống ngoại xâm. Nhà Lý cũng thế chỉ cần có một Tướng tài ba Lý Thường Kiệt với « Nam Quốc Sơn hà Nam Đế cư » khẳng định rõ ràng Không gian sanh tồn của dân tộc Việt là toàn dân Việt đã dám hy sanh đánh quân Tống. Chỉ cần một bài Hịch là Đức Trần Hưng Đạo đã thúc được lòng yêu nước của toàn dân Việt.

Vox Populi Vox Dei. Ý dân Ý Trời.
Ngày nay, thế giới đang tự ru ngủ với những tập tục « tự cho là Dân Chủ ». Ai ai ngày nay cũng biết rằng Dân chủ là cái cần thiết cho một quốc gia, cho một dân tộc. Mọi người từ thường dân đến chánh khách đều nói từ ngữ Dân chủ trong những bài nói bài viết chánh trị. Và mọi người đều quan niệm rằng Dân chủ sẽ đến với Kinh tế Thị trường . Kinh tế thị trường mọi người có cái ăn, có cái mặc và có xài, có sắm, có tiêu thụ, nói tóm lại có Phát triển. Khi có Phát triển, chẳng bao lâu thì Dân chủ sẽ đến. Từ 1848, Karl Marx (Các Mác) cũng đã nói như vậy rồi. Trong Tư Bản Luận, Các – Mác, sau khi nghiên cứu tư bản trung lưu Anh quốc (le capitalisme bourgeois anglais) kết luận rằng kinh tế thị trường sẽ đem lại Dân Chủ . Vì Kinh tế thị trường sẽ tạo ra giai cấp tư sản trung lưu, giai cấp tư sản trung lưu rất cần ổn định, vốn liếng để đầu tư sáng tạo sản xuất. ..vi vậy sẽ cần Dân Chủ.

1/ Trường Hợp Tunisie
Hai Tuần qua ở bên kia bờ Địa Trung Hải, chỉ cần mười ngày biểu tình là đã làm sập một chế độ 23 năm cầm quyền. Chế độ Ben Ali, độc đảng, độc tài, gia đình trị, tham nhũng, công an trị. 23 năm trị vì, bàn tay sắt trong chiếc găng nhung. Chế độ Ben Ali là biểu hiện của cái lý thuyết Các Mác. Tạo kinh tế thị trường, tạo một giới trung lưu tư sản doanh thương, tạo công ăn việc làm cho dân. Sáng tạo, sản xuất, thị trường, củng cố phát triển, xây nhà cao ốc, tạo khách sạn, hôtel, xây biệt thự … Làm giàu, làm giàu … thì dỉ nhiên có dân chủ. Và Tunisie được thế giới xem là nước có phát triển có dân chủ. Bất kể Ben Ali được bầu 5 lần, mỗi lần độc diển, số phiếu gần 100 %, bất kể người ngoại quốc khi đến làm ăn ở Tunisie đều phải đút lót, thông cảm, bôi trơn, biết điều.. Bất kể ai cũng biết là tất cả gia đình Ben Ali và vợ Ben Ali đều cầm tất cả những ngành doanh thương kỷ nghệ ở Tunisie.. Bất kể ở Tunisie không có một tờ báo tư độc lập, không có một đài phát thanh truyền hình độc lập… Bất kể, bất kể. … Không một ai nói đến nhơn quyền ở Tunisie, trái lại, ca tụng : hãy xem, dân Tunisie, có quyền làm ăn, buôn thúng bán bưng,.. Nhưng không ai thấy dân Tunisie không có quyền chủ trích, phê phán…. Hãy đi du lịch. Tunisie đi ! Tunisie đẹp lắm, rẽ lắm, dân Tunisie làm công rất rẽ. Hãy đầu tư ở Tunisie đi ! dân Tunisie khéo tay, lương rẽ. Tunisie ở gần nước Pháp chuyên chở rẽ, vé máy bay, vé tàu rẽ. Dân Tunisie biết tiếng Pháp ; các dịch vu- trả lời qua điện thoại đặt bên Tunisie rất rẽ. Nói tóm lại , thiên hạ mê Tunisie, một chế độ tiên tiến, phụ nữ được giải phóng, giáo dục thoải mái, kinh tế mở cửa, Tunisie là một quốc gia (có một bề ngoài ) phát triển, đang lên, đầy triển vọng cho khu vực Địa Trung Hải. Ngành du lịch mở cửa cho du khách ra vào, rộng rãi. Công dân buôn bán tự do với du khách. Không ai nhìn thấy dân chúng Tunisie đang bị kềm kẹp.

Trong nước không có một tự do ngôn luận ư ? không có một tờ báo đối lập ư ?, không có một đài truyền thông đối lập ư ?, không có một người bất đồng chánh kiến ư ? vì họ đã hoặc ly hương hoặc ở tù. Cũng như các quốc gia chậm tiến đang lên có chỉ số phát triển cao như Việt Nam, như Trung Quốc, như Ai Cập, . . thiếu dân chủ thiếu nhơn quyền, chả sao. Vì các quốc gia chậm tiến ấy có một quan niệm Dân chủ một quan niệm Nhơn quyền khác các người Âu Tây . Và cứ thế giòng sông Phát trìển, giòng sông đầu tư và lợi nhuận lặng lẻ trôi. Những nhà đấu tranh dân chủ ?, những nhà bất đồng chánh kiến ? bị đàn áp, bị đi tù, người Âu tây chúng ta đã có những cơ quan từ thiện và lương tân theo dõi, nào Amnesty International, nào Human Rights Watchers, và chúng ta cũng có một Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa Bình để cứu mạng. Thật đáng hảnh diện cho giải Nobel khi giải Nobel Hòa bình được tặng cho những vị Tổng thống Mỹ cựu hay đương nhiệm như Jimmy Carter và Barack Obama, và cho cả những cựu hay đương nhiệm tù chánh trị như Bà Aung San Sưu Ky và ông Lưu Hiển Ba… Với giải Nobel hòa bình chúng ta có thể đem lại Dân chủ cho Thế giới chậm tiến .

Đang viết đến đây thì tôi nhận được một bài dịch do một bạn đồng môn Yersin gởi cho Việt Thức của bài viết của Ông Jacques Attali đã đăng trên tuần báo Express của Pháp tuần trước. Jacques Attali,cựu đảng viên Đảng Xã hội Pháp từng là cố vấn chánh trị cố Tổng Thống François Mitterand Pháp (1916 – 1996 ), thuộc phái tả, là một tay bình luận gia chánh trị , kinh tế hàng đầu của nhóm trí thứcphái tả Pháp của những năm 1990/ 2000. Vừa qua Ông được Tổng Thống Nicolas Sarkozy giao cho nhiệm vụ thành lập một ban nghiên cứu tình hình kinh tế những năm sắp tới, hậu khủng hoảng kinh tế và tài chánh, và đề nghị những biện pháp cải tổ. Đầu năm 2010, ông đã đệ trình bản báo cáo ấy với những đề nghị táo bạo gây xôn xao một dạo cho dư luận các chuyên gia kinh tế và chánh trị Pháp.

Quý vị có thể tham khảo bài viết trên trên Vietthuc.org.

Lý luận của ông Attali cho là lý thuyết của Các - Mác, ngày nay vẫn đúng. Muốn có Dân chủ phải có Phát triển qua Kinh tế thị trường Nhưng tại sao Tunisie đã qua giai đoạn Kinh tế thị trường, nhưng vẫn không có Dân chủ . Và muốn được Dân Chủ Dân chúng phải xuống đường đi tìm Dân chủ. Và như vậy đừng hòng trông mong Trung Quốc Việt Nam Ai Cập Phi Châu Algérie hay Syrie … một cách tự nhiên, Dân chủ phải do dân tự tìm lấy không ai cho cả. Và cũng không phải do tư bản vào đầu tư phát triển mà Dân chủ đến.

Tất cả những quốc gia chậm tiến kể trên đều phải trải qua một cuộc Cách Mạng để tìm Dân Chủ ! Nhưng không được Cách mạng kiểu Mác xít vì những cuộc Cách Mạng kiểu Mác Xít đều biến thành những Độc tài cả ! Những anh hùng giải phóng nhơn dân ngày xưa, nay đã biến thành những nhà độc tài khác máu với nhơn dân mình : Cuba, Việt Nam, Trung Quốc Bắc Hàn, …Lybie, Syrie, Ai Cập .

Và Attali phân tách để có một cuộc Cách Mạng thật sự Dân chủ. Quốc gia đó, phải hội đủ 5 điều kiện :
1 / Một giai cấp trung lưu tư sản có trí thức và đủ sức mạnh sáng tạo và tổ chức. Điều kiện nầy Việt Nam ngày nay bắt đầu có.

2 / Một quân đội thế tục – dân sự (anh bạn tôi muốn dịch từ laïque , từ laïque ý muốn nói là không dính líu gì đến Tôn giáo,) Tôi không đồng ý quan điểm của Attali, Laïque là ở trường hợp Tunisie, cả quốc gia Tunisie là Laïque, Tunisie cấm không cho các thiếu nữ đội khăn tôn giáo đến những nơi công cộng. Tunisie cấm những đảng phái có mầu sắc tôn giáo. Nhưng một quốc gia như Tàu hay Việt Nam ? Điều kiện nầy không có, Tàu và Việt Nam không phải thế tục, laïque, Tàu và Việt Nam chống Tôn giáo, nhưng Đảng Cộng sản và thuyết Cộng sản là một Tôn giáo, với các linh mục chánh ủy ,các chi bộ Đảng là nhà thờ.. Quân đội phải độc lập. Làm sao Quân đôi làm Cách mạng khi Quân đội bị quân ủy thuộc Đảng Cộng sản nắm mọi quyết định ?.

3 / Một giới trẻ không còn gì để mất. như giới trẻ Việt Nam ?

4 / Sự thiếu vắng một nhà lãnh đạo được lòng dân và có khả năng thu hút quần chúng. Người lãnh đạo phải được phát từ dân. Đã qua rồi cái thời các lãnh đạo …bao năm lê chơn tìm đường cứu quốc, đã qua rồi cái thời các lý thuyết nhập cảnh từ phương xa, Cộng sản, hay Nhơn Vị, đã qua rồi cái thời đi tìm triết lý cuộc sống, từ người nước ngoài Khổng tử hay Jésus, và cũng đã qua rồi cái thời phải đi tìm đàn anh đở đầu, Tàu, Nga, Tây hay Mỹ. Người Việt Nam hãy lớn lên, hãy tự tin, hãy trưởng thành để lo đến cái thân mình.

5 / Một môi trường thuận lợi. Môi trường Việt Nam hôm nay thuận lợi rất thuận lợi ; Chưa bao giờ Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền yếu như thế nầy. Dân chúng Việt Nam hết mê hết sợ, phỉ nhổ ngạo báng, động một chút là xuống đường, phản đối không bằng lòng. Chưa bao giờ bạn bè ngoại quốc nó khinh như thế nầy. Thụy Điển người bạn muôn đời, người bạn từ những thời chống Mỹ cứu nước, nay đã hết kiên nhẫn , vì tham nhũng, vì gian manh, đã đóng cửa Tòa Đại sứ hổng thèm chơi với thằng bạn du côn nữa. Và Nhựt bổn, người bạn Nhựt bổn bao nhiêu năm chịu đựng nay, cũng bỏ.

Ngày hôm nay, khi tôi viết những giòng nầy. Dân chúng Tunisie vẫn tiếp tục xuống đường biểu tình. Nhưng trong ôn hòa, không xô xát, hổn loạn, nhưng vẫn cương quyết. Họ đòi gi ? Họ đòi phải có một chánh phủ đàng hoàng và tử tế, biết tôn trọng dân và lẽ phải, công bằng, dân chủ, và sạch sẻ nghĩa là không xử dụng lại những viên chức cũ lem nhem, có dính líu với thời Ben Ali. Dẹp bỏ tất cả cựu viên chức của Đảng cầm quyền cũ. Bất kể Tunisie không có người giỏi , bất kể không có chuyên viên… Nhưng nhơn dân Tunisie vẫn tin tưởng rằng, sau cuộc Cách mạng, với tin thần với lòng yêu nước, với đạo đức Tunisie vẫn vượt qua mọi trở ngaị.

2/ Trường hợp Belgique –Vương quốc Bỉ
Như chúng ta cũng đã biết Vương quốc Bỉ gồm có hai phần khu vực với hai ngôn ngữ khác nhau với những tập tục khác nhau. Một vùng gần biên giới Pháp, gọi là Wallonie, nói ngôn ngữ Pháp, tập tục sanh hoạt giống người pháp. Và một vùng phía Bắc thủ phủ Bruxelles, nói tiếng Hoà lan, flamand tập tục và sanh hoạt giống người Hòa lan. Cả hai ngôn ngữ nầy đều là hai quốc ngữ của Vương quốc Bỉ . Các công chức Bỉ bắt buộc phải nói cả hai quốc ngữ. Anh bạn nhà báo truyền hình Đỗ Hiếu của Đài RFA, dân Bruxelles thứ thiệt từng là công chức Bỉ biết nói cả hai quốc ngữ Bỉ !
Vương quốc Bỉ không có chánh phủ từ hơn 10 tháng nay. Lý do, các nhà chánh trị Flamands, muốn ly khai thành lập một nước Bỉ hoàn toàn của dân Bỉ gốc Flamands, không bằng lòng có dân Bỉ gốc Wallons trong nhà nước, trong các nội các, trong cả các quyết định chánh trị ; viện cớ rằng Wallonie nghèo, dân Wallon không xứng đáng vi không có phát triển không có một nền kinh tế cao, và Flandres ngày nay phải nuôi sống Wallonie. Cũng như dân miền Nam Việt Nam Sàigon và đồng bằng sông Cửu Long đòi bỏ miền Bắc và Hà nội nghèo nàn, không có sanh hoạt kinh tế chỉ đề Sài gòn nuôi mấy năm nay.

Từ mười tháng nay, Vương quốc Bỉ đang bị khủng hoảng chánh phủ không thành lập được, do các nhà chánh trị và các Đảng phái cầm quyền hay đối lập cãi cọ nhau.

Tuần qua dân chúng Bỉ xuống đường biểu tình ? đòi các nhà chánh trị phải giải quyết , phải có nội các, phải có thủ tướng điều hành. Vox Populi , vox Dei. Nhà vua hứa sẽ giải quyết mọi mâu thuẩn để mau lẹ có một nhà nước điều hành.
Hai trường hợp người dân đã đúng lên, quyết định vận mạng đất nước mình.

Và Việt Nam ?

Hãy nhìn vào Tunisie, 23 năm độc tài, cũng dùi cui, cũng lựu đạn cay, cũng đàn áp, bỏ tù. Hôm nay, Công An đã xin lỗi dân, Quân đội, (dám từ chối không bắn vào dân), ngày nay đứng ra bảo đảm với người dân là chăm sóc để giữ Dân chủ trong tất cả những chuyển tiếp, trong tất cả mọi quyết định để thành lập một nội các tạm thời, trong cuộc bầu cử tương lai.
Tunisie đã trưởng thành, dân chúng Tunisie hết mê hết sợ đã dám đứng lên giành quyền tự chủ vận mạng đất nước mình.

Cách mạng Bông Lài đã thành công
Chừng nào cách mạng Bông sen ? Thời cơ đã đến. Nước đã mất đất , Nước đã mất biển, Nước sẽ mất Dân.
Nếu Dân Việt Nam không đứng lên giữ nước
Dân Việt Nam sẽ mất luôn tiếng nói, sẽ mất luôn quốc ngữ.
Còn chần chờ gì nữa ?.
Hồi Nhơn Sơn 25 tháng giêng 2011
Phan Văn Song .

Saturday, January 29, 2011


GÓI QUÀ ĐẦU NĂM

phạmtínanninh

Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.

Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im vắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.

Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.

Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò trường trung học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đối bình yên, nhờ Sư đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn.
Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.

Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới đồn trú ở đây để thay thế lực lượng đồng minh.

- Tội nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.
Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi sẽ được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.
* * *

- Nam mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không?
Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.

- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không? Xin mời bà.

Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.
- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.
- Mô Phật! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.

Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.

Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm:
- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà.

Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường trong khu người Thượng, bị bắt năm 1979 vì bị kết tội hợp tác với lực lượng Fulro chống lại nhà cầm quyền Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.

Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp. Và lần này anh đã được tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.

- Mô Phật! Tội nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.

Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.

- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.

- Mô Phật! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.
Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng:
- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám.
Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên
- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế?
Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.
- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi?
- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư đoàn 23 Bộ binh, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972?
- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72. Bà có biết không?

Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẵn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.

- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu.
Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.
- Vậy là Xuân? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này!

Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.

Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.
Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười:
- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới.
Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn:

-Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn? Mà sao hai anh biết được tên em.
Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng:
- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế. Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!

Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà?
Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng:
- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!

Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:

- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.
Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.
Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn:
- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe.
Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười:
- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không?
Cả lớp vỗ tay.
Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê-rê:
- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi. Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.

Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi:

- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!
Đúng là nhất quỉ nhì ma, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục:
- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn.

Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.
Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.
Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm giao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis...
Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.
Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.

- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.
- Mô Phật! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.
- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.
- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.
- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?
- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.
- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy?
- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà.

Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè năm đó. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.

Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyện cho anh được bình yên trở về.
Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát…

Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích… Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học được chính quyền dùng làm trại tiếp cư.

Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.

Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.

Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa... Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu.

Xuân ơi,
Anh đang ở phi trường Pleiku để chuẩn bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quốc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em…
Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.
Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.
Hôn em.
Đỗ Lân.

Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.
- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống Nha Trang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.
- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.
- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu.
- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc, chỉ vì một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính đồng bào mình. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai và được điều gì? Gia đình, cha mẹ hay vợ con họ ra sao? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.
Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa:
- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.
Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyệt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.
Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mộ bia:
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế
Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum

Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.

Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ: Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích. Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà. Nam mô A Di Đà Phật.

Tuesday, January 25, 2011




KỲ PHÙNG ĐỊCH THỦ :
TRỜI ĐÃ SINH EVERETT SAO CÒN SINH LINCOLN

Bài thật hay, mời bạn đọc để suy ngẫm vào những ngày cuối năm....
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Cùng các thầy cô, các bạn bè thân hữu,
Trong một email trước đây, Huê tôi đã đưa ra tiết mục Kỳ Phùng Địch Thủ 1 giới thiệu hai nhân vật đồng (nửa) cân ngang (tám) lượng là Chu Du và Gia Cát Lượng. Hôm nay cũng ở tiết mục đó nhưng không gian, thời gian đã chuyển đến thế kỷ thứ 19 ở xã hội Hoa Kỳ trong cuộc nội chiến nam bắc. Hai nhân vật chánh trong chuyện này là cựu Thượng nghị sĩ Edward Everett và Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ Abraham Lincoln. Hai đối thủ trong câu chuyện này đã không so tài trong những trận tuyến sống chết quyết liệt như trường hợp của Chu Du và Khổng Minh, tuy nhiên người ngoài cuộc có thể thấy rõ sự thắng bại. Khác với kết quả của câu chuyện trước là có mấy gallon máu của Chu Du để nhuộm đỏ lá cờ Đông Phương, câu chuyện Tây Phương có một kết quả hòa bình êm thắm hơn, người ở thế thượng phong không lộ vẽ kiêu căng và người ở vị trí lu mờ cũng chẳng cảm thấy xấu hổ thua sút (tôi không dùng chữ “thắng”, “thua” trong bài viết nầy). Tuy nhiên kết quả của câu chuyện đã để lại cho đời một bài diễn văn bất hủ xứng đáng được gọi là một tuyệt tác văn chương của một vị tổng thống ít học nhất trong lịch sử nước Hoa Kỳ.
(nguồn từ website
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Presidents_of_the_United_States_by_education)

1. Diễn tiến của câu chuyện:

Năm 1863, một trận chiến khủng khiếp bùng nổ ở địa điểm Gettysburg trong ba ngày từ 1 tháng 7 đến 3 tháng 7 đã vĩnh viễn thay đổi bộ mặt thị trấn thôn dã nhỏ bé này. Bãi chiến trường rộng lớn ngổn ngang thi thể của hơn 7.500 binh sĩ tử trận và mấy ngàn xác ngựa của Binh đoàn Potomac thuộc Liên bang miền Bắc (Union) cũng như Binh đoàn Bắc Virginia của Liên minh miền Nam (Confederacy). Tử khí bốc lên từ hàng ngàn thi thể đang thối rữa của binh sĩ, chiến đấu từ hai bên chiến tuyến nhưng cùng nằm xuống trên một trận địa làm cư dân thị trấn mắc bệnh nghiêm trọng, và việc chôn cất tử tế những người lính trận vong trở nên ưu tiên hàng đầu đối với cư dân Gettysburg. Theo sự hướng dẫn của David Wills, một luật sư giàu có 32 tuổi, tiểu bang Pennsylvania ứng tiền mua một khu đất rộng 17 mẫu Anh (69.000 m2) để xây dựng một nghĩa trang nhằm tôn vinh những người lính thiệt mạng trong trận đánh mùa hè năm ấy.

Lúc đầu, Wills dự định tổ chức lễ cung hiến nghĩa trang vào thứ Tư ngày 12 tháng 9 và mời Edward Everett, một người đã từng là Ngoại trưởng, Thượng nghị sĩ, Dân biểu Hoa Kỳ, Thống đốc tiểu bang Massachusetts và Viện trưởng Đại học đường Harvard làm diễn giả chính. Vào lúc ấy, Everett được xem là nhà hùng biện tài danh nhất. Trong lời phúc đáp, Everett cho biết ông không thể chuẩn bị cho bài diễn văn trong một thời gian ngắn như thế nên ông xin đề nghị dời ngày lễ, ban tổ chức đồng ý và ấn định ngày lễ sẽ được cử hành vào thứ Năm ngày 19 tháng 11.

Sau đó, Wills và ban tổ chức mới nghĩ đến việc mời tổng thống Abraham Lincoln cùng đến tham dự buổi lễ, trong bức thư mời, Wills đã viết: “Chúng tôi mong ước sau phần diễn thuyết của cựu TNS Everett thì tổng thống, với tư cách là người đứng đầu ngành hành pháp của quốc gia, sẽ chính thức công nhận khu đất này cho mục đích thiêng liêng bằng vài lời cung hiến”. Vai trò của Lincoln trong buổi lễ là không quan trọng, chỉ tương tự như tập quán mời một nhân vật nổi tiếng đến cắt băng khánh thành khai trương mà thôi.

Ngày 18 tháng 11 Tổng Thống Lincoln đến Gettysburg bằng xe lửa, nghĩ qua đêm tại nhà của Wills ở quãng trường thị trấn, tại đây ông hoàn tất bài diễn văn đã viết dang dở từ Washington (cũng có các giai thoại khác cho rằng tổng thống Lincoln đã hoàn tất bài diễn văn đơn giản của ông trên tuyến tàu lửa và viết nó trên bì thư). Vào lúc 9:30 sáng ngày 19 tháng 11, tổng thống Lincoln gia nhập cuộc diễu hành với các nhân vật quan trọng trong chánh quyền, hầu hết cư dân của thị trấn và các góa phụ tử sĩ rồi họ cùng đi đến khu đất sẽ được cung hiến.

Ước tính có xấp xỉ 15.000 người đến tham dự buổi lễ, trong đó có các thống đốc đương nhiệm của 6 trong số 24 tiểu bang thuộc Liên bang: Andrew Gregg Curtin, tiểu bang Pennsylvania; Augustus Bradford, tiểu bang Maryland; Oliver P. Morton, tiểu bang Indiana; Horatio Seymour, tiểu bang New York; Joel Parker, tiểu bang New Jersey, và David Tod, tiểu bang Ohio.

Sau những nghi thức khai mạc, nhân vật chánh Edward Everett đứng lên phát biểu trước. Vào thời điểm của 150 năm trước, con người chưa phát minh ra điện, chưa có microphones, chưa có amplifiers và chưa có speakers, những cuộc nói chuyện trước công chúng phải dựa phần lớn vào người diễn giả có một giọng nói thật rõ ràng, trong trẻo và vang dội; khán giả bên dưới khán đài phải giữ im lặng gần như tuyệt đối để lắng nghe từng tiếng từng chữ phát ra từ diễn giả. Everett với nhiều năm kinh nghiệm trong công tác cộng đồng đã biến ông trở thành một nhà hùng biện nhất trên đất nước Hoa Kỳ. Với một giọng nói vang dội, ông có thể nói không ngừng trong suốt nhiều tiếng đồng hồ khiến người nghe quên bẵng luôn cả thời gian. Cái hay của Everett ở chỗ là sau khi soạn thảo xong bài diễn văn thì ông đã nhớ nằm lòng từng chi tiết một, ông không bao giờ cầm đến những trang giấy mà vẫn có thể thao thao bất tuyệt. Một tuần lễ trước đó, Everett đã đắm chìm nhiều giờ trong những báo cáo của trận chiến, ông đã thấm nhuần từng chi tiết nhỏ của trận đánh ba ngày để có thể từng câu từng chữ diễn dịch cho khán giả của ông mường tượng được sự kinh hoàng của trận chiến. Everett trong bài nói chuyện đã đóng vai một sứ giả khuấy động sự xúc động của mọi người. Trong bài diễn văn hai tiếng đồng hồ, ông đã thành công tường thuật trận chiến và nêu đích danh kẻ thù đã gây ra tội ác này. Nhiều người trong đám đông đã sụt sùi rơi lệ. Sử gia sau này đã đánh giá và cho rằng Everett đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ trong bài diễn văn gần như hay nhất trong thời chiến của ông.

Chấm dứt xong bài diễn văn, Everett ngồi xuống ̣để nhường lời lại cho Tổng Thống. Với giọng nói chậm rãi nhưng bình tĩnh, Abraham Lincoln chỉ dùng đúng 2 phút đồng hồ là làm xong nhiệm vụ đọc bài diễn từ. Bài diễn văn chỉ cô đọng lại có 10 câu (sentence) và bao gồm 285 chữ nhưng đã gói ghém lại tất cả những gì cần phải nói. Mười lăm ngàn khán giả bên dưới khán đài vừa nghe xong lời tường thuật suốt hai tiếng đồng hồ của cựu TNS Everett về một trận chiến kinh hoàng nhất thế kỷ lại tiếp tục say mê uống lấy từng chữ từng câu của bài diễn văn ngắn nhưng súc tích từ tổng thống Abraham Lincoln. Sau khi dứt lời, tổng thống Lincoln ngồi xuống và ngay lập tức tiếp nhận một tràng pháo tay gần như không bao giờ chấm dứt của quần chúng. Bài phát biểu 2 phút của ông đã trở thành một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất trong lịch sử đất nước Hoa Kỳ, hay còn được gọi tắt là Gettysburg's address.

2. Kết quả trận đấu.
Ngày hôm sau, diễn giả Edward Everett tức thì viết một bức thư ngắn gửi đến cho Tổng Thống Lincoln đánh giá cao tính ngắn gọn của bài phát biểu của Lincoln như sau: "Tôi rất vui nếu như tôi có thể tự đề cao mình rằng tôi đã đạt đến gần ý tưởng chính của lễ kỷ niệm trong vòng hai giờ, như là ông đã làm được việc ấy trong hai phút" (I should be glad, if I could flatter myself that I came as near to the central idea of the occasion, in two hours, as you did in two minutes)
Lincoln cũng đã đáp lời bằng một bức thư lễ độ như sau: “Trên cương vị của chúng ta ngày hôm qua, ông không thể đọc một bài diễn văn ngắn ngủi cũng như tôi thì không thể tiếp theo bằng một lời tóm lược quá dài. Tôi rất vui mừng được ngài đánh giá rằng diễn văn của tôi đã không làm hỏng một buổi lễ cung hiến quan trọng” (In our respective parts yesterday, you could not have been excused to make a short address, nor I a long one. I am pleased to know that, in your judgment, the little that I did say was not entirely a failure).

Bài diễn văn nổi tiếng chỉ vỏn vẹn trong 285 chữ, với nội dung như sau:

87 năm trước đây, trên lục địa này, ông cha ta đã khai sinh ra một quốc gia mới - một quốc gia được sinh ra trong tự do, và họ đã đề xướng một bản tuyên ngôn rằng “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng”.

Giờ đây chúng ta đang bi lôi cuốn vào một cuộc nội chiến lớn lao để thử thách xem dân tộc ta hay bất cứ quốc gia nào khác được sinh ra còn có thể tồn tại lâu dài hay không. Chúng ta đã đụng độ nhau trên chiến trường rộng lớn của trận chiến. Giờ đây, chúng ta cống hiến một phần đất của chiến trường này để làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã hiến dâng mạng sống của họ để tổ quốc của ta được tồn tại. Việc làm này hoàn toàn phù hợp, đúng đắn và chúng ta phải nên làm như vậy.

Nhưng trong một ý nghĩa rộng lớn, chúng ta không thể cống hiến, chúng ta không thể hiến dâng, và chúng ta không thể thần thánh hoá mảnh đất này. Chính những con người dũng cảm, còn sống hay đã khuất, những người đã chiến đấu tại nơi đây đã làm điều mà những con người yếu đuối như chúng ta không thể làm gì thêm hơn nữa... Thế giới có thể sẽ không quan tâm và có thể cũng chẳng nhớ những điều chúng ta đang nói tại nơi đây, nhưng thế giới không thể nào quên những gì mà những con người dũng cảm đó đã làm tại đây. Đấy là cho chúng ta, những người còn sống, cần cống hiến mình cho chính nghĩa vẫn chưa hoàn tất, mà những người từng chiến đấu ở đây đã cống hiến đời mình để sự thành công của chính nghĩa ấy mau được hoàn tất.

Đấy là cho chúng ta, những người hiện diện tại nơi này tiếp nhận trọng trách đang đặt trước mặt chúng ta. – chúng ta tiếp nhận từ những người đã khuất hiện đang được vinh danh lòng tận tuỵ với chính nghĩa mà họ đã cống hiến bằng chính sinh mạng của họ – ngay tại đây, chúng ta quyết tâm không để họ chết vô ích – đất nước này, dưới sự che chở của Thiên Chúa, sẽ nẩy sinh một nền tự do mới – và chính quyền này của dân, do dân, vì dân sẽ không tàn lụi khỏi mặt đất.

Four score and seven years ago our fathers brought forth on this continent, a new nation, conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal.
Now we are engaged in a great civil war, testing whether that nation, or any nation so conceived and so dedicated, can long endure. We are met on a great battle-field of that war. We have come to dedicate a portion of that field, as a final resting place for those who here gave their lives that that nation might live. It is altogether fitting and proper that we should do this.
But, in a larger sense, we can not dedicate -- we can not consecrate -- we can not hallow -- this ground. The brave men, living and dead, who struggled here, have consecrated it, far above our poor power to add or detract. The world will little note, nor long remember what we say here, but it can never forget what they did here. It is for us the living, rather, to be dedicated here to the unfinished work which they who fought here have thus far so nobly advanced. It is rather for us to be here dedicated to the great task remaining before us -- that from these honored dead we take increased devotion to that cause for which they gave the last full measure of devotion -- that we here highly resolve that these dead shall not have died in vain -- that this nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth."

3 Ảnh hưởng của sự việc.
Cuộc so tài của Everett và Lincoln chỉ ngấm ngầm mà không lộ liểu, nó không có kết quả thắng thua rõ rệt như một trận chiến hay một trận túc cầu với cúp vàng về cho người thắng cuộc. Tuy nhiên khán giả tham dự ngày lễ khánh thành nghĩa trang Gettysburg cũng như hậu thế đã nhìn thấy ngay sự "thắng bại" trong cuộc thi đấu này. Bài phát biểu của Tổng Thống Abraham Lincoln đã đi vào lịch sử và mãi mãi được khắc ghi vào trong ký ức của mọi người. Không những thế, nó đã được dùng làm bài học thuộc lòng cho trẻ em ở bậc tiểu học của toàn quốc và đối với những người lần giỡ lại những trang sử cũ, họ đều phải công nhận đó là những ý nghĩa chân chính hay còn là chân lý của cuộc chiến tranh bảo vệ tự do.
Những người sống trong xã hội miền bắc nước Mỹ trong thời gian cuộc nội chiến nam bắc đều biết đến tên tuổi của Edward Everett. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là một thần đồng, tốt nghiệp đại học Harvard ở năm 17 tuổi, ông đã có sự nghiệp thành công ở cả ba lãnh vực, giáo dục, tôn giáo và quốc hội. Ông đã phục vụ năm nhiệm kỳ dân biểu, bốn nhiệm kỳ thống đốc tiểu bang Massachusetts, bốn năm làm đại sứ HK tại Luân Đôn, từng giữ chức vụ ngoại trưởng HK vào thời tổng thống Millard Fillmore, đảm nhiệm một nhiệm kỳ Thượng Nghị Sĩ 6 năm và cũng đã làm qua viện trưởng đại học đường Harvard. Ngược lại, thành tích của Tổng Thống Abraham Lincoln thì không đáng kể, là một người ít học nhất trong số những tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử, cọng chung lại thì thời gian Lincoln cắp sách đến trường còn chưa tới một năm. Về thành tích thì hình như cũng chỉ có một mình Abe. Lincoln chưa từng ngồi lên ghế thống đốc tiểu bang hoặc nghị viên của Thượng Nghị Viện. Ông chỉ làm dân biểu liên bang có một nhiệm kỳ. Nói cho đúng thì thành tích của Abe. Lincoln không thể nào so bì ngang hàng với học giả Ed. Everett, thế nhưng bài nói chuyện hai phút đồng hồ, 285 chữ, 10 câu nói của ông đã đánh đỗ cả một gánh học vấn của ngài cựu TNS trong trận so tài này.
Ngày nay, hình như rất ít người trên đất nước Hoa Kỳ (họa hoằng chỉ có những nhà sử học uyên bác) đọc qua, biết quá bài diễn văn thành công của Edward Everett, nhưng khi nhắc tới “Gettysburg address” thì ai ai cũng đều biết đến tên tuổi của Abraham Lincoln, các trẻ em tiểu học có thể thuộc lòng vanh vách từng câu từng chữ của bài nói chuyện này và có thể cũng vì vậy mà Tổng Thống Lincoln được những sử gia bình chọn là một trong bốn vị tổng thống vĩ đại nhất của đất nước Hoa Kỳ.
Chúng ta phải công nhận rằng cuộc nội chiến nam bắc tại Hoa Kỳ vào thập niên 1860 với bốn năm chiến tranh, hàng trăm ngàn nhân mạng hy sinh là một trong những cuộc chiến thảm khốc nhất trên thế giới. Thế nhưng cũng chính tại cuộc chiến này, mỗi một con người, bất kể là miền nam hay phương bắc, khi thân xác của họ hy sinh nằm xuống họ đều được tổ quốc vinh danh, đều được đối xử bình đẳng như một người yêu nước hy sinh vì lý tưởng (bất kể Cộng Hòa hay Liên Hiệp). Cũng chỉ có tại quốc gia nầy vết thương chiến tranh được hàn gắn nhanh nhất và tiếp theo đó là một sự phát triển kinh tế vượt bực để đưa quốc gia nầy tiến lên đến hàng cường quốc trên thế giới.

Trong khi đó ở những cuộc nội chiến khác trên thế giới, từ Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc, Hàn Quốc, VietNam, Nam Tư thì những "anh em" trong cùng một nước, ngay cả trong cùng một gia đình nhưng khác ý thức hệ thì lúc nào họ cũng hằn học, cay cú, ăn tươi nuốt sống. Những con người đối xử với nhau không hơn một con vật. Ngay đến khi đối thủ của mình đã nằm xuống mà họ vẫn không chịu buông tha. So với tinh thần rộng rãi của người Mỹ thì những dân tộc kia cần phải mở rộng tấm lòng của họ thì mới đủ sức để ôm ấp và bao dung thế giới này.

Đây là Phạm Huê
Nguồn từ những websites:
http://massmoments.org/moment.cfm?mid=333
http://vi.wikipedia.org/wiki/Di%E1%BB%85n_v%C4%83n_Gettysburg

Monday, January 24, 2011

Lại một chuyện tình ướt át của
một chàng pilot Không quân VNCH...

Nghỉ hè ở Mallorca
Phạm Tín An Ninh: Sinh ra và lớn lên tại Khánh Hòa, Tuổi Quý Mùi. Mất mẹ lúc 3 tuổi, nên sống với ông bà nội. Lúc nhỏ, theo học tại trường Trung học Văn Hóa và Võ Tánh Nha Trang. Nhập ngũ: Khóa 18 SQ Trừ Bị Thủ Đức. Phục vụ tại Sư Đoàn 23 BB. Sau tháng 4/75: Đi tù tại các trại tù Nam và Bắc Việt Nam.(Thân sinh cũng bị đi tù và chết trong tù cải tạo vào tháng 6/1976). Vượt biên, định cư tại Vương Quốc Na-Uy từ năm 1984. Đi học và làm việc trong ngành Ngân Hàng Bưu Điện. Về hưu từ đầu năm 2008. Tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường (2008), Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân (sẽ xuất bản)

1-
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.


Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.

Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.
Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.

Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.
Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.

Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?
- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:
- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.

Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.

2-
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:
- Anh còn nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
- Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:
- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam. Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.
Bà xã tôi hỏi:
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.
Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được...“

Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:
“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“

Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.
Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:

“Anh Chị ơi.
Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.

Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.

- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“

3-
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.
Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:
...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.

Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa.
Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...
Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.

Phạm Tín An Ninh
Trờ về đầu trang