Wednesday, September 30, 2009


Người Viết Mướn
Tiểu Tử

Ở chợ Plateau thành phố Abidjan (thủ đô cũ của xứ Côte d Ivoire, Phi Châu) ai cũng biết ông già viết mướn đó। Người ta gọi ông là " l'écrivain chinois" (ông Tàu viết mướn).

Xứ Côte d Ivoire - thuộc vùng Phi Châu Da Đen - ngày xưa là thuộc địa của Pháp। Dân bản xứ đi học bằng tiếng Pháp. Và vì họ gồm nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc nói một thổ ngữ, nên họ phải dùng tiếng Pháp để hiểu nhaụ Về sau, khi đã độc lập rồi, trường vẫn dạy bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ chánh trong dân gian vẫn là tiếng Pháp. Những người ít học hay thất học thì nói "tiếng bồi", nghĩa là tiếng Pháp không đúng văn phạm. Mấy bà buôn bán ở chợ Plateau nói trên thuộc vào thành phần nàỵ Nhiều bà có con cái "đi làm ăn" ở Pháp hay ở Bỉ, lâu lâu cần xin gì hay cần nhắn gì, họ phải nhờ người khác viết cho cái thơ.

Ngoài ra, có nhiều người cần viết đơn từ thưa gởi nhưng không đủ trình độ để viết đúng từ ngữ hành chánh nên nhờ viết dùm.
Do đó mới có cái nghề viết mướn।

Ở khu chợ Plateau, trước đây, chỉ có một người đàn ông trung niên người bản xứ làm nghề này। Anh ta hành nghề dưới hàng hiên khu phố nhìn qua chợ, nằm cách chợ một con đường. Chỗ hắn ngồi là một bức tường nhỏ nằm giữa hai cửa hàng bán radio của người libanais.

"Dụng cụ" của anh ta là cái máy đánh chữ loại xách tay đặt trên bàn gỗ nhỏ। Anh ta ngồi trên ghế thấp vừa tầm với cái bàn, nhưng vì anh ta lớn con chân dài nên khi đánh máy anh ta phải cho hết hai chân xuống dưới bàn đưa thẳng về phía trước lòi ra một khúc, trông giống như anh ta ôm cái bàn vào lòng ! Còn "khách hàng" thì hoặc đứng hoặc ngồi xổm cạnh hai bàn chân to xù mang dép Nhựt của hắn, tỉ tê kể những gì mà họ muốn để trong thư. Anh ta gõ máy bằng hai ngón tay nhưng gõ khá nhanh, khách kể đến đâu hắn gõ theo đến đấy.

Đánh xong thơ, khách hàng đưa cho hắn mảnh giấy nhỏ trong đó có ghi rõ địa chỉ của người nhận thơ, hắn lấy trong ba lô để dưới chỗ hắn ngồi một phong bì có dán tem sẵn, đánh máy địa chỉ, cho thơ vào rồi le lưỡi liếm keo dán lạị. Người khách hàng chỉ còn có cho thơ vào thùng thơ đứng ở góc đường gần đó.
Dĩ nhiên, khi hắn tính tiền, hắn tính cả tiền giấy, phong bì, tem…

Thơ gởi đi Pháp hay đi Bỉ đều cùng một giá। Cho nên đã thành lệ, sau vài câu chào hỏi, khách hàng cứ đặt tiền trước lên bàn rồi đợi hắn sửa bộ kéo bàn vào lòng với cái máy đánh chữ lúc nào cũng " ngậm " sẵn một tờ giấy, là bắt đầu tỉ tê kể lể…

Còn đơn từ thì hắn dùng phong bì không có tem, bởi vì khách hàng mang tay đến nộp thẳng cho cơ quan liên hệ। Loại "đơn từ" này, hắn vẫn lấy bằng giá với "thơ nhà", bởi vì, theo hắn giải thích, viết cho hành chánh khó gấp mấy lần viết cho thân nhân. Bớt con tem nhưng thêm nhiều công suy nghĩ !

Một hôm, có ông già Á Đông – ốm nhom, già khú – đi lang thang với điếu thuốc trên môi, ngang qua đó nghe tiếng đánh máy lọc cọc nên tò mò đứng lại nhìn। Đợi anh đen làm xong công việc, ông già mới chào hỏi làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy rành rọt, không giống những người á đông mà anh đã từng gặp hay quen biết. Ông già ghé đít ngồi lên bệ thềm gần đó, hỏi:- Ông làm nghề gì vậy?

Anh đen nhăn răng cười :

- Viết thơ dùm người ta, người ta trả tiền। Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong bì đi sao?- Thấy. Nhưng mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng thổ ngữ nên tôi không hiểu.

Ngừng một chút, ông già lại hỏi:- Làm ăn có khá không?
- Ố! Cũng tạm được।

Hắn chỉ qua bên chợ :- Khách hàng của tôi là mấy bà buôn bán ở bên kia। Họ không biết chữ, mà con cái họ thì đi làm công bên Pháp bên Bỉ hết. Thành ra, ngày nào cũng viết dùm vài cái thơ, lai rai… Với lại ở xứ này, người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm nên có công việc làm hoài!

Rồi hắn nhìn ông già từ đầu đến chân:
- Còn ông ? Ông làm nghề gì ở đây ?
- Già quá đâu có ai mướn। Ở không, đi lang thang.

Anh đen lại nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp:
- Rồi lấy gì sống ?

- Sống nhờ con। Con gái ở nhà làm nem। Thằng em nó đạp xe đi bán। Khá chật vật!
- Ông người Tàu hả ?
- Không। Tôi người Việt Nam।
Nói xong, ông già thở dài। Tội nghiệp cho cái xứ Việt Nam của ông ! Nhược tiểu đến mức độ mà người dân khi ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi là người Tàu !

Ông già đưa bao thuốc lá mời anh đen :
- Hút một điếu chơị- Cám ơn. Tôi không biết hút thuốc.
Ngừng một chút, anh ta hỏi :
- Nhà ông ở đâu?- Ở tuốt trên Cocody, gần nhà thờ।- Xa quá há. Rồi ông đi bằng gì xuống đây? Xe buýt hả?- Đi bằng xe đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp về leo dốc mới mệt !

Anh đen lại nhìn ông già một lúc, mới nói :
- Ông nói tiếng Pháp rành quá mà không đi làm việc cũng uổng।- Già như tôi thì còn làm được gì ?
- Tuổi tác ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới cần chớ !
Ông già hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ। Một lúc sau ông hắng giọng rồi hỏi :- Ông thấy tôi làm cái nghề viết mướn được không ?

Anh đen nhăn răng cười hớn hở:
- Được chớ! Được chớ!

Rồi đề nghị:- Ông cứ ngồi kế bên đây ! Đừng ngại gì hết! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi làm nghề này। Có thêm ông càng vui.

Thấy dễ dàng quá, ông già đứng ngẩn ra, chưa kịp nói lời nào thì anh ta nói tiếp:- Vậy, sáng mai ông đem máy đánh chữ ra nghen।- Tôi không có máy đánh chữ. Tôi viết tay được không ?

Giọng anh đen hơi xìu xuống :
- Ồ… cũng không sao। Cứ ra đây đi, rồi tính.

Ông già mừng rỡ, bắt tay anh đen, nói "Cám ơn ! Cám ơn ! Ông tốt bụng quá!", rồi đi xăng xớm về chỗ để xe đạp trước ngân hàng gần đó, mở khoá lấy xe phóng lên đạp đi mà nghe như vừa được bơm vào người thêm nhiều sinh lực!

Mấy hôm sau, ông già xin được của hội nhà thờ một cái bàn và ba cái ghế bằng nhôm loại xếp được để đi pique-nique। Ông mua một mớ giấy viết thư, phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh đen, hành nghề viết mướn. Buổi sáng đó, trước khi rời nhà, ông lẩm bẩm:"Bữa nay đúng là một ngày đẹp trời!"…

Ông già ngồi đã ba hôm, chẳng có một ai đến nhờ viết" Khách hàng " cứ nhờ anh đen। Thấy vậy, anh ta an ủi:- Đừng buồn. Từ từ rồi sẽ có khách. Tại ông không có máy đánh chữ nên người ta không biết đó thôi.

Một hôm, có hai bà cùng đến một lúc. Anh đen tiếp một bà rồi nói với bà kia :- Nếu bà gấp thì bước qua ông đồng nghiệp của tôi đây, ổng giúp cho. Ổनग viết tay, nhưng cần gì ! Viết tay hay đánh máy cũng vậy thôi ! Điều cần thiết là viết làm sao cho người đọc hiểu।

Bà khách ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi lên cái ghế xếp trước mặt ông già। Như thông lệ, bà ta đặt tiền lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng thứ tiếng Pháp không có văn phạm. Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.

Thấy ông viết mướn không viết gì hết, bà khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn ông:- Sao ông không viết?- Thưa bà, tôi đang nghe bà kể đây।

Bà ta chỉ anh đen:- Sao kỳ vậy? Ông làm không giống anh này! Với anh ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt đầu gõ। Còn ông thì không nhúc nhích gì hết! Ông già phì cười, giải nghĩa chầm chậm:- Xin lỗi. Tôi phải nghe bà kể hết những gì bà muốn nói cho người con của bà, rồi tôi mới sắp xếp câu văn để viết. Bà biết không, viết thư phải viết cho mạch lạc thì người con của bà mới hiểu được hết cái ý của bà, bà hiểu không?

Bà khách ngần ngừ rồi gật đầu। Ông già đốt điếu thuốc, nói tiếp :"Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ kể lại, tôi nghe".

Bà khách liếc nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai bàn chân của bà, thấp giọng kể…

Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm, con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh mà cứ đau rề rề, mấy đứa cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng không đủ ăn, bà đã gởi ba cái thơ xin tiền thằng con, xin nó thương vợ thương con của nó nheo nhóc, chắc thơ đã đi lạc nên không thấy hồi âm, bà khổ lắm, không biết thằng con ở bên Pháp còn sống hay đã bị cái gì rồi… Bà khách ngừng kể, kéo ống tay áo lên lau nước mắt।

Nghe xong, ông già viết mướn, chừng như xúc động, làm thinh hít mấy hơi thuốc dài। Bà khách len lén nhìn ông rồi lại nhìn xuống chân của bà, hai bàn chân cùi đày nằm trong đôi dép cao su rách bươm lấm lem bùn đất. Bà đợi.

Suy nghĩ một lúc, ông già mới lấy giấy viết। Lâu lâu, ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm phía đối diện như để tìm chữ tìm câu. Rồi lại cúi đầu viết tiếp.

Viết xong, ông hỏi:- Bà cần tôi đọc lại không?

Bà khách chớp chớp mắt, lắc đầu। Bà đưa cho ông địa chỉ của người con, ông chép lên phong bì đã dán tem, cho thơ vào dán lại rồi trao cho bà khách. Bà cầm thơ lật qua lật lại nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng lên làm thinh đi về hướng thùng thơ đứng ở góc đường. Ông già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như chính ông đang đi gởi thơ cho thằng con…

Ngày nào ông già viết mướn cũng mang đồ ra ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng không phải ngày nào ông cũng có khách। Lâu lâu, có dư người thì anh đen " đẩy " qua cho ông. Anh ta nói đùa :" Đồng nghiệp mà! Phải giúp nhau chớ! " Ông cười chua chát :"Cám ơn! Cám ơn! Nhờ lòng tốt của anh mà tôi cũng vớt vát được một hai người".

Một hôm, anh đen bỗng hỏi:- Hồi trước ông làm gì ở Việt Nam?- Buôn bán।

Ông không muốn nói hồi đó ông là chủ hai nhà thuốc tây, khá giàu।- Rồi tại sao ông đi qua đây vậy?
- Tại làm ăn không được. Tại… tại nghèo.

Ông không muốn nói "cách mạng" đã tịch thâu tài sản của ông, gia đình ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng kinh tế mới, vợ ông chết ở trên đó, ông và hai đứa con trốn về thành phố sống chui như bầy chó hoang, ăn nhờ ở đậu …
- Bộ ông có quen ai bên nầy hả?

Đến đây thì ông già không giấu diếm gì hết:- Đâu có। Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe nói Nhà Nước Côte D Ivoire dễ dãi và tốt bụng nên tôi viết đại một lá thơ dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống, trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi đát của tôi. Tôi viết mà không có hy vọng gì hết.
- Ồ… Tại ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của tụi này rất bình dân và thương người lắm!- Bây giờ thì tôi biết. Bởi vì sau bức thơ của tôi, tôi nhận được visa và luôn vé máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật khó tin.- Gì mà khó tin? Tổng Thống tụi này hay làm những "cú" ngoạn mục như vậy lắm! Chắc ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới làm xúc động "Le Vieux" (Ông Già).

Ở Côte d Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet nên khi nói chuyện với nhau họ gọi ông là " Ông Già " một cách trìu mến।- Hồi đó tôi viết giống như tôi muốn than thở với một người nào đó để cho vơi nỗi thống khổ của mình, chớ đâu dè. Nhận được giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống!

Đến đây, ông già không nói rằng ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất giấu từ sau trận nhà nước đánh tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của người bà con xa, rồi chạy lo chiếu khán xuất cảnh, v।v…

Ông chỉ nói
:- Hồi qua đến phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi đâu ở đâu. Tôi phân trần với chánh quyền sở tại, họ điện thoại gọi hội "Anciens d Indochine". Nhờ hội này giúp nên tụi tôi mới có căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới bây giờ…- Tôi nghe nói người Việt Nam tỵ nạn ở Pháp ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông không có bạn bè bà con định cư ở các xứ đó sao?
- Có chớ.- Sao ông không viết thơ cho họ? Kẻ đi trước giúp người đi sau là sự thường mà.
Ông thở dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới nói:
- Tôi có viết thơ chớ। Chỉ viết thăm thôi và báo tin rằng tôi đã đến Côte d Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.
- Có lẽ không đúng địa chỉ chăng.
- Đúng chớ! Nếu không đúng nó phải được trả về, bởi vì tôi có ghi rõ địa chỉ người gởi mà. Hồi ở Việt Nam người thân của họ cho tôi địa chỉ và tin tức, nói họ bây giờ ổn định và khá lắm.
- Ờ… sao vậy há?
- Chắc họ sợ tôi xin tiền…

Ông cười khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc ra một cái gì chận ngang cổ họng, một cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm. Ông nhớ lại hồi thời "vàng son", bạn bè bà con của ông tới lui nhà ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó có nhiều người đã được ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà bây giờ…
Ông hít một hơi thuốc thật sâu rồi nhả khói ra từ từ làm khoảng trống trướcmặt bị mờ đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong đầu hình ảnh của mấy thằng bạn bè mấy người bà con mà ông vừa nhớ lại…
Anh đồng nghiệp da đen suy nghĩ một lúc lâu rồi nghiêng người qua vỗ vai ông vài cái nhè nhẹ, một cử chỉ an ủi tầm thường như vậy mà ông già viết mướn bỗng thấy nó đẹp vô cùng। Ông xoay người qua bắt tay anh đen, không nói gì hết, nhưng ông chắc chắn rằng anh bạn đó hiểu là cái cám ơn của ông già Việt Nam lưu vong…

Một hôm, bà khách hàng đầu tiên của ông già viết mướn mang biếu ông hai trái xoài Caméroun (loại xoài xứ Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da Đen) vừa cười vừa nói:- Tôi cám ơn ông। Nhờ cái thơ của ông mà thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền về, kèm theo một cái thơ dài. Nó nói nó đọc thơ của ông nó khóc quá! Nó lạy lục xin tôi tha tội cho nó. Nó nói là nó có vợ và một con ở bên Pháp nhưng nó thề sẽ gởi tiền về đều đặn để nuôi tụi này… Tôi vui quá! Vui quá!

Bà ta nói một hơi, nói thứ tiếng Pháp "ba xí ba tú", nhưng trong giọng nói nghe đầy xúc động। Nói xong, bà kéo ống tay áo lên lau nước mắt.

Ông già nhớ lại cách đây hơn mươi bữa, bà cũng kéo áo lên lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ của bà। Thì ra, cái vui cái buồn vẫn giống nhau ở giọt nước mắt!

Ông già mỉm cười:- Tôi viết mướn, bà trả tiền, có gì đâu mà bà cám ơn?- Không nhờ cái thơ của ông, không biết tụi này còn khổ sở đến đâu। Cám ơn ! Cám ơn!

Nói xong, bà đi trở qua chợ। Ông già đưa một trái xoài cho anh đen:
- Anh cầm lấy để chia vui với tôi!

Anh ta cầm trái xoài trên tay nhìn ngắm một lúc rồi nói:
- Làm nghề này đã hơn năm năm, tôi chưa được khách hàng tặng quà bao giờ। Ông mới ra nghề mà được như vầy là ông viết thơ phải hay lắm.
- Thì cũng ráng viết vậy thôi.
- Đâu được! Viết mà làm xúc động người đọc đâu phải dễ. Bây giờ tôi hiểu tại sao ông tổng thống của tụi tôi đã gởi tặng ông visa và vé máy bay!

Ông già viết mướn đốt điếu thuốc, thở khói một cách sảng khoái। Ông nhớ lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông lúc nào cũng đứng đầu về luận văn, và về sau ra đời, ông cũng có lai rai vài ba truyện ngắn đăng báo này tạp chí nọ. Viết, đối với ông, là để giải toả tâm tư, một cách giải toả trầm lặng và sâu đậm hơn là nói. Cho nên trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt là viết thơ cho bạn, những người cũng thích viết như ông hay ít ra cũng biết viết vài dòng hồi âm hay vài chữ để hỏi thăm nhau…

Hai hôm sau, có thêm một bà mang đến mấy trái cam để cám ơn ông đã viết thơ cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ। Rồi cứ như vậy, vài hôm là có người đến cám ơn, cho quà, khi thì chai đậu phọng (Ở đây, sau khi rang, đậu được cho vào chai lít đầy tới miệng rồi đóng nút để giữ cho được dòn lâu. Người nghèo bản xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì…). Khi thì mấy trái cà chua, vài bó rau cải… Có gì cho nấy, không nề hà! Ông già nhận hết, bởi vì ông thấy làm như vậy, người cho rất vui. Cái vui của họ được bộc lộ ra một cách rất thiệt thà : họ quay lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây…

Vậy rồi không biết họ đồn với nhau thế nào mà khách hàng cứ đến nhờ ông viết। Những người cần làm đơn từ cũng đến nhờ ông! Bên anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách. Ông già bèn đề nghị:"Tình trạng này kéo dài coi kỳ quá! Tôi đề nghị anh bạn như thế này: tôi lãnh viết thơ nhà, anh lãnh viết đơn hành chánh. Mình cứ nói đơn hành chánh phải được đánh máy cho sạch sẽ dễ đọc thì các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh đồng ý không?" Anh đen nhăn răng cười, bắt tay ông một cái đau điếng!

Từ đó, thấy khách đến, anh đen trịnh trọng nói :"Đơn từ thì ở bàn này। Thơ cho thân nhân thì bước sang bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi đây!" Lần hồi, khách hàng cũng quen nên cả hai người viết mướn cùng có việc làm đều đặn. Và càng ngày càng đông khách.

Một hôm, anh đen hỏi :
- Tôi cứ thắc mắc: làm sao viết thơ mướn mà ông viết hay được như vậy?
- Tại anh không biết. Xưa nay tôi say mê viết. Tôi thích viết cho một người nào đó để giải bày, để chia xẻ những cảm nghĩ những suy tư của mình, chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay… thú lắm !
Ông già ngừng nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi chép miệng:- Bây giờ tôi chẳng còn ai để mà viết। Bạn bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng như người vừa đui vừa điếc, viết uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn này, tôi có chỗ để viết. Tôi khổ cái khổ của khách hàng, tôi vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết với tất cả những xúc cảm chân thật đó, viết mà không nghĩ là mình viết mướn!

Anh đen vỗ tay đôm đốp, khen:
- Hay! Ông nói hay quá! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy! Tổng thống tụi tôi đem ông qua đây, đúng là ổng có con mắt!
Rồi hắn cười hắc hắc làm ông già cũng bật cười theo। Cả hai, không người nào nhớ rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ biết họ là hai người viết mướn…

Hai năm sau…

Một hôm ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng bạn hồi đó। Viết cho mỗi người một cái thơ, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức thơ cuối cùng cho họ. Viết để cho họ thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt khoát không còn bận bịu gì nữa với quá khứ, với lớp bụi đất đã ăn bám vào ông hồi thuở "vàng son".

Ông đốt điếu thuốc, suy nghĩ। Đại khái, ông sẽ viết:

"Thưa anh …gì gì (hay chị …gì gì)

Tôi viết thơ này để báo tin cho anh… (hay chị…) mừng dùm cho cha con chúng tôi। Tụi này đã định cư luôn ở Côte d Ivoire. Bây giờ, đời sống tụi này đã ổn định, cuộc sống tương đối khá. Hai con tôi có cửa hàng bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề viết mướn, khách hàng cũng nhiều. Được như vậy là nhờ ở xứ đen này, con người thấy đen nhưng lòng dạ của họ không đen chút nào hết. Chẳng bằng người Việt mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những đen mà còn bạc nữa, anh…( hay chị…) có thấy như vậy không?..."

Nghĩ đến đó, ông già bật cười khan một mình!

Tuesday, September 29, 2009


Mùa thu cuộc tình
Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được.. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.


Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà.. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết " làm " một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…


Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là " đi chợ Tàu " chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…


Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. "Chắc lá đã rụng đầy", ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…


Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : "Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?" Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…


Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình. Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : "Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !". Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : "Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?". Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến "cái ngày không còn có nhau" đó.


Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng "văn phạm Nhà Nước". Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…


Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy ! "Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !". Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ "Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa" Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :


- Ông Georges ! Ông Georges !


Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :


- Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : "Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : "Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !". Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :


- Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?


Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :


- Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !


Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng "Nhưng mà… Nhưng mà…" trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

- Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !


Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !


Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai" Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được.. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là "thằng Năm trúng số độc đắc" hoặc "đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy". Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !


Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó "sáng" ra mới được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười.. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn "nét" lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…


...Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải "bỏ bụng" một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho "lấy có" và ăn cũng cho "lấy có". Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu "hai đứa gặp nhau" (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi "hai đứa hẹn hò" (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…


-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh :

- Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !


Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.


Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm.. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :


- Ông chờ đón bạn à ?


Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :


- Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.


Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…


Lại nghĩ đến bà Năm.. Bả điệu" lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có "gout". Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái "gout" để vào đâu cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu "Gái không con mà nom cũng mòn con mắt", nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !


Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục "điệu" như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có "tác phong cách mạng" thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng "Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi", bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : "Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được"…


Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.
\

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : "Ông Năm !" Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : "Ông
Năm…"

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải.. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : "Mai !" Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng "Ông Năm" như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : "Sao vầy nè ?". Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : "Sao vầy nè… Trời ?". Tiếng "Trời" nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải... Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà "tụi nó" chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !


Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

- Thôi mình về đi em !


Tiếng "em" thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng "em" mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại.. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

- Để em xách !


Tiếng "em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :


- Để anh xách cho.


Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :


- Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.


Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra "tụi nó" đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : "Quân khốn nạn !"


-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối.. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

- Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?


Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :


- Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.


Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !


Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :


- Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn. \


Bà Năm dịu dàng :


- Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…


Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng "hai đứa" nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ "hai đứa" vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.


Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi : \


- Cây thánh giá này đây ?


Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.
\

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :


- Để em soạn đồ ra.


Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.


Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…


Vừa làm bà vừa nói :


- Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì.. Rồi khi được thả ra là trắng tay.


Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :


- Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.


Có tiếng bà Năm nói :


- Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !


Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răn, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !


Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…


Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :


- Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.


Bà Năm nghi ngờ :


- Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.


Ông Năm cười sảng khoái :


- Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !
\

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.


Ông vui vẻ :


- Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?


Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

- Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?


Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :


- Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !


Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…


Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.


Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : "Mình !". Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng "mình" nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng "mình" mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng "mình" gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng "mình" cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng "mình" ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng "mình" gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng "mình" đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…


Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ ?


-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…


Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. "Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?". Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho "nhân dân". Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !


Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều…

Tiểu Tử

Sunday, September 27, 2009

Saturday, September 26, 2009


Cái đầu gà
Tác Giả : Huy Phương

Tôi rất thích mấy lời hát sau đây của nhạc sĩ Trần Quang Lộc: “...Về đây nghe em, về đây nghe em Về đây cùng khóc trên sông nước buồn Chở lòng người trở về quê hương Chở hồn mình vào dòng suối mát Chở thật thà vào lòng dối trá...”

Nhưng tôi cũng vừa bật cười vừa xót xa khi đọc câu chuyện sau đây xẩy ra trên quê hương:
.
“Trong khi chuyến tàu dừng lại ga, một bà hành khách trên tàu đang trả giá mua một con gà luộc của một em bé bán hàng dưới sân ga. Cuộc ngã giá chưa xong thì tàu lại bắt đầu chuyển bánh. Cuối cùng cũng thuận mua vừa bán, khách trả tiền xong, em bé chạy theo con tàu, vội vã đưa con gà lên cho khách. Khách cầm lấy đầu con gà kéo lên, nhưng... tàu đã chạy nhanh, trong tay bà khách chỉ còn cái đầu gà, còn thân gà ở lại trên sân ga trong tay con bé bán hàng. Người đàn bà bị lừa giận dữ, chỉ còn cách kêu lên: “Tổ mẹ nó!” Người khách ấy chửi con bé mới nứt mắt ra đã biết đi lừa thiên hạ, mấy tiếng “tổ mẹ nó” như còn âm vang trong tai của tôi, một người bàng quang không dính líu gì tới chuyện cái đầu gà, mà vẫn thấy đau.
.
Nếu đây là một câu chửi của một du khách ngoại quốc đến du lịch Việt Nam thì câu chửi đó dành cả cho dân tộc này, nhưng đây là câu chửi của một người đàn bà bình thường đi lại trên con đường Bắc-Nam, thì hẳn lời chửi này dành cho chế độ đương thời.
.
Cái gia đình sống nhờ vào hành khách của những chuyến tàu xuyên Việt này được một ngày vui vì một con gà luộc bán được hai lần. Chuyện này cũng có thể lặp lại nhiều lần trên sân ga này mà không bị phát hiện, vì trong hàng trăm nghìn hành khách, sẽ không có ai bị lừa hai lần vì một lối lừa cũ. Người ta có thể vịn vào cái lý do nghèo, đói để gian dối, lừa bịp người khác như thế không?
.
Trong chế độ Cộng Sản, phải dối trá mới mong sống còn, báo cáo láo, thành tích láo, lường gạt con người, điều có thì phát ngôn viên chính phủ nói là không, điều không thì chủ tịch nước cũng có thể nói là có.
/.
Hiến pháp CSVN cũng có ghi nhận những quyền con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do biểu tình, tự do tôn giáo, nhưng lại có các luật lệ khác ban hành để hủy bỏ, kềm kẹp các quyền ấy. Sự dối trá của đảng cầm quyền bắt người dân phải dối trá theo. Con nít tập nói dối. Cán bộ cao cấp mang bằng cấp giả. Khẩu hiệu “mình sống vì mọi người” đổi thành “mình phải lừa dối mọi người” để sinh tồn.
.
Năm 2008, Saigon mở cuộc thi “nói dối” cho học sinh với đề tài “Tìm hiểu tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, có 24 Triệu bài trắc nghiệm và 80 ngàn bài viết dự thi, có nghĩa là hơn hai triệu em học sinh nhắm mắt khen bừa Hồ Chí Minh để được thành tích học tập, trong khi chúng ta biết Hồ Chí Minh chẳng đạo đức, lại là tay nói dối lừa bịp có hạng.
.
Xin các bạn đọc kỹ câu này:

“...Ðáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch...” (“Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh - Hà Minh Ðức)। Dối trá mà công khai, dối trá mà còn biện bạch bất chính, không hề biết ngượng. Tin vào lời xúi dại của đảng, năm 1956, tại một Ðại hội MTTQ, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường đọc một bài diễn văn ngay thẳng, đả phá những sai lầm của chuyện cải cách ruộng đất và đề nghị những phương thức sửa sai.
.
Ông mất chức giáo sư đại học, về vườn, bị trù dập cho đến chết, và ông đã viết:

“Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của họ chưa hề thấy trong lịch sử loài người” (Kẻ Bị Khai Trừ)। Bao nhiêu nhà văn, nghệ sĩ dưới chế độ Cộng Sản đã hèn, chỉ biết nói dối để sống còn, để có cơm ăn, vì nói thật thì chỉ có chết, không những chết một mình mà chết đến ba đời, không thua gì chuyện “tru di tam tộc” ngày xưa, vậy thì vì sao phải nói thật?


.lign="justify">Năm 1958, nghe theo lời đường mật, nói thật, nói hết, không bẻ cong ngòi bút, Tòa Án Nhân Dân Hà Nội quy án, chụp mũ “gián điệp” cho Thụy An, Nguyễn Hữu Ðang, nhóm Nhân Văn Gia Phẩm với bản án 15 năm tù, và báo chí “hồ hởi” loan tin: “Năm tên gián điệp, phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội, Nguyễn Hữu Ðang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam”. Trương Như Tảng đã kể kinh nghiệm của ông về phương sách của các tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản cai trị:
.
“Người Cộng Sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền। Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”.

Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay,
.
“Gia đình ly tán, đạo đức suy đồi, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng Cộng Sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới (Ðoàn Văn Toại 2/15/2009). Ngày nay, chính Trần Quốc Thuận, Văn Phòng Quốc Hội CSVN, người của chế độ, đã phát biểu:
.
“Những cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ। Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lặp lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là rất mất đạo đức”. Một thế hệ gian dối, lừa đảo, bạo tàn rồi sẽ qua đi, cho những mầm non lớn lên, trong sáng, nhưng với những đứa trẻ con lang thang ngoài chợ đời, học cách mưu sinh, kiếm tiền bằng kiểu lưu manh, cướp giật như thế thì còn gì để “tổ quốc mong cho mai sau!” Chỉ tiếc là ngày nay dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, sự dối trá đã đi vào học đường, thì lấy gì hy vọng cho tương lai đất nước khá hơn. Chính Hội Ðồng GMVN đã có ý kiến đặc biệt trong lãnh vực giáo dục: “Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường”. Một người dân đã viết thư than với bộ trưởng giáo dục rằng: “Làm sao yên lòng khi cháu tôi về kể lại rằng trước khi vào tiết thao giảng, cô giáo của cháu dặn tất cả học sinh đều phải giơ tay phát biểu khi cô hỏi, nhưng em nào biết thì đưa tay thẳng, em nào không biết thì đưa tay hơi cong cong để cô biết chừng” (để cho thanh tra thấy rằng cô dạy giỏi, các em đều hiểu bài- Tuổi Trẻ 30/6/2006). Tôi cũng muốn cùng Nguyễn Quang Lộc

“Chở hồn mình vào dòng suối mát/
.
Chở thật thà vào lòng dối trá...”
mà sao như vẫn còn nghe lùng bùng trong tai mấy tiếng chửi “Tổ mẹ nó!” Nhưng mà nghĩ lại, lên án đảng Cộng Sản đã lừa cả dân tộc Việt Nam, lên án chi con bé tội nghiệp chỉ lừa khách qua đường có mỗi cái đầu gà luộc। “Cách mạng” thành công, đổ bao nhiêu xương máu của người dân vô tội, chiếm được chính quyền rồi, đảng Cộng Sản cho nhân dân mút cái đầu gà, còn đùi cánh, lòng lườn, phao câu béo bở dành cho bọn băng đảng cầm quyền. - “Tổ mẹ nó!” Tôi muốn kêu lên thật lớn. Tiếng chửi này, như tôi đã thưa trước, của bà khách bị con nhỏ lừa, trả tiền nguyên một con gà mà chỉ nhận được một cái đầu gà, chứ không phải của tôi.

TRỞ VÊ ĐẦउ TRANG

Friday, September 25, 2009

Ở ĐÂU HOA CŨNG NỞ.
Tặng Lưu hồng Phúc
Thảo Nguyên
Hiếu đưa mắt nhìn những ngọn đồi vây quanh căn cứ. Tất cả chỉ là một màu xanh chập chùng bát ngát. Phía sau, xa hơn nữa là những dãy núi nhấp nhô mỗi lúc một cao dần, cho đến khi chân trời được nâng cao hơn tầm mắt, màu đã trở thành xanh thẫm. Đó là những vách đá của dãy Trường sơn.

Hôm nay, cái màu xanh nhàm chán mà Hiếu đã nhìn từ năm này qua tháng nọ bỗng dưng tươi hơn thừơng nhật। Cả màu nắng cũng có vẻ trong hơn. Mây trắng lang thang, giăng ngang đỉnh núi mơ màng và quyến rũ. Chim rừng ca hát líu lo, bên những hàng cây nhỏ đầy hoa dại nở. Niềm vui trong lòng Hiếu đang hòa nhịp với thiên nhiên.


Buổi sáng, khi vừa thức dậy Hiếu nhận được một tin vui ngoài mơ ước .Chuyện chàng không bao giờ dám nghĩ nay đã thành sự thực. Đó là Trang sẽ lên tận đây-cái tiền đồn heo hút nhất quân khu này để thăm chàng. Cô gái xinh tươi của miền thùy dương cát trắng-Nha Trang-sẽ vì tình yêu mà dấn thân vào nơi gió bụi. . .biên cương.

Trang đã có mặt tại Bộ chỉ huy quân khu ở Đà nẵng. Hiếu đã được Hải, bạn của chàng là sĩ quan truyền tin của tiểu đoàn giúp đỡ cho nói chuyện với Trang bằng máy viễn liên C67 cách đây hai tiếng đồng hồ. Lúc ấy nàng đang chuẩn bị ra sân bay. Hiếu hét to vào trong máy, chẳng để ý gì đến chuyện mã hóa lời nói, và cũng chẳng tin chuyện nàng lên thăm là sự thật.

-Em lên tận đây thăm anh. Trời ơi, có thật không em.

Tiếng trả lời của Trang đầu máy bên kia nghe rất nhỏ, mong manh theo tiếng gió. Hiếu nghe câu được câu không, nhưng chàng cũng hiểu là Trang đã phải mất cả mấy ngày để đi xe đò từ Nha trang ra Đà nẵng . Rồi thêm hai ngày chờ đợi chuyến bay ở quân khu. Hôm nay nàng mới may mắn được theo trực thăng của Chỉ huy trưởng, nhân dịp thăm viếng tiền đồn để đến với chàng.

Hiếu liếc nhìn đồng hồ. Bây giờ đã là chín giờ bốn mươi tám phút. Như thế là Trang đã bay được gần hai tiếng. Hải cho chàng biết hiện giờ nàng đang có mặt tại Bộ chỉ huy 11 chiến thuật ở Chu lai. Đến 11 giờ trưa phái đoàn sẽ bay tới Minh long, qua bao nhiêu chỗ như vậy thì biết đến bao giờ mới xuống đến đây. Hiếu sốt ruột và mong đợi, chàng nghĩ thương cho Trang với chuyến bay dài mệt nhọc. Thuơng niềm thủy chung son sắt của nàng, thương cả tình yêu khắc khoải đợi chờ năm này tháng nọ của hai người và kéo dài không biết đến bao giờ. Hiếu hình dung mái tóc mây của nàng xoả bay trong gió cuốn, đến đôi chân mày cong cong bên bờ mì của đôi mắt to đen. Hiếu nghĩ cả đến đôi môi hồng tươi mật ngọt, vùng ngực tròn to, trắng ngần đã có lần chàng vùi đầu ngủ quên trong đó. Chàng cũng nhớ đến đôi tay Trang thon dài như những búp măng, vuốt ve mái tóc chàng, nhẫn nại chịu đựng mỗi lúc chàng ngủ quên như thế. Đã có lần nàng cố gắng yên lặng như pho tượng, trong rất nhiều giờ chỉ để cho chàng đựơc tròn

Hiếu ra khỏi căn hầm đề cho ngừơi lính thân cận dọn lại cho sãch sẽ. Bao nhiêu quần áo chăn mền dơ dáy chàng đã cho người mang ra suối giặt. Đêm nay Trang sẽ ngủ ở đây, trong căn hầm đầy những khẩu súng, lưỡi lê và lựu đạn. Không biết nàng có cảm thấy sợ khi mà không khí chiến tranh nằm trong đời sống thường ngày. Khi yêu nhau chắc Trang khó hình dung ra một ngày nàng sẽ chui vào một căn hầm nóng bức và khóac lên ngừơi bộ quần áo rằn ri của người lính trận.

Chốc chốc Hiếu lại nhìn đồng hồ. Thời gian sao mà trôi chậm qúa.Từ lúc gọi máy đến giờ tưởng chừng như lâu lắm mà mới hơn hai tiếng. Hiếu muốn tìm một chỗ yên tĩnh để mơ tưởng đến Trang. Chàng gọi người lính mang máy đi theo. Hai thầy trò chui vào một bụi sim già, bên cạnh bờ sông chỉ để theo dõi bước chân nàng. Cứ độ mươi phút Hiếu lại thay tần số, gọi riêng cho Hải hỏi thăm. Chàng biết rằng Hải sẽ bực mình, nhưng mặc kệ, lâu lâu mới có một lần, bạn bè làm phiền nhau một chút, có sao đâu.

Gọi xong Hiếu thay qua tần số làm việc. Chàng lơ mơ nhìn ra con sông Re đang uốn quanh những ngọn đồi trước mặt. Nứơc sông trong xanh lờ lững bên bờ cát trắng, lấp lánh ánh sáng mặt trời làm Hiếu nhớ tới bài hát của ông Phạm Duy tả về một mối tình đầu tan vỡ nơi thành phố ven biển miền Trung...Cát trắng thơm tho lùa vào trong nắm tay, nào ngờ cát ứa tuôn ra dần dà chẳng có hay...Ân tình trong lúc đôi mươi, bao giờ cũng vẫn mau phai, cho ngàn thông réo tên ai ..từ đó..

Hiếu đã nghe bài hát đó không biết bao nhiêu lần từ chiếc máy cassett quá cũ của mình, nhưng mỗi lần nghe là một lần bàng hoàng, xúc động. Chỉ một câu thôi..Cho ngàn thông réo tên ai từ đó..là chàng đã mường tượng ra hình ảnh một người âm thầm, đơn độc trên bãi biển khuya, nghe hàng thông réo gọi mà tiếc thương cho mối tình đầu sớm vội qua đi.

Chính cũng vì bài hát này và nơi thành phố ấy -Nha trang ngày về- lần đầu tiên Hiếu đã gặp Trang, trong một ngày đưa xác bạn về với gia đình. Đêm hôm đó chàng đã uống quá say. Những giọt rượu nồng giúp Hiếu tạm quên đi những hiểm nguy, gian khổ của cuộc đời lính chiến. Hiếu nhớ lại Hoàng đình Tri, người bạn cung trường đã vĩnh viễn ra đi trong một chuyến hành quân tàn khốc của đơn vị. Nhìn bà mẹ và cô em gái bạn, rũ rợi bên vành khăn tang, vật vã bên chiếc quan tài người quá cố. Hiếu cảm thấy miệng mình khô đắng và thèm một hơi rượu cay nồng, để quên đi thân phận mình đang xoáy mạnh vào cơn lốc chiến tranh. Chàng âm thầm rời căn nhà của Tri, lang thang những bước chân vô định trên bãi biển, rồi tìm vào một quán rượu với những tiếng nhạc xập xình.

Từng li rượu thấm dần vào tâm hồn, vào kỷ niệm. Hiếu nhớ lại những ngày cùng Tri rời quân trường về đơn vị mới . Bây giờ Tri không còn nữa. Bạn chàng đã ra khỏi kiếp sống đầy những tranh dành, toan tính với đạn bom. Những ly rựơu làm mềm môi Hiếu, đưa hồn chàng trôi theo tiếng hát của người con gái dứơi ánh đèm màu. Tiếng hát trong vắt, xoáy mạnh vào tâm hồn Hiếu, khơi lại những day dứt khổ đau của tuổi đôi mươi, của mối tình đầu tiên chàng ấp ủ. Mối tình có quá nhiều lời thề thốt, ước mơ nhưng không thắng nổi vật chất bạc tiền, đã làm cho Hiếu phải làm kẻ đứng bên lề.
Tiếng hát của người con gái lên cao, cao vút, trong veo...Ân tình trong lúc đôi mươi, bao giờ cũng vẫn mau phai, cho ngàn thông réo tên ai tù đó.. Hiếu uống thêm nhiều ly rượu .Uống cho tình yêu tan vỡ, cho chia ly khổ đau, cho chiến tranh chết chóc....Và cho cả em, người con gái đang ru hồn anh bằng những tiếng hát gợi nhớ vô bờ.

Hiếu bước lại gần sân khấu để nhìn rõ hơn khuôn mặt xinh đẹp của nàng. Nụ cừơi hé nở trên môi đỏ mọng, đôi mắt nàng mở to ngạc nhiên nhìn xuống phía chàng. Chao ôi, cả một mùa xuân dịu dàng trong màu mắt, cả một mùa hè nắng vỡ trong nụ cừơi. Hiếu mặc kệ những tia nhìn khó chịu của những người xung quanh, chàng đứng yên, đăm đăm như muốn giữ mãi hình ảnh lộng lẫy của nàng trên sân khấu . Men rươu làm cho chàng cảm thấy nàng không chỉ có một sắc đẹp kiêu sa mà còn có những vùng da thịt khiêu khích, gọi mời, để cho những giọt rượu đêm nay như mật ngọt thấm dần vào thân thể.

Chàng ngồi ngay xuống chiếc ghế chỉ dành riêng cho ban nhạc để được nhìn nàng trọn vẹn. Hình như cô gái lấy làm thích thú vì những bày tỏ si mê đó. Nụ cười và ánh mắt nàng bây giờ chắc là chỉ để dành riêng cho Hiếu. Chàng gọi thêm chai rượu với những ý nghĩ vô cùng lãng mạn là được chết trong ánh mắt, trong nụ cười mà Hiếu tin chắc rằng trong suốt cả cuộc đời chàng chỉ may mắn gặp có một lần. Rượu rót đầy ly, rượu trôi bồng bềnh trong từng mạch máu. Một ly cho tình yêu gian dối, cho tan vỡ chia ly ngày xưa. Một ly cho em, người con gái hôm nay đã bất chợt đưa anh vào cổng thiên đường. Thiên đường đang nằm trong dòng tóc em chày dài như con suối. Thiên đường trong môi, trong má em, hồng tươi như cách hoa đào. Oi, trong cồn ngực em, là cả một thiên đường tan vỡ. Một ly nưã cho người bạn vưà nằm xuống hôm qua để bảo vệ cho thiên đừơng của tự do, hạnh phúc. Mai mốt anh lại về một chốn xa xăm, một địa danh không ai thèm biết tới, một tiền đồn biên phòng heo hút, rồi những ngày tháng hôm nay, sẽ đi vào dĩ vãng xa vời như chuyện cổ tích ngày xưa.

Đêm hình như khuya lắm, chai rượu vơi dần. Hiếu vuốt mặt cho tỉnh táo. Đã đến giờ nên rời khỏi nơi đây, nhưng chưa biết về đâu. Chàng muốn đứng lên nhưng hình như không còn đôi chân nữa. Hiếu vẫy tay cho ngưòi hầu bàn để tính tiền và nhờ gọi cho một chiếc xích lô. Chàng móc ra chiếc ví dày cộm những tấm giấy bạc còn mới. Mấy tháng lương cộng lại làm chiếc ví căng phồng. Ngày hôm nay mà không tiêu tiền thì không biết bao giờ mới có dịp. Mai mốt về căn cứ, chỉ còn có nước đem ra mà ngó. Nhưng mà sao đôi mắt ta nặng trĩu thế này. Trong mơ màng Hiếu thấy những tờ giấy bạc rơi khỏi tay chàng bay lả tả. Rồi một nàng tiên áo trắng hiện ra, nâng dầu chàng kên đặt vào một vùng mềm mại mà êm ái vô cùng...

Khi Hiếu choàng tỉnh dậy thi trời đã sáng. Một mùi thơm dìu dịu trong không khí cuả căn phòng nhỏ bé, xinh xinh. Chàng nhận ra mình đang nằm trong một chiếc giương kê sát bên cưã sổ, lơ thơ những chùm hoa giấy bên ngoài. Đôi giày saut được để ngay ngắn trong góc phòng và chiếc áo rằn ri của chàng được cẩn thận treo lên móc áo. Dưới chân giường là đôi dép, sẵn sàng để cho chàng dùng khi thức giấc. Hiếu tần ngần cảm động vì từ bé cho đến bây giờ chưa bao giờ được ai săn sóc như thế. Chàng nhìn qua cánh cửa khép hờ, bất ngờ gặp phải một suối tóc mây chảy dài trên bờ vai cuả một người con gái đang quay lưng lại. Nàng mặc một bộ quần áo bằng hoa tím mỏng hình như đang nói chuyện với một ngứơi khác, khuất sau cánh cửa. Họ đang nói về chàng.

-Má à , anh ấy là bạn của anh Tri. Anh ấy đưa xác anh Tri về chiều hôm qua đó
- Sao con biết. Hôm qua ở đó má có thấy ai đâu.
-Thì hôm qua lúc mới đưa anh Tri về, con còn ở đó giúp bác với chị Tâm nên con thấy anh ấy mà. Nghe chị Tâm nói là bạn cùng học một trường trên Đà lạt vơi anh Tri. Hồi khuya má tới trễ, chắc anh ấy đi rồi nên má không thấy anh ấy nữa.

Tiếng trả lời chàng nghe không rõ. Một lúc sau Hiếu lại nghe tiếng người con gái nói như phân trần.
-Con thấy anh ấy uống nhiều quá. Quán người ta đóng cửa rồi mà anh còn ngồi như muốn gục trên bàn. Tiền rơi vãi lung tung thành thử con...tội nghiệp, bảo bác xích lô chở anh ấy về nhà mình. Con sợ nếu để anh ấy ở trong quán trọ, biết đâu gặp người gian sẽ lấy hết tiền và nguy hiểm cho anh ấy.

Im lặng một lúc lâu. Hiếu chưa kịp xấu hổ cho sự say sưa của mình thi lại nghe tiếng nàng trả lời bà mẹ
-Thì anh ấy là bạn anh Tri, chắc cũng hiền lành như anh Tri thôi. Hôm qua chắc anh ấy buồn vì anh Tri chết nên mới uống nhiều như thế.

Giọng nói người con gái quen thuộc quá. Thôi đúng chính là giọng hát tối hôm qua đã ru hồn chàng vào những niềm đau, những cơn say chất ngất. Hiếu chưa biết rõ vì sao chàng có mặt nơi đây nhưng chàng đã sung sướng vì đuợc bênh vực , săn sóc và an ủi. Được đón nhận trong êm ái dịu dàng. Phải, hôm qua chàng đã có một cơn say đáng nhớ mãi trong đời. Chàng thương bạn đã đành, nhưng chàng cũng thương cho số phận côi cút, cô đơn của mình, thuơng cho cả mối tình đầu tiên mà chàng bị phụ rẫy. Chính tiếng hát của nàng khơi lại những vết thương lòng hãy còn mưng mủ. Rồi sau đó tiếng hát và vẻ rực rỡ của nàng lại dẫn chàng vào những cơn say. Say vi thuơng cho kiếp lính phong sương gian khổ như chàng thì dám mong gì có người đề ý thương yêu.

Nhưng có lẽ Hiếu đã lầm khi nghĩ thế. Sự dịu dàng mà chàng được nhận hôm nay là sự thật. Đâu phải trong cuộc đời này, ai cũng chỉ trọng vọng bạc tiền hay giàu sang danh vọng. Giữa bùn đen dơ bẩn còn mọc lên được những cánh sen thơm ngát. Có lẽ nàng là cành sen rực rỡ trong cuộc đời nhơ bẩn mà chàng đã đi qua. Hiếu mạnh dạn ngồi dậy. Chàng mặc quần áo trận, đưa tay với chiếc nón nâu, đội lên đầu mạnh dạn bước ra bước ra ngoài.

Hiếu bối rối khi đối diện với hai người, một già một trẻ. Đúng là nàng, nguời con gái hôm qua đã hát cho chàng nghe, những âm thanh chở đầy sầu đau chất ngất của tình yêu mật ngọt dại khờ. Hiếu bỗng cảm thấy sung sướng vì may mắn được ở nơi đây. Niềm sợ hãi mất đi những gì mình đang có bây giờ khiến Hiếu nhỏ bé như trẻ thơ. Chàng đến bên bà mẹ, cúi đầu chào, đôi tay khoanh tròn trước ngực.

- Thưa bác, hôm qua cháu buồn quá, uống rượu hơi nhiều , làm phiền bác với cô.Cháu xin lỗi bác và cám ơn bác đã cho cháu nghỉ một đêm.

Bà mẹ rất vừa lòng vì sự lễ phép và câu nói, nhưng vẫn trang nghiêm.
-Chúng tôi không dám.Thế gia đình ông chắc ở gần đây ?
Hiếu thành thực ngậm ngùi.

-Thưa bác, cháu không có gia đình. Thầy mẹ cháu mất từ khi còn nhỏ nên cháu ở với gia đình ông chú. Trước kia, gia đình chú thím cháu cũng ở tại đây, nay đã di chuyển vào Sài gòn.
Chàng phân trần thêm
-Hôm qua đưa xác anh bạn về, nhìn mẹ anh ấy với cô em vật vã trước quan tài, cháu buồn quá nên uống hơi nhiều..mong bác tha lỗi cho.

-Không không có gì, ông không làm gì phiền chúng tôi cả. Ông nhà tôi trước kia cũng ở trong quân đội nên tôi rất thông cảm.Vả lại Thiếu úy Tri là cháu gọi tôi bằng cô ruột. Tôi cũng ở bên ấy đêm qua mãi tận khuya mới về. Lúc ấy chắc ông đã đi rồi nên không gặp.
Hiếu ngạc nhiên hỏi
-Vậy ra cô đây là..
- Em cô cậu ruột với anh Tri.
Hiếu nhìn người con gái, nàng thẹn thùng ngó ra những bông hoa giấy ngoài sân.Trong bộ đồ bà ba trắng điểm nhưng bông hoa tím trông nàng ngoan hiền như những cô bé học tro. Hiếu thầm cảm ơn những lời nói bênh vực của nàng, những săn sóc đã dành cho chàng tối hôm qua. Chàng muốn nói đôi lời cảm ơn, muốn hỏi nàng nhiều điều mà sao cứ ngại ngùng. Cuối cùng chàng cảm thấy mình đã làm phiền gia đình nàng nhiều quá. Mân mê chiếc mũ trên tay chàng ấp úng.

-Thưa bác, thưa cô, cháu xin được cám ơn bác đã cho cháu nghỉ ở đây. Cháu xin chào để về đơn vị.
Người con gái hốt hoảng quay lại. Ánh mắt nửa như oán trách, nửa như dổi hờn. Rõ ràng là ánh mắt dành cho chàng một niềm thiết tha trìu mến. Bà mẹ ân cần mời chàng.
- Chẳng mấy khi có dịp, nhân đây thay mặt anh chị tôi, mời ông ở lại dùng với chúng tôi một bữa cơm gọi là để cám ơn ông đã đưa cháu Tri của chúng tôi về.

Đôi mắt người con gái sáng lên niềm vui mừng và chờ đợi. Hiếu cũng mừng vui không kém vì có dịp được gần nàng lâu hơn. Bữa cơm thật đậm đà, đầm ấm khiến chàng lầm tưởng như trong một gia đình. Chưa bao giờ Hiếu đựơc săn sóc nuông chiều đến thế. Chàng nghĩ lại suốt cả quãng đời thơ ấu vất vả, đơn độc của mình khi ở với chú thím. Thật ra ông chú thương chàng lắm. Bà thím cũng thế, chỉ có tật tham lam chắt chiu quá đáng, thành thử Hiếu phaỉ làm công việc nha, trông coi thổi nấu, tắm giặt cho các em trong lúc chú thím đi làm. Những buổi học thất thường, những bài vở không có thì giờ chuẩn bị, những chiếc aó rách vai chưa kịp vá đôi khi làm Hiếu không muốn đến trường. Phải can đảm và kiên nhẫn lắm, Hiếu mới qua nổi bậc trung học.
Có những buổi tối, cơm nước xong, chú thím và các con quây quần đoàn tụ, chuyện nổ như bắp rang Hiếu lại thấy mình càng cô độc, tủi thân bên chồng chén cao chưa rửa và bàn ăn chưa kịp dọn. Lúc đó chàng ao ước được gọi một tiếng mẹ yêu thương trước khi nhận biết rằng mình không có mẹ.
- Cháu đưa bát để em nó xới thêm cơm cho.
- Dạ, dạ con dùng đủ rồi, thưa mẹ.

Tiếng mẹ vô tình thốt ra làm Hiếu ngượng ngùng lúng túng. Chàng muốn cải chính chỉ vì mình lỡ lời trước khi muốn được xưng hô như thế. Nhưng mà không ai tỏ ý khó chịu vì điều thưa thốt lầm lỡ ấy. Hiếu liếc mắt thấy Trang quay đi, che miệng cười khúc khích trong khi bà mẹ ôn tồn.
- Trang. Con đi lấy nước cho anh rửa tay rưả mặt.

Chiều hôm đó Trang đến chỗ làm sớm hơn thường lệ. Hiếu đi theo để hai người cùng bước song đôi trên bãi biển. Những dấu chân in rõ trên nền cát ướt, nhưng rồi từng cơn sóng ập vào lại xóa tan ngay. Hiếu vẩn vơ lo sợ mất đi những gì mình đang có hôm nay như những dấu chân thực sự kia chìm lấp trong lớp sóng.
Trời trong xanh quá. Gió mát thổi lao xao bên hàng cây phi lao ven bờ. Hiếu và Trang cùng ngồi bên bờ đá trông ra biển rộng. Trang ngập ngừng hỏi Hiếu.
- Anh chơi thân với anh Tri lắm phải không ? Hôm qua em thấy anh uống hơi nhiều.
- À, anh vời anh Tri cùng học một quân trường, cùng chung với nhau một đơn vị. Dĩ nhiên là anh rất buồn khi anh Tri nằm xuống, nhưng mà đó chỉ là một phần. Thật sự tiếng hát của em đêm qua đã làm anh muốn chìm vào những cơn say. Chính tiếng hát của em đã đưa anh về dĩ vãng xa xăm, thưở còn đi học với tình yêu đầu tiên, ngây thơ, khờ dại, trong trắng như tuổi học trò. Cho rất nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu...để rồi mỗi người một ngả ....cho ngàn thông réo tên ai ..từ đó.
Trang tinh nghịch hỏi.
- Cô nào mà có phước vậy anh?
Hiếu thành thật trả lời.
-Ngày xưa xa lắm rồi, thưở còn đi học anh và cô ấy cùng chung một lớp, ngay tại đây, thành phố Nha trang này. Anh thường hay giúp cô ấy trong những bài tóan khó rồi thân thiết nhau không biết tự bao giờ. Có điều anh nghèo lắm. Dù được chú thím cho đi học nhưng mà thiếu thon trăm bề trong lúc nhà cô ấy giàu sang dư giả quá
Chàng nhớ lại rồi bùi ngùi
-Đã có nhưng lần cô ấy biết anh vội vàng vào lớp mà chưa có cơm ăn nên gìờ chơi mua bánh mỳ lén lén đưa cho. Đôi khi lấy luôn cả áo quần của ông anh đem đến vì thấy anh rách rứơi.
Trang ngắt ngang lời kể mỉm cười ranh mãnh.
- Tình tứ qúa anh há.Thế anh có nhận không.
- Nhận chứ sao không? Thưở ấy anh đâu có biết gì, cứ tưởng rằng dù là trong tình yêu thì hai với hai vẫn phải là bốn. Thương ai thì cầu mong cho người đó được sung sướng. Anh cũng lãng mạn nghĩ rằng chắc cô ấy thấy anh rách áo thì thương, như những câu ca dao thuở trước. Đâu có biết rằng trong tình yêu mà có lòng thương hại thì cũng chỉ kéo dài trong một sớm một chiều . Những lời thề non hẹn biển, ngay tại đây, giưã trời biển mênh mông bát ngát này anh tin như những trang sách gíao khoa. Và em biết không . Sách giáo khoa của tình yêu không bao giờ dạy người ta nói thực. Tan vỡ là chuyện đương nhiên như những cơn sóng ập vào xóa mờ nhưng bước chân vừa mới in trên cát. Trên đời này làm gì có ông Chử đồng Tử thứ hai để gặp nàng Tiên dung trong mộng. Lên đại học thì cô ấy đi lấy chồng và anh vào lính. Chuyện giản dị chỉ có thế thôi.

Trang im lặng nhin ra biển rộng. Trong mông mênh của trùng dương bát ngát nàng cảm thấy con người thật nhỏ bé như chiếc thuyền nan, cuộc đời chính là đại dương và tình yêu là nhưng cơn sóng dữ. Những cơn sóng vây bủa như muốn nhận chìm con thuyền xuống tận dưới đáy sâu, thế nhưng con thuyền lúc nào cũng mong giỡn sóng.Trang là con thuyền say mê sóng nước trùng dương. Tình yêu chính là những cơn giông bão của cuộc đời. Nàng muốn đi vào cơn giông bão để thấy lòng mình chìm đắm vào những mãnh liệt của đam mê.
- Anh chắc còn thương cô ấy lắm, nên anh xúc động khi nghe em hát bản Nha trang ngày về.

- Thật ra trong bản nhạc này anh chỉ thích có một câu thôi....Cho ngàn thông réo tên ai từ đó.. Mỗi lần nghe lại anh có cảm tưởng như vưà mất đi một vật gì, một cái không tên nhưng vô cùng quý giá, đã đi vào miên viễn xa xăm cuả quá khứ . . .cái đó chưa hẳn là tình yêu hay hình bóng một nguời yêu, cái đó nó bao gồm cả một không gian thơ ấu xưa với những ngày tháng đau buồn khổ cực cuả anh khi mang kiếp sống con người .
- Anh nói gì mà em không hiểu.
- Dĩ nhiên là em không thể nào hiễu được vì ngay chính anh đây đôi khi còn lẫn lộn. Nhưng chính tiếng hát của em như con tàu chở anh về những sân ga dĩ vãng, cho anh tìm lại được tuổi thơ và cũng có thể cho anh tìm lại được những gì xưa đã mất.
- Anh lãng mạn như một nhà thi sĩ
- Anh không biết rằng anh có lãng mạng hay không, nhưng anh biết chắc rằng anh là một con người yêu sự thủy chung và trân quý sự thực. Anh cũng không hề sợ sự thực cho dù sự thực đó thế nào đi nữa. Ví dụ như hôm nay, khi gặp được em anh thực sự cảm thấy rằng đây là lần may mắn duy nhất mà anh được gặp trong đời.
- Được gặp hay đã gặp.
- Có gì khác nhau đâu?
- Khác nhau xa chứ, thưa người anh hùng Biệt động. Này nhé anh đã gặp thì có thể anh còn gặp nữa, vì chữ duy nhất chỉ bao gồm trong khoảng thời gian từ trước cho tới ngày hôm nay. Còn nếu anh được gặp thì chư duy nhất là bao gồm suốt cả cuộc đời anh. Thành thử em sẽ chắc chắn khi nghĩ rằng mình là người duy nhất
Hiếu ngẫm nghĩ trong giây lát, đã hiểu ra, chàng nói như reo.
- Đúng, đúng vậy, cô thông minh lắm, cô ca sĩ hát hay nhất trong suốt cuộc đời tôi.
Cả hai cùng vui vẻ cười vang như muốn át đi tiếng sóng. Hiếu bạo dạn nắm lấy tay Trang, nhìn sâu vào đôi mắt tuyệt đẹp của nàng thiết tha hỏi.
-Thế còn em.Em đã có ..ai chưa? Em đi hát hằng đêm như thế này thì thiếu gì người muốn đưa muốn đón. Mà sao em lại chọn nghề ca hát?

Câu hỏi thành thực của Hiếu làm Trang chùng xuống buồn buồn. Cuộc đời ấu thơ của nàng khác hẳn. Cha mẹ Trang chỉ có hai chị em, mà nàng là con gái nên ba nàng chiều rất mực. Ông cũng phục vụ trong quân đội như Hiếu nhưng ở điạ phuơng nên thường xuyên gần gũi gia đình. Trang muốn gì ông cũng lo cho đầy đủ khiến Trang có cảm tửơng gẩn gũi với cha hơn cả mẹ .Cho đến một hôm trong chuyến hành quân ông không trở về được nưã. Người ta khiêng xác ông về. Cuộc đời đen tối bao trùm gia đình Trang từ đó. Sự giúp đỡ của bãn bè, cuả chính quyền không thấm vào đâu so với những chi tiêu đòi hỏi hàng ngày. Nàng đành phải bỏ dở việc học dấn thân vào cuộc đời, nuôi me nuôi em đi học.Trang nhớ lại bùi ngùi.

- Sau khi ba em mất rồi thì mẹ em như điên loạn, mà Trung em trai của em thì còn nhỏ qua mới đang học lớp chín còn em lớp mười hai. Chỉ mấy tháng sau là nhà sa sút quá, có khi không còn gạo nấu. Em đành phải đi làm. Nộp đơn ở công sở này, hãng nọ ai củng bảo chờ, đôi lúc em nghĩ quẩn, muốn liều mình buông thả xác thân. Đi làm cho Mỹ hay cho ai, làm bất cứ cái gì miễn sao cho mẹ và em khỏi đói. Cũng may là hồi em còn đi học hay hát hò trong ban văn nghệ nhà trường, nên khi trong tỉnh người ta tuyển lựa ca sĩ giúp vui cho các tóan tâm lý chiến, em bạo dạn nộp đơn thi và được chọn. Dần dần em thấy rằng cứ đi trình diễn theo các toán giúp vui ở các tiền đồn cũng có quá nhiều cái phức tạp cho một người con gái. May mắn lúc bấy giờ em hát cũng có nhiều người thích nghe nên khi em xin vào làm cho quán nhạc này người ta không từ chối.

Hiếu lại mỉm cưoi đùa giỡn.
- Em hát thì nhất rồi, ít ra đối với anh tiếng hát của em không có ai so sánh nổi. Này anh hỏi thực chắc có nhiều cây si trồng trước nhà em lắm phải không?
Trang ngạc nhiên.
- Cây si, nhà em có trồng cây si nào đâu?
-Em không biết thực à. Mà chắc là em không biết thực. Ý anh muốn nói chắc là em có nhiều người theo đuổi si mê lắm phải không.
Trang cừơi hồn nhiên.
- Theo đuổi thì dĩ nhiên có nhiều nguời theo đuổi, nhưng mà si mê thi chắc là không. Mà làm sao em biết đuợc . Có nhiều ông đáng tuổi ba em cũng nhất định phải đón đưa em cho bằng được, anh anh, em em nghe tình tứ lắm -Trang lại cười- không biết khi gặp má em thì ông ấy xưng hô ra làm sao.

Hiếu cũng cười theo.
- Thì cứ gọi má má con con có sao đâu, như hồi sáng anh quên gọi đó.
Trang đỏ hồng đôi má vì e thẹn , nàng hỏi lại.
-Anh quên thực hay chỉ gỉa vờ quên.
Hiếu vẫn tinh nghịch nhìn Trang.
-Cả hai.


Hai người lại cười vang cùng sóng biển. Họ cảm thấy gần gũi và cần nhau quá. Hiếu kể cho Trang nghe bao nhiêu thứ chuyện đã xẩy ra trong đời chàng. Từ những cơ cực đáng cay trong thời thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Cả lần điên cuồng lúc Tri ngã xuống ngay truớc mắt, khi hai thằng vưà mới toan tính chuyện tương lai. Trang cúi đầu, nép bên vai Hiếu, tin cậy trông chờ sự chở che êm ái. Họ hòa tan cùng trời mây, sóng nước cho đến khi thuỷ triều dâng cao, cả hai cùng ướt đẫm trong hạnh phúc chợt mới vừa tìm thấy.

Đêm hôm đó Hiếu ngồi lặng yên trong một góc phòng trà, lắng nghe Trang hát cho đến khi tiếng nhạc khuya không còn nưã, hai người dìu nhau về trong đêm vắng. Trang bỗng lo sợ khi nghĩ đến ngày mai Hiếu phải trở về đơn vị. Mà Hiếu thi cũng không đủ can đảm rời xa Trang nữa. Bà mẹ và cậu em cũng quyến luyến, thuơng mến chàng. Hiếu nấn ná ở lại Nha trang hơn hai tuần lễ. Đã quá hạn ghi trong sự vụ lệnh bao nhiêu ngày, mà ngày nào cũng như ngày nấy, Hiếu không đủ can đảm dứt aó ra đi.
Hơn nưa tháng sau thì Hiếu không còn ở thêm được nưã. Chắc chắn giờ này đơn vị đã báo cáo chàng đào ngũ. Mặc kệ Hiếu vẫn muốn ở lại cho dù phải ra sao đi nưã. Thế nhưng Trang lại sợ. Cứ nghĩ đến những ngày tháng tù tội lê thê sẽ đến với chàng nếu hai người cứ ở bên nhau làmTrang sợ hãi, đau lòng. Nàng khuyên nhủ -Thôi, nên về lại dơn vị đi anh. Rồi cũng có ngày nào đó, có dịp em sẽ đi thăm anh. Yêu anh em sẽ chờ anh. Chỉ một mình anh.

Hiếu tin lời nàng. Nhưng chàng muốn đi xa hơn bằng những lễ nghi ràng buộc giưã hai người. Mai mốt đây trong một góc núi, có một ngưới vợ mà nghĩ tới có vẻ chắc hơn là một người tình. Đành rằng trong tình yêu không nên toan tính, nhưng mà lo lắng trước thi cũng không thừa. Nghĩ thế nên chàng muốn ngỏ ý cùng mẹ Trang xin cho hai ngừơi làm một lễ đính ước đơn sơ . Suy đi tính lại mãi mà Hiếu vẫn cứ ngại ngùng.
Hiếu đành từ giã Trang và gia đình nàng về lại đơn vị. Chàng rất vui với lời thề hứa của Trang. Cũng may cho Hiếu, dù đơn vị đã báo cáo vắng mặt bất hợp pháp nhưng chưa tới ngày ra báo thị tầm na, nên còn điều chỉnh đựơc. Chàng giữ đúng những gì đã hứa với Trang, lên ban 1 để làm đơn xin cưới vợ.

Buổi đầu tiên, khi nhận đươc giấy của đồn Quân cảnh Nha trang gửi tới điều tra để cho phép kết hôn đã làm cho Trang vui mừng muốn rơi nứơc mắt. Những cánh thư dài chứa đầy nhung nhớ gửi đi, về làm nặng cả hành trang người bưu tín viên đơn vị mà cũng chưa nói hết tấm lòng, chưa chở đủ niềm thuơng, nỗi nhớ.

Thóang qua mà đã gần một năm trời. Thọat tiên Hiếu bị phạt không được đi phép trong sáu tháng. Rồi có một lần đã cầm giấy phép trên tay, chờ mãi chuyến bay chẳng có. Hiếu không dám đi đường bộ đành phải quay về. Bây giờ thì Trang lặn lội lên đây để thăm chàng. Con đường càng gieo neo gian khổ bao nhiêu Hiếu càng lại thấy thương nàng bấy nhiêu. Đúng như câu ca dao ngày xưa...Thương anh mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo em cũng qua. Thì Trang cũng trèo đèo vượt suối để tìm đén tiền đồ âm u hoang dã này, cho dù là trên những chuyến bay, nhưng mà là những chuyến bay thơi chinh chiến, còn nguy hiểm và mệt nhọc gấp mấy mưoi lần phải vượt suối qua sông, như những nàng chinh phụ ngày xưa.

* * * * *

Tiếng ngáy cuả người lính mang máy truyền tin đã cắt đứt niềm mộng mơ của Hiếu. Chàng quay lại đá nhẹ vào chân nó. Hắn hốt hoảng choàng ngay dậy hỏi .
- Máy bay phái đoàn tới rồi hả ông thầy.
- Tới đâu mà tới, mẹ, lúc nào mày cũng ngủ. Đi phục kích mà ngủ ngáy kiểu này thì có ngày chết sớm. Tự nãy giờ thiếu úy Hải có gọi tao không .

Nói xong Hiếu mới nhận ra rằng mình vô lý. Nó đã ngủ say như chết thì còn biết trời trăng mây nước gì. Chàng liếc nhìn đồng hồ đã hai giờ hai mưoi lăm phút . Có lẽ bây giờ Trang đã ở căn cứ Hà thanh. Từ Hà thanh bay đến Ba tơ chỉ mất khỏang ba mươi phút. Còn từ Ba tơ bay đến Gia vực thì quá gần, chỉ độ mười phút là cùng. Con đuờng Ba tơ Gia vực những người con buôn thường hay đi bộ vì có mười tám cây số đưòng chim bay. Đi bộ doc theo dường mòn dưới suối thì chỉ mất độ bốn tiếng . Thốt nhiên chàng nhớ lại lần hành quân giải tỏa áp lực địch bao vây căn cứ Ba tơ, chính cũng con đừơng ấy, chàng phải mất bốn ngày chẵn để đi đến đích. Đó là chưa kể bỏ lại bao nhiêu người nằm xuống dọc đường. Hiếu lẩm bẩm một mình
-Bây giờ mới hai giờ hai mươi lăm. Cứ cho là vừa bay vừa nghỉ, chắc độ năm giờ là mình sẽ gặp Trang.

Chàng vừa định bảo người lính truyền tin sang tần số giải toả để gọi cho Hải thì máy đã rè rè tiếng gọi cũa Tiểu đoàn.
-Trùng dương ,Trùng dương . Đây Thái duơng gọi
Đang mơ màng Hiếu bỗng giật mình tỉnh hẳn. Chết mẹ. không biết có chuyện gì mà Tiểu đoàn trưởng cần gặp ngay mình. Hay là thằng một đang đụng nặng ngoai kia cần mình ra tiếp viện. Lạy trời không phải thế để cho con gặp được vợ chưa cưới của con.

Hai thầy trò chui ra khỏi bụi sim bên bờ sông đi băng ngang qua một vạt đất dài, chạy dọc theo bên hông căn cứ . Có hai con đường mòn trải đá song song. Đó là phi trường quân sự của Tiểu đoàn trong nền đất cứng. Hiếu hỏi người lính mang máy đi theo.
-Từ hôm qua đến giờ mày có nghe tin tức gì về đại đội một của Thiếu úy Nở ra sao không?
-Có mẹ gì đâu, ông thày. Ông biết tính thiếu úy Nở qúa mà. Đụng phải mấy thằng du kích là ông ấy la lên như đã gặp phải cả sư đoàn của địch không bằng.
-Tao cũng mong là vậy. Lạy trời tiểu đoàn đùng bắt mình đi để kéo ông ấy về. Tao đang chờ bia lên mà phải đi thì xui không để đâu cho hết. Cả năm nay không gặp nhau rồi.

Tới sân tiểu đoàn,Hiếu ngạc nhiên thấy mọi người đông đủ cả. Từ thiếu tá tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, sĩ quan tham mưu đến mấy ông đại đội trưởng không bận hành quân như chàng. Ai nấy đều cười nói vui vẻ, không có vẻ gì là họp hành khẩn cấp. Hiếu đưa tay chào tất cả mọi người, ngạc nhiên thấy ai cũng chăm chú nhìn chàng. Hải cười cười bảo Hiếu.

-Mọi người có mặt tại đây dể chào đón người đẹp cuả mày lên thăm tiền đồn. Tối nay làm gì thì làm đừng có sập hầm là được.
Hiếu tưởng Hải chỉ đuà. Nhưng không, rõ ràng là mọi người đều nhìn về phía chàng trêu chọc.

Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mời tất cả mọi người vào phòng họp. Ông vui vẻ tuyên bố.
- Hôm nay tiểu đoàn mời tất cả các đại đội và các ban lên để đón tiếp phái đoàn cuả Đại tá Chỉ huy trưởng sẽ lên thăm tiền đồn và dùng cơm chiều với chúng ta. Đặc biệt trong kỳ này có vợ chưa cưới cuả thiếu uý Hiếu cũng tháp tùng phái đoàn lên đây thăm. Đây là một hân hạnh đặc biệt cho tiểu đoàn . Xin chúc mừng thiếu uý Hiếu. Chút nữa đây đề nghị các đại đội cho coi lại vấn đề phòng thủ, có thể đại tá sẽ đi thị sát các công sự chiến đấu. Các ban cho nhân viên coi lại hồ sơ, có thể trả lời ngay mỗi khi được đại tá hỏi đến. Thiếu úy Hải cho coi lại mấy cột ăng-ten, ít ra trong phạm vi gần, chúng ta có thể liên lạc với tiểu đoàn 69 ở Ba tơ bằng máy PRC25....

Tiếng người chỉ huy đều đều nhắc nhở nhưng nà Hiếu có nghe thấy gì đâu. Bao nhiêu náo nức bao nhiêu hồi hộp được gặp mặt Trang chiếm trọn cả buồng tim, đang giao động mãnh liệt của chàng. Ngay cả những cái nhìn chia xẻ niềm vui, những cái nháy mắt trêu chọc của bạn bè Hiếu cũng chẳng còn nhìn thấy. Mặc kệ ai nói ai cười, chàng cứ đắm mình vào những giấc mơ mà chốc nưã đây sẽ thành sự thực.

Bỗng nhiên người hạ sĩ quan phụ ta truyền tin băng ngang sân cờ đi vào phòng họp. Thiếu úy Hải đứng ngay lên xin phép đi ra ngoài vì biết chắc có tin tức gì quan trọng. Một lúc sau Hải quay vào nói lớn.
- Phái đoàn đại tá chỉ huy trưởng vừa đáp xuống Batơ. Đại tá cần gặp ngay thiếu tá có công chuyện khẩn.

Thiếu tá tiểu đoàn trưởng vội vã đứng lên rời phòng họp đi ngay. Hiếu cũng đứng ngay dậy đi theo với hy vọng là sẽ có dip được nói chuyện với Trang bằng máy PRC25 vì nàng đang ở quá gần. Hải thấy Hiếu đi theo, biết là chàng đang sốt ruột nên hắn hét thằng đàn em vác máy PRC25 lên nóc hầm, tự động bật qua tần số riêng mà chỉ Hải với sĩ quan truyền tin của tiểu đoàn 69 ở Batơ biết được, gọi ơi ới một hồi. Đầu giây bên kia có tiếng trả lời Hải nhờ luôn.

Phiền ông mời giùm cô Trang đang đi theo phái đòan đó lên máy nói chuyện với chồng đang đợi ngay đây.

Nói xong hắn đưa ống liên hợp cho Hiếu rồi nháy mắt trêu chọc. Hiếu mỉm cười cảm ơn bạn rồi áp ống nghe vào tai chờ đợi. Chàng ra hiệu cho thằng lính mang máy tự nãy giò vẫn đợi ngòai sân ngồi xuống bên cạnh. Rất lâu, có đến chừng mươi phút Hiếu mới nghe thấy tiếng Trang ở đầu dây bên kia, giọng lả đi vì mệt nhọc
-Anh ơi, em nghe mấy ông sĩ quan trong phái đoàn nói là không bay lên Gia vực mà phải về ngay có chuyện cần.
Hiếu nghe xong như trời đất lở. Chàng không tin ở tai mình, hỏi lại.
-Sao sao ?. Em nói sao? Sao mà không bay lên đây nưã?
Giọng Trang run run như muốn khóc. Mà có lẽ nàng đang khóc
-Em có biết gì đâu, chỉ nghe mấy ông ấy nói thế. Cả ngày hôm nay bay nhiếu em mệt quá.
Hiếu cuống cuồng tìm Hải hỏi thăm nhưng Hải đã bỏ vào hầm truyền tin với Thiếu ta tiểu đòan trưởng tự lúc nào. Chàng hét thằng lính mang máy.
-Hải. Ông Hải đâu rồi. Mày đi kiếm ông Hải về đây cho tao mau lên.
Thiếu úy Hải đang ở trung tâm truyền tin với thiếu tá. Em đâu dám vô
Hiếu chợt nhớ ra người lính mang máy nói đúng. Lệnh của tiểu đoàn không cho các binh sĩ và hạ sĩ quan được vào trung tâm truyền tin nếu không được phép. Có lẽ chàng phải đích thân vào hỏi xem sự thể ra sao. Trời ơi sao mà cuộc đời chàng có nhiều những bất ngờ không may đến thế. Không biết làm sao hơn chàng đành an ủi Trang vẫn chờ ở bên kia đầu máy.
-Em, em ơi, chò anh một chút, anh đi hỏi thăm thêm tin tức may ra có chuyến bay nào khác từ Ba tơ lên đây, anh sẽ nhờ tiểu đòan gửi em lên đây.
Đầu dây bên kia tiếng của Trang ngoan hiền và chịu đựng.
-Dạ, dạ, em sẽ chờ dù bao lâu cũng được, cho đến khi mình gặp lại nhau. Như vậy thì em sẽ không theo phái đoàn về lại Đà nẵng hả anh. Người ta có cho em ở lại đây không?

Hiếu cũng chẳng biết trả lời sao khi chàng chưa biết một tí gì về những đổi thay. Chàng đành cúp máy rồi bước vội vào phòng tryền tin nằm ngay sát cạnh trung tâm hành quân. Đại úy trưởng ban ba vừa thấy chàng vội chỉ ngay về phía ba bốn ông sĩ quan đang đứng vây quanh ông tiểu đoàn trưởng đang nói trong máy với gương mặt vô cùng nghiêm trọng.
Có chuyện lớn tới nơi rồi.
Hiếu bước vào đúng bên cạnh ông tiểu đòan phó. Không khí căng thẳng và nghiêm trọng đến độ chàng hiểu rằng không nên hỏi bất cứ một chuyện riêng tư gì trong lúc này. Hải đang ngồi ngay bên cạnh tiểu đoàn trưởng đang cố gắng mở ngay những công điện khẩn. Thôi đúng la có chuyện lớn rồi. Hiếu chán chường và bất cần quay trở ra, chàng cảm thấy mình bất lực không còn muốn phấn đấu mặc cho cơn lốc chiến tranh dẫn dắt đi đâu. Bỗng người tiểu đoàn trưởng gọi ngay chàng lại, thông cảm và tội nghiệp.

-Ngày mai sẽ có nhiều chuyến trực thăng từ Ba tơ đổ quân lên đây. Nếu ông muốn thì bảo cô ấy chờ. Tôi sẻ gửi thiếu tá Sĩ đêm nay, ngày mai nhờ cho cô ấy theo chuyến trực thăng sớm nhất, có thể hai người sẽ gặp được nhau. Tất cả mọi người chờ đây tôi sẽ phổ biến ngay những lệnh mới nhất phải được thi hành ngay.
Nói xong ông lại chăm chú chờ nghe trong máy. Hải trở lên nóc hầm cố gắng gọi Trang nhưng không thấy ai trả lời. Có lẽ người ta không thể bận tâm nhiều đến một chuyện riêng tư quá tầm thường vẫn xẩy ra hàng ngày trong đời lính. Còn biết bao chuyện phải làm để giữ gìn mạng sống của con người, để chiến thắng thì chuyện một cô gái đi thăm chồng chưa cưới có gì là quan trọng, để phải mất thì gìờ. Hiếu vẫn kiên nhẫn goi mãi đến hơn mười phút sau, đầu dây bên kia mới có tiếng trả lời cuả người lính truyền tin.

-Thẩm quyền Hông hà Đông bắc của Gia vực đó hả. Từ nãy giờ cô ấy vẫn chờ đây.
Một lúc sau tiếng Trang mới vang kên ngập ngừng.
-Anh , anh đó hả , có biết chuyện gì chưa anh. Mình có thể gặp được nhau không.
-Anh cũng chưa biết có chuyện gì. Nhưng mà ngày mai sẽ có nhiều chuyến bay từ Batơ lên đây. Ông tiểu đoàn trưởng của anh sẽ gửi em đi chuyến bay sớm nhất. Mình có thể gặp đuợc nhau. Em có nóng lòng gặp anh không.
-Em chỉ cầu mong được thế.

Hai người đang nói chuyện bỗng nhiên Hiếu nghĩ đến lời của ông Tiểu đòan trưởng vưà nói làm chàng thấy sợ. Không biết chuyện gì xẩy ra nhưng chắc là chuyện lớn .Đời lính nào ai biết chắc được tương lai. Hay là mình nên baỏ Trang trở về. Điều kiện sống ở đây đâu có thích hợp cho những cô gái thị thành nêu chẳng may hai đứa không được gặp nhau .
- Em à. Em còn đó không?
- Em đây.
-Hay là em theo phái đoàn trở về
-Sao vậy anh.
-Anh không biết được những gì sẽ xẩy ra. Anh không quyết định được tương lai của chính anh cuả chúng mình. Anh lo sợ cho em sẽ phải vất vả cực khổ trong những ngày mà mình không biết trước được là sẽ xẩy ra như thế nào.
Giọng Trang đầy nước mắt.
- Xẩy ra như thế nào em cũng sẽ chịu đựng được miễn là có anh và cho anh.

Hai người chỉ nói được với nhau chừng ấy thì vị tiểu đoàn trưởng đã điện đàm xong. Mọi người trở về phòng họp. Lần này cảnh vui đùa, cởi mở không còn nữa. Sự im lặng và chờ đợi làm không khí phòng họp thêm nặng nề. Hiếu là người ngồi xuống sau cùng. Chàng lờ mờ đoán ra những gì sẽ xẫy đén sẽ làm một sự đổi thay không nhỏ đối với tiểu đoàn. Thiếu tá tiểu đoàn trương trầm ngâm một lúc rồi lên tiếng.
-Tôi vừa nhận lênh trực tiếp của đại tá chỉ huy trưởng là chúng ta phải chuẩn bị ngay tối hôm nay. Ngày mai trực thăng sẽ bốc tất cã tiểu đoàn chúng ta để tăng phái cho trung đoàn 4 ở mặt trận Sa huỳnh. Chuyến viếng thăm của đại tá chỉ huy trưởng chiều nay sẽ hủy bỏ vì đại tá phải trở về tiểu khu Quảng ngãi để họp khẩn. Tiểu đoàn 69 ở Ba tơ sẽ tăng phái cho chúng ta một đại đội cộng thêm đại đội của thiếu uý Nở sẽ rút về trong ngày mai để giữ doanh trại. Tất cả các đại đội và các ban cho sắp xếp ngay trong tối nay để năm giờ sáng mai sẵn sàng có mặt tại phi trường chờ trực thăng tới bốc.....


Tiếng ban lệnh đều đều. Tiếng người hỏi, tiếng trả lời, tiếng xì xầm bàn tán. Những âm thanh quái ác đang như tra tấn tim óc Hiếu. Thảo nào mà ông tiểu đoàn trương an ủi rằng có thể hai người sẽ gặp được nhau. Ngày mai chỉ còn hy vọng là trực thăng chở Trang đến sẽ sớm hơn những chiếc trực thăng có nhiệm vụ bốc đại đội của chàng.
Đêm hôm đó là một đêm dài nhất trong đời Hiếu. Mấy lần chàng gọi Hải để nhờ liên lạc với Trang mà không gặp. Hiếu lấy máy ra gọi thẳng sang Ba tơ nhưng máy cuả chàng vì ở dưới lũng thấp không liên lạc được. Nhiều lúc chàng muốn liều mạng cùng mấy thằng lính leo tuốt lên đồi Đông bắc để may ra có thể gọi cho Trang nhưng suy đi nghĩ lại chà ng không dám vì tóan tiền đồn trên ấy không thuộc đại đội chàng. Họ đã căng mìn bẫy xung quanh mà mò lên thì mất mạng như chơi. Chàng giao công việc sắp xếp cho thiếu uý Vinh đại đội phó rồi leo lên nóc hầm, yên lặng kéo từng hơi thuốc.

Đêm trăng sáng, cả đại đội ồn aò làm việc trong đêm. Chắc giờ nay bên kia Trang cũng chưa ngủ được, và có lẽ cũng như chàng không ngủ được suốt cả một đêm. Cuộc đời Hiếu là những chuỗi ngày cô đơn và không bao giờ xuông xẻ. Chàng hối hận là đã kéo Trang vào để cùng chịu chung với số phận không may của mình. Từ ngày yêu nhau, dù chỉ gần gủi trong thời gian rất ngắn Hiếu cũng đã nhận biết được Trang ngoài sự duyên dáng mặn mà còn có đức tính hy sinh, hiền lành và cam chịu. Thượng đế đã thương ban cho chàng cái may mắn gặp được Trang nhưng thượng đế cũng lấy đi của chàng cái hạnh phúc được sống gần bên nàng.
Mờ sáng hôm sau đại đội đã sẳn sàng trên sân cỏ. Hai hàng đối diện nhau chờ trực thăng đáp xuống, Hiếu vẫn còn hy vọng trực thăng đổ quân từ Ba tơ xuống trước khi mình cất cánh bay lên để có thể gặp nàng dù chỉ là một phút. Khi trời vừa sáng rõ, ở phiá đông những cánh chim sắt nhỏ li ti cũng vuà xuất hiện rồi lớn dần cùng với tiêng xé gió của nhưng cánh quạt chém trong không khí. Từng chiếc một đáp xuông giưã những người chiến sĩ Biệt động Quân vai đã nẵng trĩu hành trang. Nhanh như gío cuốn, từng tóan chạy ào ào chui gọn vào lòng trực thăng . Cả một khối sắt khổng lồ nhấc mình lên khỏi mặt đất, móc trong không khí bay vút lên cao.
Đến chiếc thứ bảy thì Hiếu không còn chần chờ thêm được nữa. Như một cái máy chàng hô lên một tiếng " go " rồi cùng người lính mang máy chạy ào vào một bên trực thăng. Phiá bên kia bốn nguời xã thủ đại liên và súng cối cũng vưà gon gàng trong vị trí. Chiếc trực thăng nhấc bổng lên ngay, lấy lại thăng bằng lao trong không khí.
Bỗng từ phiá nam, chiếc trực thăng đầu tiên của đại đội tăng phái từ Ba tơ xuất hiện đang giảm dần cao độ, đáp ngay xuống vạt đất trống trước cổng tiểu đoàn. Hiếu tê điếng toàn thân khi nhận ra trong đám lính rằn ri, đồ đạc cồng kềnh một tà áo dài trắng muốt phần phật ôm sát thân hình người con gái đang ngơ ngác nhìn quanh tim kiếm. Chàng đứng ngay lên, ghé miệng sát tai người phi công năn nỉ.
-Vợ tôi vừa mới lên thăm, ở ngay dưới kia xin trung úy đáp xuống cho tôi gặp vợ tôi một chút.
Viên phi công vẫn lạnh lùng.
-Xin lỗi thẩm quyền không thể được. Tôi rất tiếc.

Hiếu như điên cuồng, chàng muốn nhảy ngay xuống nhưng khỏang cách bấy giờ đã khá cao. Rồi như mất trí, chàng liền rút ngay khẩu súng colt 45 ra toan kê sát vào màng tang người phi công bắt phi cơ đáp xuống. Nhưng rồi Hiếu kịp nghĩ lại ngay, không làm như thế được. Một tay nắm lấy thành phi cơ chàng thò đầu buông nửa thân hình ra ngoài đưa tay vâỹ, gào lên những âm thanh tuyệt vọng. Dưới kia Trang vẫn ngơ ngác kiếm tìm giưã một biển người đang vội vã trong lệnh hành quân. Viên phi công chắc là thương hại, cho trực thăng bay đaỏ lại một vòng lượn sát trên đầu mọi người, nhưng hình như Trang vẫn chưa hay biết. Bây giờ có lẽ vì mỏi mệt hay tuyệt vọng. Nàng đứng yên, bất động như pho tương giữa một rừng người đang bận rộn cho chiến tranh. Bỗng Hiếu chợt nghĩ ra một chuyện, chàng quay lại bảo hai thằng tà lọt.
-Mở balô tao ra, lấy cho tao cái gói thư trong bọc ny lông.

Trước sự ngạc nhiên của mọi người, chàng mở ra những phong thơ được gói ghém kỹ càng. Có hơn ba trăm lá thơ của gần một năm trời chưa thấy mặt nhau . Hiếu xé ra tan nát rồi tung ra ngài. Những cánh thơ tình chở biết bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ bay trong gió lộng như những cách hoa khổng lồ xoè nở trên trời. Chàng hy vọng rằng Trang sẽ thấy, sẽ hiểu được lòng chàng đang đớn đau, rách nát như những cánh thơ tình đã bị xé ra, rơi lả tả trên không.

Dưới kia Trang đã thấy.Với gương mặt đầm đià nước mắt nàng ngước lên nhìn chiếc trực thăng tung ra những cáng hoa giấy nhiều màu. Trang nhận ra Hiếu với một nửa thân hình thò ra hẳn phi cơ, cố đưa tay ra vẫy. Nàng cũng đưa hai tay lên, hướng về phiá chàng như cố ôm lấy cả khoảng không gian có người mình thương mến. Gíó muôn phương hình như đang tụ về một điểm trong lòng nàng tạo thành những cơn bảo tố cuồng điên. Chiếc trực thăng bay lượn xa dần rồi mất hút, lẫn lộn trong đàn chim sắt chìm giữa bầu trời đầy mây trắng xoá

THẢO NGUYÊN
।com/">http://tapchicadao।com/