Friday, July 31, 2009

NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN
NHA-TRANG
Phạm Tín An Ninh (Vương Quôc Na-Uy)
.
Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi.
Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
.
Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà.
.
Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.
.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộï của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay. Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưởng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
/.
Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.
.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
.
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.
.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.
.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?
.
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.
.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.
.
Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.
.
Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.
.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói vơiù tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.
.
Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.
.
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
.
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh
– người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”
.
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
.
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.
.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.
.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con. Tôi ngạc nhiên : - Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh. Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
.
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
.
- Anh không còn bạn bè ?
.
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.
.
Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh .
.
Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.
.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng ván, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
./
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
.
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
.
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.
.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.
.
An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.
.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.
.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.
.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là ngưỡi thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.
.
Ngày 2/5
.
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
./
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài
. …….
.Ngày 20.6
.
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng
.
Ngày 08/7
.
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình..
.
Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
.
Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.
.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.
.

Thursday, July 30, 2009

Bài Viết : VẠN LÝ THĂM CHỒNG
Và bài hát : CÁI CÒ.

Cái Cò - Băng Tâm



Thân tặng những người vợ : Quân ,Dân, Cán ,Chính VNCH ,có chồng bị cầm tù dưới chế độ Cộng Sản khát máu.

"Cánh cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi"


Cái cò

Cái lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Thương em dạ sắt lòng son
Một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng
Bàn tay ai tốn vàng ròng
Bàn tay nay nứt máu hồng tuông rơi
Nhìn nhau muốn nói vạn lời
Mà tim se thắt rối bời tâm cang
Cánh cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi
Cánh cò ngày nay xuống biển tìm mồi
Ngô sắn, khoai sùng ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi

Cánh cò lặn lội bờ ao
Bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con
Thưong em lội suối trèo non
Dùng gánh, tay may nuôi con thay chồng
Biển dâu đã hoá ruộng đồng
Nhà tan nước mất vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không vê
Vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang

Cánh cò ngày nay mơ từng chén gạo
Giọt máu đào dành để bán nuôi con
Cánh cò ngày nay gối mỏi chân mòn
Vai gánh vai gòng đi thăm chồng cách núi ngăn non

Cánh cò lặn lội bờ đê
Đói khổ trăm bề nưóc mắt đầy vơi
Thương em tuổi mới đôi mươi
Vì cơn quốc biến hoang trôi phương trời
Chiều trên quốc lộ kinh hoàng
Chồng em tuẩn tiết máu tràn như sông
Chồng em chí sĩ anh hùng
Vi dân chiến đấu thác cùng muôn dân

Cánh cò ngày nay đã thành góa phụ
Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con
Muốn về làng quê, quê cũng không còn
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng chướng khí lam sơn

Cánh cò lặn lôi bờ mương
Vét cống đào đường gió rét lạnh căm
Chồng em giặc bắt biệt tăm
Tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào
Một đêm gió lạnh mưa vào
Đưọc tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục tù
Khổ sai đói rét Cộng thù giết anh

Cánh cò một thân lên vùng đất lạ
Đến trại tù tóc vấng vành tang
Đến từng mộ hoang máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng không mộ phần không khói không nhan !!!
Đau xót cho chồng không mộ phần,không khói không nhan !!!......


Vạn Lý Thăm Chồng

Thu Thuỷ

(Thương tặng các bạn gái đồng cảnh ngộ)

Ðã gần 19 năm sống tha hương, mỗi lần nhìn mưa phùn rả rích lất phất rơi đem theo cái lạnh cắt da, mình cảm thấy lòng se thắt lại, nhớ hoài kỷ niệm thật buồn khi cùng ba con nhỏ dại băng rừng vượt suối ra tận Thanh Hóa tiếp tế lương thực cho anh Trường. Chuyến đi nhiều gian nan ấy hằn sâu trong tâm khảm mình mặc dầu đã 21 năm rồi từ ngày bốn mẹ con dắt díu khệ nệ khiêng từng thùng thiếc bao bị đệm cả hơn trăm ký lô đồ ăn lên tàu Thống Nhứt ra Thanh Hóa.

Mình còn nhớ rõ buổi chiều ấy thật ảm đạm, nắng đã tắt từ lâu như tia hy vọng mong chồng được thả về đã tiêu tan, lòng nặng trĩu âu lo, mình cùng cậu Thu em trai của chị Tố Nga chuyển các thùng đồ ăn nặng trĩu lên tàu (chồng chị Tố Nga cùng ở chung trại Thanh Hóa, chị cảm thông mình đơn chiếc yếu đuối nên cho em trai ra ga Lê Lai phụ mình). Sau khi đã kiểm kỹ lại các thùng thiếc và chắc chắn không cái nào bị mất mát, cho các con ngồi vào toa xong, mình vội vã cám ơn cậu Thu, lúc ấy cũng hấp tấp nhảy mau ra khỏi toa vì một hồi còi tàu rú lên, báo hiệu tàu sắp rời ga. /

Lần đàu tiên trong đời được đi xe lửa, ba con mình ngạc nhiên lạ lùng mở to mắt nhìn các trẻ nhỏ cùng lứa tuổi đang nô đùa trong các dãy nhà san sát cạnh đường rầy dọc theo xóm Bàn Cờ, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Bình Triệu. Mặc dầu mình đã nói trước với các con là bốn mẹ con sẽ đi thật xa ra Bắc thăm Ba, đem đồ ăn tiếp tế cho Ba nhưng hai đứa con trai còn quá nhỏ, trí óc non nớt không mường tượng nổi rằng đây là cuộc hành trình gian nan dài cả 1200 cây số. Chỉ có con gái đầu lòng Thủy Tiên khôn lanh và lớn hơn, mơ hồ cảm thấy không phải là một chuyến đi bình thường nhiều thú vị như khi xưa cùng đi với cả gia đình ra Vũng Tàu hoặc lên Ðà Lạt. Thủy Tiên thu mình lại, ngồi rúc vào một góc băng, cặp mắt xoe tròn, lo âu nhìn các hành khách xa lạ chung quanh. Sơn, Tùng vô tư lự và hiếu động, ngồi không yên, tò mò chạy lăng xăng trong toa. Mình xót xa nhìn các con thầm cầu nguyện cho bốn mẹ con được bình an suốt cuộc hành trình. Ðêm đến bốn mẹ con co rút ngồi sát vào nhau, cố dỗ giấc ngủ một cách khó khăn. Ðùi mình tê cứng, sưng húp lên vì muốn cho các con được ngủ thoải mái, mình luân phiên kê đầu mỗi đứa trên đùi mình, để các con đỡ mệt. Lưng mình đau rả rời vì ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ bất động. Ngồi kiểu nầy suốt ba ngày ba đêm chắc chết mất, mình nhủ thầm, ngao ngán và mệt mỏi. Liếc mắt thấy các người đồng hành mạnh ai nấy tìm một khoảng trống nhỏ dưới chân hoặc ngay cả lối đi chật hẹp để trải tấm nylon nằm cho đỡ mỏi lưng, mình cũng bấm gan trải đại các tờ báo dưới băng, kêu Sơn Tùng thu mình co chân lại nằm đỡ, nhờ vậy Thủy Tiên có thể tạm thời nằm dài ra trên băng cây (có đến ba người lớn ngồi chen chúc trên một băng). Mình thì chịu đựng hết nổi, lăn kềnh ra ở lối đi, đắp vội cái khăn quàng cổ lên mặt để bụi cát từ giày dép các hành khách qua lại không rơi vào mắt.

Chưa bao giờ mình thấy thấm thía câu "buồn ngủ gặp chiếu manh" như lúc nầy. Bốn mẹ con nằm được "thoải mái" hơn, đỡ tê cóng chân tay, nên mệt mỏi ngủ thiếp đi, đến sáng lúc nào không hay, mặc dầu trong đêm bao nhiêu chân thản nhiên bước qua người và đầu cổ mình. Thiên hạ nằm la liệt : người lớn thì tràn ngập lối đi, trẻ con nhỏ người hơn cố chui rúc xuống gầm băng, các bộ đội quen ngủ võng trong rừng thì treo võng nằm vắt vẻo như vượn, đong đưa qua lại tỉnh bơ trên đầu hành khách. Quang cảnh trong toa thật hỗn độn chưa từng thấy : tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tằng hắng, tiếng trẻ nhỏ la hét khóc ban đêm, xen lẫn tiếng đập ruồi muỗi chát chúa, chưa kể lâu lâu nước tiểu trẻ con đái dầm ban đêm chảy dài loang ra sàn thối tha dơ bẩn. Trời hừng sáng bốn mẹ con lồm cồm ngồi dậy, áo quần nhớp nhúa hôi hám, phờ phạc người, thấy ai nấy đều lấm lem, lấy lon hoặc ca súc miệng, phun ra cửa sổ toa, làm vệ sinh lau mặt ngay tại toa.

Ban đầu còn ái ngại, sau đó mình cũng quen đi, thản nhiên cho các con súc miệng như mọi người. Tàu ngừng ở các ga lẻ ở miền Trung, cảnh buôn bán tấp nập vô trật tự : ai cũng hấp tấp mua bán vì sợ tàu chạy bất thình lình, không kịp đưa hoặc thối tiền.Thôi thì tiếng la ó cãi vả mắng chửi chí chóe nổi lên, đinh tai nhức óc. Thủy Tiên, Sơn, Tùng mừng rỡ vì được dịp ăn các món cháo lòng, miến gà, cơm tấm bì, cơm sườn, hột vịt lộn, bán dọc theo các ga.

Ðã năm năm nay từ sau 75, quen ăn uống kham khổ, các con ngạc nhiên thấy lần nầy mình cứ mua tới tấp đồ ăn, đâu có ngờ rằng sở dĩ mình phung phí là mình lo các con mệt đói, ngả bệnh không đủ sức để tiếp tục băng rừng vô trại. Mình thì ngao ngán ăn uống qua loa cho có sức cầm cự, nôn nóng mong sao cho tàu mau đến Thanh Hóa, chán chường nhìn thắng cảnh qua cửa sổ mặc dầu dọc đường có biết bao bãi biển xanh biếc và núi non hùng vĩ của miền Trung.

Sau ba ngày trời ròng rã sống trong địa ngục hôi hám của toa xe chật chội dơ dáy, bốn mẹ con đến Thanh Hóa. Lại một phen chật vật, chen lấn, mồ hôi nhễ nhãi, bốn mẹ con mới khệ nệ khiêng đủ các thùng thiếc nặng cồng kềnh xuống ga. Thật là "trầy da tróc vảy" vì chỉ cần sơ hở một chút thì bị mất cắp đồ hoặc bị móc túi ngay. Sơn mới mười tuổi đầu hơn còn Tùng chưa đầy chín tuổi, nhưng đã tỏ ra bảo bọc che chở má và chị yếu ớt, giành xách các bao bị đệm to. Nhìn các con nhỏ bé khẳng khiu oằn vai dưới gánh nặng mình đau lòng tủi thân vô cùng. Vì đâu mà nên nỗi nầy? Mình cắn răng để khỏi bật khóc, mím môi nhìn lên trời xanh, thầm cám ơn ơn Trên đã phù hộ bốn mẹ con đi đường bình an vô sự.

Ðường vào trại xa cả năm chục cây số mà đã xế chiều hết xe đò đi ngang trại, nên bốn mẹ con đành phải vào tạm trú ở nhà trọ gần ga. Nói là nhà trọ, nhưng thật sự chỉ là những tấm phên tạm dựng lên sơ sài, trong có nhiều giường tre ọp ẹp cho khách mướn nghỉ đêm đỡ, đợi sáng sớm hôm sau lấy xe đò vô trại. Bốn mẹ con kinh hoàng chui rúc nằm trên chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo. Mình lấy các thùng thiếc bao bị sắp xếp lại, và tấn xung quanh cái mùng rách nát vá víu cả trăm lỗ, vì nghe nói đồ ăn để ngoài mùng sẽ bị chuột cống chiếu cố.

Ðêm đó mình phải đương đầu, dương Ðông kích Tây với lũ muỗi đói vo ve bay tới tấp, xuyên theo các lỗ rách của mùng. Nhưng hãi hùng nhứt là mục kích từng đoàn chuột cống kếch xù đánh hơi mùi đồ ăn, chạy lúc nhúc xung quanh các thùng thiếc y như những bóng ma trong các phim kinh dị. Nửa đêm, Sơn bị "Tào Tháo rượt", mình phải bấm gan rùng mình dẫn con ra nhà vệ sinh nhớp nhúa tận sau hè, tối om và thối tha. Hai mẹ con sợ hãi gớm ghiếc không dám nhìn cái thùng phẩn đầy dòi và ruồi nhặng, lại càng thêm rùng mình rợn xương sống khi trở về giường dưới bóng cây đa, với tàn lá âm u ma quái.

Tờ mờ sáng, mình giật mình vội đánh thức các con dậy để cùng nhau gom góp hành lý, khập khểnh khiêng lần ra bến xe đò gần đó, sắp hàng mua vé. Chen vai thích cánh với làn sóng người hỗn độn, nón lá rách bươm, mình mớỉ khổ sở giành giựt mua được vé xe đò vào gần trại. Sau khi chuyển được đồ đạc lên xe, mình thở phào ôm các con ngồi vào băng phía cuối xe. Mình tự phục thầm lấy mình là không hiểu có sức mạnh phi thường nào mà mình có đủ sức cùng các con khiêng lên xe cả trăm kí lô lương thực. Chiếc xe đò già nua sét rỉ, chậm chạp lăn bánh...

Gió mát buổi sáng tinh sương hiu hiu thổi, Thủy Tiên, Sơn, Tùng lim dim ngủ gà ngủ gât, vì đêm qua không được ngon giấc bởi lũ chuột và muỗi. Nhìn các con ngủ thơ ngây như thiên thần, mình cảm thấy ruột gan se thắt lại. Một ông lão nông dân ngồi gần thấy cảnh bốn mẹ con lặng lẽ nắm tay nhau, thu mình trong góc xe, tỏ vẻ ái ngại hỏi thăm. Mình bâng quơ trả lời qua loa, lòng tự ái không muốn ai thương hại. Lâu lâu đi ngang các ổ gà, xe giằng mạnh, tung xốc các hành khách ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Xe chạy độ một tiếng rưỡi thì ngừng trước một lều tranh được dựng bên đường, nơi điểm hẹn sẽ có xe trâu mỗi ngày từ trại ra đón các thân nhân trong Nam ra thăm nuôi trại viên.

Bốn mẹ con tụt xuống xe, quần áo xốc xếch đầy bụi bặm, mặt bơ phờ thiểu não. Mình vội kiểm lại đồ đạc, mừng rỡ thấy không bị mất mát hư hao vì trộm cắp và lũ chuột. Mình xoa đầu ba con khuyến khích khen "Các con giỏi lắm, đã phụ Má xách đồ ăn nặng cho Ba mà lại ngoan nữa. Ba sẽ rất mừng gặp lại các con và biết ơn Má con mình đã đem đồ ăn ra cho Ba". Thủy Tiên, Sơn, Tùng lặng lẽ không đáp, chỉ nắm chặt tay mình lại, lòng mình ấm lại, bao nhiêu nỗi nhọc mệt như tan biến, vì biết rằng bên mình còn có các con ngoan. Mình nhủ thầm : "Can đảm lên! Mình đã gần tới đích rồi! Ðường đi dầu có hiểm trở cách mấy, mình cũng không ngại. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa thôi! Cố gắng lên!" Ðúng như các chị bạn đi thăm nuôi trước đã nói : một lát sau tới giờ hẹn, một người đàn ông đánh xe trâu lù lù tiến ra lều tranh.

Bốn mẹ con mừng rỡ, lại một phen vất vả, chất đồ đạc lỉnh kỉnh lên xe, sau đó lầm lũi theo sau xe trâu. Con trâu già chậm chạp kéo chiếc xe. Tiếng bánh xe khô nhớt cứ cót két vang lên, người đàn ông thì lầm lì ít nói. Trời nắng gắt nhưng lạnh vì lúc ấy đã vào tháng ba. Bốn mẹ con bỡ ngỡ rảo chân bước mau theo xe, ba con chạy lúc thúc sát theo mình, ngây ngô chỉ chỏ cảnh vật, hỏi han lăng xăng chừng nào sẽ gặp lại Ba. Như người không hồn, mình im lặng nối gót theo các con, âm thầm thất thểu đi. Vô tư lự, Thủy Tiên, Sơn, Tùng hồn nhiên tung tăng chạy nhảy dọc theo đường mòn thích thú khi gặp các hoa dại tím mọc cạnh dòng suối con, ba đứa hái vài cành hoa buộc lại thành một bó nhỏ, nói với mình là để tặng Ba, làm mình càng xúc cảm, se thắt cả lòng.

Xa xa núi Lam Sơn mờ hiện ra và thấp thoáng kế bên là trại Lý Bá Sơ. Núi rừng tĩnh mịch âm u làm mình chợt rùng mình khi nghĩ đến các anh phải chôn vùi những ngày dài nơi sương lam chướng khí nầy, không biết ngày nào đoàn tụ với vợ con. Mình vội xua đuổi ý nghĩ hắc ám ấy, giựt mình khi nghe Tùng than mỏi chân quá. Mình vội bồng con lên, cố gắng lê bước theo xe trâu. Không hiểu nghĩ sao, người đàn ông lại lên tiếng ngắn ngủi "Chị cho cháu nhỏ ngồi đỡ một đoạn lên xe đi." Tùng mừng rỡ vội nhảy thót lên thùng thiếc ngồi trong lúc Thủy Tiên, Sơn lộ vẻ bất bình, trừng mắt nhìn Tùng. Mình thở dài chép miệng nói nhỏ với hai đứa lớn. "Thôi! Em nó còn nhỏ mà con!" Gần xế chiều, con trâu già phì phèo nước bọt tiến vào trại, bốn me con thiểu não lê gót theo, dép cứ bị sình ướt nhầy nhụa trên đường bám chặt thật khó đi. Thấy Thủy Tiên, Sơn bực dọc giựt mạnh dép lên than thở trơn trợt khó đi, người đàn ông cười khẩy mỉa mai nói: "Ðất nầy nó như thế đấy, cứ thích bám chặt mãi lấy người đi". Mình nhếch mép ngoảnh mặt nhìn nơi khác, chả buồn đối đáp. Trút tất cả các thùng bao bị vào nhà tiếp tân, mình cảm thấy như trút đi một gánh nặng trĩu đè lên vai mình suốt mấy ngày nay.Ðầy đủ đồ ăn tiếp tế và thuốc men đã được an toàn vô tận trại.

Mình mừng khấp khởi nghĩ nhờ cả trăm ký lương khô và thuốc men nầy mà chồng mình sẽ có sức khỏe để chống chọi với rừng thiêng nước độc. Trong nhà tiếp tân mới xây cất xong (oái oăm thay sau nầy mình mới nghe nói lại là nhà nầy do đội Xây dựng của anh Trường vừa xây xong chưa kịp lắp cửa nữa), ngoài bốn mẹ con còn có chị Lang từ Gò Công và chị Cao từ Thủ Thiêm ra thăm chồng trước mình một ngày. Hai chị đã được nói chuyện với chồng lúc trưa, nhưng trễ quá không còn xe trâu đưa ra đường cái đón xe đò về Thanh Hoá nên hai chị nán ngủ qua đêm đợi mai sáng về cho đỡ nguy hiểm. Nhìn nét mặt dàu dàu buồn của hai chị, mình cảm thông sâu xa nỗi buồn nhớ mong ấy. Khắc khoải đợi chờ, hăm hở từ trong Nam xuôi ra Bắc vượt ngàn dặm, băng rừng vượt suối, bất chấp hiểm nguy đang chờ đợi mình, để rồi được hội ngộ ngắn ngủi với chồng chỉ trong nửa tiếng, không được một cái nắm tay vội vã, chớ đừng nói chi một nụ hôn thắm thiết, còn gì thảm não cho bằng.

Cho các con ăn qua loa xong, mình ra tận phía sau, dắt các con đại tiện trong nhà vệ sinh nhỏ tạm thời được cất lên thật thô sơ và như mọi hố xí ở miền Bắc có cái thùng phân đầy dòi lúc nhúc. Hai đứa lớn kinh tởm, nhắm mắt nhắm mũi vội "ị" cho xong, chỉ có Tùng sợ té vào thùng phân, nhứt định nín không chịu vô cầu đầy ruồi nhặng thối tha. Mình đành buộc lòng để Tùng "ị" trên bờ gần ao sen và múc thùng nước giếng kế bên dội mạnh xuống ao. Sau ba ngày trên tàu không tắm gội, ba đứa nhỏ mình mẩy nhớp nhúa được mình kỳ cọ rửa ráy thơm tho, nên vừa lên giường xong là lăn kềnh ra ngủ ngon lành. Mình cũng vội vàng tắm gội sau đó vì ba ngày trời trong toa xe như địa ngục trần gian, mình cảm thấy bứt rứt ngứa ngáy khó chịu không thể tả. Ðêm xuống dần, tiếng chim bìm bịp kêu thật buồn bã, hoà lẫn với tiếng côn trùng nỉ non làm mình cảm thấy não nuột cả lòng. Ðưa mắt nhìn vào trại hẻo lánh phía xa xa, mình thầm nghĩ giờ nầy chắc anh Trường đã được báo có vợ con ra thăm nuôi, chắc anh cũng trằn trọc không ngủ được như mình.

Mình kéo cao cổ áo len, định đi ngủ, chợt thấy cánh cửa chưa được gắn nên phòng cứ mở toạc ra, gió lạnh ngang nhiên lùa vào, mình vội bàn với hai chị bạn cùng nhau kéo cánh cửa nặng trĩu chận đỡ ngang qua cho chắn bớt gió lại và cũng để phòng ngừa cán bộ liều lĩnh đột nhập vào như đã có tiếng đồn ở các trại kế bên.

Trời vừa hừng đông, mình còn chập chờn mệt mỏi trong giấc ngủ đầy mộng mị thì bị đánh thức nhỏm phắt dậy vì tiếng tru tréo lanh lảnh chát chúa của một nữ cán bộ bên tai : "Thế lầy là thế lào? Ai mà dám cả gan ỉa trên bờ ao như thế lầy? Ðể cho ông già Ðào phải đi hốt đồ dơ như thế?" (Ông Ðào là một tù nhân tự quản hình sự đã già). Mình điếng người chợt nhớ đêm qua trời tối nên mình sơ ý không thấy rõ để dội kỹ phẩn của Tùng xuống ao vì vậy mà còn rơi rớt vài "cục" trên bờ. Mình và các con rán nín cười khi nghe nữ cán bộ tiếp tục hét ỏm tỏi ngoài sân để chửi bóng chửi gió.

Nghe tiếng chân nhiều người dừng lại trước nhà tiếp tân, mình và hai chị bạn vội kéo lê cánh cửa gỗ qua một bên. Hên phước làm sao, đúng ngày đội xây dựng đang tụ tập điểm danh trước khi rã hàng lao động trước nhà tiếp tân. Các bạn anh Trường nhìn mình xì xào nói nhỏ : "Anh Trường ở phía sau hàng đó chị, chị thấy ảnh chưa? Một lát nữa chị sẽ gặp ảnh". Mình hồi hộp khi thấy bóng anh Trường thấp thoáng phía sau. Mình an tâm thấy anh lành lặn mạnh dạn tiến vào phòng tiếp tân, nơi đó có cán bộ chễm chệ lạnh lùng ngồi sẵn ở đầu bàn.

Bốn mẹ con lính quýnh ngồi phệch xuống ghế đối diện. Vợ chồng mình nghẹn ngào nói không ra lời, mắt nhìn mắt, cái nhìn thật sâu đậm thiết tha, nói lên sự chờ mong khắc khoải từ bao nhiêu năm dài. Ba con vội bíu lấy Ba hôn thật thắm thía. Anh cảm động xoa đầu ba đứa nhỏ, nghẹn lời. Anh chép miệng nhìn mình : "Sao Em ốm quá vậy? Em có sao không?" Mình ràn rụa nước mắt, chỉ biết siết bàn tay chai cứng vì lao động của anh. Tùng nhõng nhẽo quen vòi vĩnh nên sáng sớm hôm đó chưa ăn sáng, bụng đói cồn cào, được dịp mè nheo với Ba như ở nhà :

"Ba ơi! Con đói bụng quá!" Nhưng cán bộ dửng dưng, nhứt nhứt theo luật định không cho thân nhân ăn uống với trại viên, làm Tùng tiu nghỉu, phụng phịu oà lên khóc. Thủy Tiên, Sơn cũng oà lên khóc theo em như đưa đám ma, làm vợ chồng mình càng cảm thấy uất nghẹn. Anh Trường chỉ kịp hỏi thăm về sức khỏe, học hành của các con, còn mình thì lật đật hỏi anh về đời sống lao động ở trại, những câu hỏi thật nhạt nheo và rổng tuếch. Sau đó thì cán bộ lạnh lùng dõng dạc tuyên bố :

"Ðã nửa giờ qua rồi, cuộc thăm viếng đến đây chấm dứt! Nếu anh học tập lao động tốt thì sẽ được thăm viếng lâu hơn, có khi được cả ngày". Cả gia đình miễn cưỡng nói những lời tạm biệt, tha thiết dặn dò nhau giữ gìn sức khỏe và luyến tiếc bịn rịn chia tay, sau khi mình phụ chất các thùng ăm ắp đồ ăn lên xe "cải tiến" (xe cút kít có tay kéo như xe kéo trong Nam).

Mình thẫn thờ nhìn anh còng lưng đẩy xe nặng trĩu các bao bị đồ ăn đầy bụi đường và mồ hôi nước mắt của vợ con. Bóng anh khuất dần... tiếng kẽo kẹt của bánh xe hòa lẫn với tiếng khóc thút thít hờn dỗi của Tùng cứ xoáy mạnh vào đầu mình nhức nhối. Mình ôm đầu lảo đảo ngồi phệch xuống thềm đá. Thủy Tiên, Sơn vội rầy Tùng : "Nín đi, Tùng đừng khóc nữa, đừng làm má buồn nữa!" Mình ôm choàng lấy ba con, nghẹn ngào nhìn Tùng tha thứ. Chợt nhớ cả bốn mẹ con bụng đói meo, chưa ăn sáng, mình chạy vội ra sau bếp, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi, bỏ vào chút đỉnh bún Tàu còn sót lại trong bao hành lý, và nêm thêm chút muối tiêu bột ngọt. Bốn mẹ con đói quá, ăn ngấu nghiến ngon lành tô miến "thất nghiệp" nhớ đời đó. (Tiếc công lặn lội cả mấy ngàn cây số, nên mình dồn gởi tất cả cho anh Trường, chỉ để lại cho bốn mẹ con chút đỉnh bún Tàu và vài bịch mì gói ăn đỡ dạ thôi).

Ăn xong, bốn mẹ con tom góp đầy đủ hành lý để kịp theo xe trâu trở lại đường cái đón xe đò trở về Thanh Hóa. Lúc đó anh Trường đã trở ra để kịp tiễn đưa vợ con về. Giây phút biệt ly thật não nùng. Cả nhà bịn rịn, lưu luyến không muốn xa rời. Các anh bạn đang lao động chung quanh cũng ứa nước mắt ái ngại nhìn mình cùng ba con mọn thất thểu leo lên xe trâu. Anh Trường mấp máy môi nói : "Em và các con về bình yên!" Mình lí nhí ngậm ngùi run giọng : "Anh ở lại rán được mau về".Mình vốn ghét ba chữ "lao động tốt", tránh không nhắc đến.

Ba con vẫy tay luyến tiếc chào ba. Mưa phùn lại lất phất rơi, cái lạnh xé da cắt thịt : đúng là rét tháng Ba ở miền Bắc!! Cái lạnh lẽo ngoài trời không ghê gớm da diết đeo đẳng bằng cái lạnh cô đơn trong tâm hồn. Ngồi co gối trầm ngâm trên xe trâu, mình thẫn thờ như người mất hồn. Ðồ ăn, hành lý đã được chuyển đầy đủ vào trại, bận về thật nhẹ gánh, nhưng sao lòng cứ canh cánh nặng trĩu ưu tư. "Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương!" Mình bất giác rùng mình nhớ lại khi xưa có người quở trách bảo tại sao đám cưới hai đứa lại làm vào tháng bảy mưa ngâu, dễ bị chia lìa ngăn cách như Ngưu Lang Chức Nữ.

Ðường về xa dịu vợi, xe trâu lắc lư trên đường mòn gập ghềnh thả bốn mẹ con mệt nhoài xuống đường cái để lấy chuyến xe đò chót về Thanh Hóa. Tới đây mới vỡ lẽ : không thể nào mua vé tàu về Nam được, mà phải trở lộn ra Hà Nội mới hy vọng có vé về Sài Gòn. Mình thất sắc ngao ngán lo âu nhìn các con nhỏ dại lại phải cực nhọc một phen lặn lội nữa ra tận Hà Nội. Vé đi Hà Nội hiếm như vàng, muốn mua vé chợ đen cũng không có. Mình thất vọng bối rối, hoang mang không biết tính sao thì thời may có người mách bảo cứ năn nỉ ở quày vé nói có con mọn bịnh cần mua gấp vé về Hà Nội thì họa may mua được vé. May mắn thay thấy mình chạy thất thểu với ba con mọn đùm đề lôi thôi lếch thếch, người bán vé thương tình "nhín" được bốn vé cho bốn mẹ con. Như bắt được vàng, mình hăm hở kéo các con lên toa dành cho các người có con mọn liều lĩnh đi Hà Nội vì không còn cách nào khác. Tới Hà Nội, mình mừng rỡ gặp lại hai chị Cao và chị Lang cũng đang chờ mua vé về Sài Gòn.Ba chị em hỏi thăm nhau tíu tít và chen lấn rách cả áo, tóc tai bù xù mới mua được vé về Sài Gòn tối hôm đó.

Không biết làm gì cho qua thì giờ vì sân ga chật hẹp tràn đầy người, sợ lưu manh cướp giựt móc túi nên mình dẫn các con đi một vòng hồ Hoàn Kiếm và lấy xe điện "leng keng" xuống chợ Ðồng Xuân mua vài món lặt vặt, đem theo đi đường. Khí hậu Hà Nội lạnh hơn Thanh Hóa nhiều nên Thủy Tiên, con gái yếu đuối hơn, than lạnh và vì đi bộ nhiều nên cũng than mỏi chân. Mình vội kêu một xích lô đạp chở bốn mẹ con về ga trở lại sau khi sắp hàng dẫn các con vào ăn phở ở một tiệm nổi danh phố Nam Ngư cho ấm bụng và lấy sức lại vì ban sáng chỉ ăn một tô miến lõng bõng nước và muối tiêu.

Tối hôm đó bốn mẹ và hai chị bạn mừng rỡ nhảy lên toa tàu Thống Nhứt trực chỉ về Sài Gòn. Hành lý thì gọn ghẽ nhẹ nhàng, nhưng mỗi người mang nặng một tâm tư. Lần nầy thì các con đã quen cảnh hỗn độn và dơ dáy trên tàu nên ba đứa biết thân phận, mỗi đứa tìm một góc kẹt dưới băng, chui rúc vào như đàn chó con, co ro khoanh tròn mình lại ngủ. Một hồi còi tàu rú dài trong đêm tối...

Tàu chuyển bánh nặng nề, chậm chạp và uể oải, uể oải như tâm hồn mình, trống rỗng và chán chường.. Tiếng còi tàu lại rít lên trong bóng tối dày đặc. Mình mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại chập chờn thoáng thấy xa xa bóng anh Trường âm thầm mất hút vào trại, đâu đây như còn văng vẳng tiếng ba con thơ dại ú ớ trong mơ : "Ba ơi! Ba ơi!" Mình thiếp dần, thiếp dần... Chân tay rã rời. Con tàu vẫn lạnh lùng tiến trong màn đêm âm u như một bóng ma...

Thu Thủy

Vietnam Library Network


TRỞ VÊ ĐÂU TRANG


Wednesday, July 29, 2009


Magic Incridible. Transformation grand Prize win....(trở vê đâu trang)

Dấu hiệu hy vọng của Biển Đông yên bình?
25/07/2009 06:18 (GMT + 7)
.TuấnViệtNam)
.
- Dấu hiệu Hoa Kỳ tăng cường quan hệ ngoại giao với Ấn Độ và giúp đỡ đất nước này xây dựng năng lượng hạt nhân. Và việc Ngoại trưởng Clinton đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với ASEAN mà ông Bush từng từ chối trước đây phải chăng đó là dấu hiệu của hy vọng cho một Biển Đông yên bình? - Ailien T. Tran.
.
Xung quanh những tranh chấp về chủ quyền biển đảo ở khu vực Biển Đông, đã có rất nhiều những bài viết bày tỏ quan điểm, ý kiến của giới học giả trong và ngoài nước.
.
Để đảm bảo tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của độc giả Ailien T. Tran hiện đang là nghiên cứu sinh của chương trình Fulbright Fellow 2009 và trước đó là Đại Học UC Berkeley.
.
Để giải quyết tranh chấp biển, đảo phải có đồng minh chiến lược. Trong những bài hát “Không tên” đã đi vào lòng người của Vũ Thành An, giới hâm mộ từng thấm thía câu: “Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa.” Câu hát này làm chúng ta suy ngẫm về quan hệ quốc tế của Việt Nam.Từ khi mở cửa, Việt Nam khá thành công trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với bạn bè năm châu.
.
Từ việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Nhật, rồi việc Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đi Mỹ đã chứng tỏ một sự quyết tâm theo đuổi chủ trương mở cửa và làm việc với thế giới. Nhưng liệu Việt Nam có thể khẳng định một mối quan hệ “đồng minh chiến lược” với một cường quốc nào chăng? Những hành động trong quá khứ gần và xa của Trung Quốc đều để lại những câu hỏi đầy thách đố trong quan hệ Việt – Trung. Từ trận hải chiến Hoàng Sa 1974, tới sự lấn chiếm biên giới 1979, và cuộc tấn công Trường Sa 1988, Trung Quốc đều tỏ ra không e ngại công luận thế giới, vì nói đúng hơn là công luận thế giới không có sự bênh vực mạnh mẽ nào dành cho Việt Nam vào lúc đó.
Thành viên một tàu đánh cá Trung Quốc đang sử dụng lưỡi câu sắt nhằm làm thủng một lưới định vị âm thanh của tàu USNS Impeccable hôm 8/3/2009. Ảnh: AFP

Gần đây, Trung Quốc phản đối hồ sơ thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia, rồi ngang nhiên đưa bảng đồ “lưỡi bò” mà không hề hổ thẹn về tính thiếu cơ sở lịch sử và pháp lý của bản đồ này. Như TS. Dương Danh Huy, “đây là sự leo thang về ngoại giao”. Nhưng rõ ràng đây cũng không phải là bước đi mới của Trung Quốc. Việc Trung Quốc phản đối hồ sơ của Việt Nam và Malaysia là chuyện không ai mà không đoán ra được, nhưng phản đối ra sao mới là vấn đề cần được thảo luận.
.
Tôi cho rằng việc Trung Quốc đưa ra bản đồ “lưỡi bò” đính kèm với thư phản đối đến Liên Hiệp Quốc chứng tỏ sự yếu kém về ngoại giao và khả năng phản ứng với thay đổi tình thế trong quan hệ quốc tế. Bản đồ này đã được Trung Quốc đưa ra một cách thiếu khẳng định trước đây, nay Trung Quốc lại dùng bản đồ này dù rằng nó không có cơ sở và không có tính thuyết phục. Rõ ràng Trung Quốc không phản ứng “kịp” với sự thay đổi tình thế nên đã không có một phản ứng tế nhị hay quyền biến.
.
Ngược lại, việc Việt Nam nộp hồ sơ chung với Malaysia là một hành động khôn khéo và nó làm thay đổi “phương hướng của cuộc tranh chấp”, vì Trung Quốc đã nhiều lần chỉ muốn đàm phán song phương và luôn luôn tránh các đề nghị đàm phán đa phương trong khu vực. Việc nộp chung hồ sơ là một cố gắng quốc tế hóa và đa phương hóa vấn đề, và điều này có thể đã làm Trung Quốc bị bất ngờ.
.
Điểm yếu của Trung Quốc Như tác giả Lạc An nói trong bài “Khoảng cách giữa Trung Quốc và thế giới”, mặc dù Trung Quốc đang vươn lên với thế mạnh về kinh tế và quân sự, “quyền lực mềm” về ngoại giao vẫn còn là điểm yếu của Trung Quốc. Vì vậy, dù tôi hoàn toàn đồng ý với Dương Danh Huy là Trung Quốc đang “leo thang về ngoại giao”, nhưng tôi cho rằng Trung Quốc chưa chứng tỏ được một sức mạnh ngoại giao hiệu quả và khôn khéo. Kế hoạch ngoại giao của Trung Quốc thiếu sức thuyết phục, không những mâu thuẩn giữa hành động và lời nói mà còn thiếu căn bản pháp lý và bằng chứng lịch sử.Vậy nếu quyền lực mềm là điểm yếu của Trung Quốc, thì liệu Việt Nam có đủ mạnh để lợi dụng điều này chăng? E là khó khẳng định vì “vấn đề là ai sẽ ủng hộ Việt Nam?” theo như Giáo sư Vladimir Kolotov, một chuyên gia người Nga chuyên nghiên cứu về Việt Nam.


Ngư dân Việt Nam vẫn còn lo ngại khi cho tàu ra khơi,
nhất là đi vào những vùng biển chồng lấn. Ảnh: VNN


Gần đây, những hành động có tính phối hợp về mặt ngoại giao và truyền thông cho thấy Việt Nam có nỗ lực trong lãnh vực “quyền lực mềm”. Ngoài việc thành lập huyện đảo Hoàng Sa và bổ nhiệm viên chức hành chánh, trung ương còn “bật đèn xanh” cho truyền thông trong nước được đăng tải tin tức hay tổ chức hội thảo về vấn đề Biển Đông. Cùng lúc, cũng có tin cho hay Việt Nam đã tăng cường khả năng quốc phòng trên biển, cũng như tăng cường quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, Ấn Độ, và Thái Lan về chính trị và quân sự, dù chưa phải ở cấp tối cao. Điều đáng ngại là những cố gắng ngoại giao của Việt Nam có nhanh đủ để bắt kịp với tiến độ leo thang về cả quân sự và ngoại giao của Trung Quốc hay không? Phải luôn tỉnh táoTrung Quốc thường hay lợi dụng tình thế và bất ngờ tấn công và đó là điều đáng ngại cho Việt Nam trước cuộc khủng hoảng Bắc Hàn và suy thoái kinh tế toàn cầu.
.
Ngày 19/1/1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Ngày 14/3/1988, Trung Quốc bất ngờ dùng vũ lực tấn công đảo Gạc Ma thuộc huyện Trường Sa của Việt Nam. Trong sự kiện 1974, Trung Quốc lợi dụng tình thế Hoa Kỳ rút quân khỏi sự sa lầy ở Việt Nam và không còn tâm trí để ủng hộ cho chính quyền Sài Gòn. Tương tự, Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc khi Việt Nam vướng bận chiến trường Campuchia. Và sự kiện 1988 cũng là một sự bất ngờ khi cả thế giới đang theo dõi sự xụp đổ của khối Đông Âu.
.
Xét lại những sự kiện này, chúng ta không khỏi lo ngại cho tương lai của Việt Nam trong bối cảnh cả thế giới đang bận rộn tập trung vào cuộc khủng hoảng hạt nhân Bắc Hàn. Trung Quốc có thể lợi dụng tình thế này để tăng cường áp lực ở Biển Đông và nhất là đối với Việt Nam. Hành động Trung Quốc cấm đánh bắt cá trong ba tháng hè, lúc mà ngư dân Việt Nam kiếm được nhiều cá nhất trong năm. Tàu lạ tông bể thuyền của ngư dân Việt Nam cùng lúc trên một số website và blog Trung Quốc tuyên bố một cách rất tự hào là đã đuổi được thuyền đánh cá nước ngoài cũng như bắt giữ ngư dân Việt Nam. Tất cả những động thái này tạo ra nghi vấn là Trung Quốc đang lợi dụng “lỗ hổng” địa chính trị trong khu vực.
.
Trước những thử thách này, nếu Việt Nam không lên tiếng mạnh mẽ và tranh thủ dư luận thế giới bằng nhiều cách và phương hướng, thật khó mà lường trước được số phận của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc trong những bước kế tiếp. Để làm điều này, Việt Nam cần nắm lấy cơ hội ngoại giao trong tay khi làm Chủ Tịch Luân Phiên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào tháng 10 năm nay 2009, cũng như cơ hội làm Chủ Tịch Luân Phiên của Liên Hiệp Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) vào năm tới 2010. Với tư cách là Chủ tịch luân phiên, Việt Nam có thể đưa vấn đề Biển Đông vào các cuộc hội đàm vì đây là vấn đề ảnh hưởng đến toàn thế giới và khu vực, chứ không phải chỉ ảnh hưởng các nước tranh chấp như vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.
,
Đây là cơ hội hiếm có cho Việt Nam vì nó xảy ra ngay sau khi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton, vừa tuyên bố tại Thái Lan về “sự trở lại Châu Á” của Hoa Kỳ trong chuyến công du vừa qua. Châu Á luôn luôn là khu vực có tính chiến lược trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Theo chuyên gia nghiên cứu về An Ninh Quốc Phòng của Hoa Kỳ, Giáo Sư Michael Nacht tại Đại Học UC Berkeley, Hoa Kỳ đã bắt đầu quan ngại về sự gia tăng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đối với sự ổn định của Á Châu từ cuối thập niên 1990, nhưng sự kiện khủng bố ngày 9 tháng 11 năm 2001 đã làm thay đổi chiều hướng tập trung sang Trung Đông. Song, thay đổi này chỉ có ý nghĩa phản ứng tạm thời và những chuyên gia hàng đầu về an ninh quốc phòng vẫn khuyến cáo về sự bất ổn tiềm ẩn ở Á Châu mà Hoa Kỳ cần quan tâm.
.
Từ ngày có sự thay đổi nhân sự trong Nhà Trắng, giới quan sát cũng thấy được sự thay đổi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, đó là sự trở lại của mối quan tâm về an ninh Châu Á với sự giảm bớt quân đội ở Iraq và tăng cường lực lượng ở Afghanistan. Những sự lên tiếng về cuộc đụng độ của hải quân Trung Quốc với tàu thăm dò của Hoa Kỳ trong năm nay không phải ngẫu nhiên vì trước đây nó đã từng xảy ra, nhưng tại sao đến bây giờ Hoa Kỳ mới lên tiếng. Thêm vào đó là dấu hiệu Hoa Kỳ tăng cường quan hệ ngoại giao với Ấn Độ và giúp đỡ đất nước này xây dựng năng lượng hạt nhân. Ngày 23 tháng 7 năm 2009, Ngoại trưởng Clinton đã ký Hiệp Ước Hữu Nghị và hợp tác với ASEAN mà ông Bush đã từng từ chối trước đây. Phải chăng đây là dấu hiệu của hy vọng cho một Biển Đông yên bình?
.
.Ailien T. Tran (Fulbright Fellow 2009, Đại Học UC Berkeley)
Anh Năm thợ hồ và anh Sáu thợ mộc
.
Giới thiệu: Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa là một tác giả quen thuộc của tập san Viên Giác, Tây Ðức.Trong suốt thời gian 8 năm sống ở đó ông đã sáng tác khoảng 15 truyện ngắn đăng nhiều kỳ và rất được độc giả hâm mộ, nhất là loạt truyện viết về vùng Thất Sơn, nơi sinh trưởng của ông. Ông chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa Việt-Miên-Hoa, sinh viên Phật tử, rồi làm thầy, làm lính, làm du học sinh, làm thợ. Tác giả đi nhiều, sống nhiều, lại chung đụng thêm nhiều nền văn hóa thế giới, ông - sau cùng - dừng chân ở Úc, xứ sở đa văn hóa, và trở về với nghề “hương sư” như nơi cố quận.Tác phẩm đã xuất bản:Áo Lục (1998)Như Cánh Chuồn Chuồn (2001)Con Đường Cũ (2007)Nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa qua đời ngày 27.9.2007, thọ 66 tuổi.————-
.

Đám trẻ ranh trên núi kéo cờ đỏ chạy xuống chợ la thất thanh ‘đất nước giải phóng, hoan hô, đả đảo…!’ Lá cờ đỏ phất tới đâu có mãnh lực làm thiên hạ đóng cửa tới đó, họ bở ngỡ lạ lùng với mớ từ ngữ chưa nghe thấy bao giờ.
.
Không khí im lìm ngột ngạt thấm nhập ngay cả vào hàng me xanh mướt lá run rẩy dưới cơn nắng thiêu đốt. Tin tức qua mấy cái máy thu thanh nhỏ bé về sự thay đổi chính quyền, khúc quanh lịch sử trọng đại sắp xếp ở bên Tây bên Mỹ chưa hoàn toàn thấm nhập vào chợ quê này. Dân chúng chỉ thấy có gì lạ lạ, khác thường. Biến cố chưa đủ khả năng đe dọa tinh thần họ như tiếng sấm nổ long trời và cơn mưa lởđá núi Tô năm nào.
.
Buổi chợ trưa bao giờ cũng vắng vẻ, trừ các tiệm nước ngã tư đường lác đác những người đi sóc về, ngồi lê la nhăm nhi ly cà phê đen thường lệ, vừa nghỉ xả hơi bàn giá cả thóc lúa, thổ sản. Lần đầu tiên trong đời, họ cảm được sự khác biệt, không giống mấy lần đảo chánh trước kia. Ngay đến chủ các tiệm buôn quanh chợ còn vô tình, thiếu ý thức chính trị, dù tất cả mọi người đều quen với giới nghiêm, súng đạn pháo kích, chiến tranh hằng đêm
.
- ‘Mà có chết ai đâu? Tới đâu thì tới, đèn nhà ai nấy sáng, trời kêu ai nấy dạ, cái sự vong như cái sự tồn!’
- Họ lý luận rất giản dị, như chính cuộc đời họ. Thời gian qua mau, tiếng loa hô hào bắt đầu ồn ào, xáo trộn đời sống dân chợ và dân xóm nhà lá. Những căn nhà lá lụp xụp, túm rụm vào nhau hai bên bờ kinh không có tên đường và số nhà, tầm thường vô danh như những người cư ngụ, bà con chằng chịt, quen biết nhau đã mấy đời nên địa chỉ đối với họ hơi dư thừa. Mấy dãy nhà ngói rêu xanh cũ kỷ, cất từ đầu thế kỷ hay những căn nhà lầu đúc mới xây, an toàn bằng bê tông cốt sắt, chống pháo kích hữu hiệu, chủ nhân được gọi tên theo bảng hiệu mình, vẫn thờ ơ với thời cuộc. Nhà lá hay nhà ngói đều chưa chuẩn bị chào đón tư tưởng ‘Mác xít, Lê Nin’ nhập cảng ở bên Nga, bên Tàu, họ nghi ngờ phẩm chất đồ nhập cảng này chưa chắc tốt hơn cây búa, cây cưa ở tiệm sắt, vô ích hơn tấm lưới câu, lạt lẽo hơn ly cà phê đá thơm mát buổi trưa.
.
Xóm nhà lá ban đầu tổ chức ăn mừng cách mạng, ‘con ta khỏi đi lính’ nên họ nhậu thả cửa, đi lại suốt đêm, làm ăn để đó, hồi nào giờ, xứ này có ai chết đói đâu? ‘Tiếng súng xử tử ở sân banh không đủ thức tỉnh họ’, ôi! Nhà ai nấy ở, cơm ai nấy ăn, ai làm dữ nấy lo, ai đánh to thua lớn. Rồi dân gốc Miên bị đuổi khỏi sóc, chợ búa thiếu rau cải, cây trái … Ôi! Trời trả quả, hồi năm 45, tụi chết đốt này nổi lên ‘cáp duồng’, bây giờ đáng đời, mỗi người tốn ba thước củi là cùng!
.
Những căn nhà lá dọc theo bờ kinh còn đó, phân nửa nhà nằm trên mặt lộ đá, phần sau nhà dựng bằng tre mở trên mé kinh. Gia đình đông con lại nghèo nên họ sống dễ dãi, nước sông gạo chợ, nấu ăn, tắm giặt gì cũng ở đó. Ai bước vào căn nhà ẩn dưới rặng trăm bầu buổi xế trưa đều gặp chú Năm Có. Chú Năm ngồi ngất ngưỡng, độc ẩm trên cái chỏng tre lung lay như răng sắp rụng, nghiến kẽo kẹt kêu ca, mỗi lần chú nhún thân mình mập như bao lúa. Trước mặt chú, một chai rượu trắng, mấy con khô cá lìm kìm, vài miếng xoài chua, và dĩa muối ớt. Năm Có trệu trạo nhai miếng khô, chắp miệng thấy thèm, mặt nghinh, mắt nhướng nhìn lên, chắc lưỡi rũ mấy con thằn lằn xuống nhậu, thỉnh thoảng đổ ọt ly rượu vào miệng như đổ nước vô lu.
.
Cách mạng hay quốc gia, sau bửa cơm trưa đạm bạc, thiếu thốn thì đúng hơn, chú Năm Có bắt đầu nhăm nhi cho qua cơn nắng oi nồng, cổ nhăn nhúm đỏ gấc như da cổ con gà cồ, nóng hơn mặt trời đứng bóng.
.
Thím Năm nhẫn nhục, quá quen thuộc bản tính chồng nên ít khi cằn nhằn trước mặt, tuy sau lưng chồng, thím thường hay nói hành nói tỏi, gia đình nhờ vậy nên sóng lặng gió yên. Mà chú Năm có ăn hại gì đâu, mấy con khô cá lìm kìm, trái xoài chua, chai rượu đế giá bao nhiêu mà kiếm chuyện, ‘tao có đòi rượu Tây, khô long chả phụng đâu mà kiếm chuyện, cằn nhằn là tao đốt nhà à’, chú Năm mượn rượu làm oai với vợ, lâu lâu chú ỷ thế cùi không sợ lở, heo chết còn sợ gì nước sôi, chưởi đổng, ‘xin lổi,Việt Cộng tao còn không sợ nữa à!’ bà vợ nghe lạnh tay lạnh chưn, sợ tai vách mạch rừng, ríu rít xin lỗi cho yên,được thể chú Năm càng làm già, nhứt là có mặt chú Sáu Hường, bạn thâm niên, làm nghề thợ mộc.
.
.Hứng chí hay thất chí, sau xị rượu đế, chú ngã quay ra nằm luôn trên chỏng tre ngủ mê man tới chiều, tiếng ngáy ồm ộp rung rinh cột tre dưới nhà, mặc đàn muỗi tha hồ chích cái lưng dầy như tấm thớt. Trong giấc ngủ khê, chú thường quơ quào mớ ú ớ trong miệng ‘cái nhà, tao xây hồi đó!’
***
Năm Có chấp tay sau lưng đi quan sát tiệm tạp hóa cột gỗ mọt ăn, trên vách ổ mối dài ngoằn ngoèo như ghẻ chùm bao. Chú nghiêm trọng gật đầu nhè nhẹ sửa lại gọng cặp soi mát ‘mới mua năm chăm bạc’ chủ nhà mời vào uống nước trà bàn chuyện giao cho chú xây cất. Mời Năm Có xây nhà, chủ nhân phải kiên nhẫn đợi khá lâu, với đầy đủ điều kiện. Cầm ly trà nóng tới nguội, Năm Có phân trần ‘thợ hồ xứ này họ xây theo ý chủ, họ quên xây phải đúng phương hướng thủy thổ, thì nhà làm ăn mới phát, gia đình mới hòa thuận, muốn xây mau như họ, tôi làm cũng được, mà sau này đừng trách tôi không chịu nói cho nghe! Thời buổi, tôi xây tường, ca nông, mọt chê bắn không lũng, đừng nói đạn súng cối, ma-ti-dết, mút-cà-tông!’Bàn về giá cả, Năm Có nghiêm mặt, ‘nè, tôi học nghề mấy chục năm mới lên thợ cái nghe! Cầm cục gạch xây tường phải thẳng như thước gạch vậy, thấy Chín Be xây cái nhà Tửng É không? Ai đời, thợ hồ xây cột có chửa!’Năm Có đắc chí, xoa hai bàn tay, như hai nải chuối cau mẳn chín thâm kim. Chủ nhà lả vả ‘sao cũng được mà anh Năm’.
***
Ngày khởi công, quấn điếu thuốc bập bập phà khói, chỉ huy đám thợ phụ, Năm Có căng dây, nheo mắt, hạ giọng, ‘qua chút, qua trái chút nữa, nói hoài cũng vậy, tụi bây lỗ tai cây mà!’
- góc bên kia thợ phụ đã đào xong lỗ xây cột, Năm Có treo sợi dây dọi, ngắm nghía, cẩn thận theo lương tâm nghề nghiệp. Phải thôi sao, liếc mắt xem chừng bọn đào lỗ xây tường, Năm Có nạt ‘hể vắng tao là bây đứng chơi, hồi đi học nghề, cha thợ cái lấy cái bàn chà đập lưng tao muốn lồng phổi, còn bây giờ tao dễ quá, bây lừng há!’
- còn đám phu trộn hồ, Năm Có canh chừng từng chút, cát, xi măng, vôi nước phải đúng theo ý mình; ít cát nhiều xi măng thì lỗ, nhiều cát hồ non không chắc tường, thiếu nước hồ trộn không ăn, nhiều nước hồ nhão xây không vững. Nhờ cẩn thận nên sau mỗi lần xây cất, Năm Có dư dã năm ba bao xi măng bán đem ngồi sòng bông dụ. Chủ nhà than phiền, tại họ không ở trong nghề, lệ tổ nghiệp, bỏ là trái lệ, thợ hồ ăn hồ, còn thợ may ăn vải, thợ mộc ăn dăm, còn thợ hàn ăn thiếc, sao không nghe ai chê cười, đám em út, theo học nghề hay thợ phụ, phải nghe lời răn rắt.
.
Năm Có ngồi chồm hổm bắt đầu xây cột cái, gạch được gánh đến chất gọn gàng bên trái, thùng hồ bên phải, vừa tầm tay, không cần đứng dậy tới lui. Tay trái cầm cục gạch thẻ, ném lộn gạch để nhìn hai mặt, đập chính xác xuống, tay phải cầm bai xúc hồ vừa đủ, trải hồ trên mặt gạch, vỗ gạch cho ngay, tém hồ không cho rớt xuống đất, động tác khéo léo không dư không thiếu. Cái bai gạt đất cát trên mặt gạch, chặt đẽo viên gạch vuông vắn khít khao khi cần. Cột Năm Có xây thẳng, gạch không lồi ra lõm vào, cột không có chửa như mấy tay thợ khác xây.
.
Làm ăn công ngày nên Năm Có rất thận trọng, xây chừng vài gang cột, lại vấn điếu thuốc trầm ngâm ngắm nghía, chiêm ngưỡng công trình hoàn hão của mình, chủ nhà chưa chắc vừa ý lối làm việc hết giờ không hết việc. Gặp hôm trái ý, Năm Có dặn thợ hồ trộn thật nhiều hồ xúc đầy thùng, hôm sau hồ dư, đặc cứng đổ bỏ, ‘để cho chủ ăn hồ cho biết’, chủ nhà rất sợ trường hợp này, nên cơm nước vừa miệng, thịt gà trộn bắp chuối hột thêm xị rượu công xi, vừa nhâm nhi vừa gật gù, vợ con chủ hầu hạ chờ đợi dọn dẹp mặc kệ. ‘Xây gạch còn dễ, xây tường đá khó hơn nhiều, đá lớn nhỏ không đều nhau, đặt cục đá xuống là phải ăn khớp, chỉ có tui xây được thôi, không tin ngó thử cái hàng rào nhà ông quận Sóc coi, trên tường cắm miểng chai sợăn trộm leo, vững chắc như Vạn Lý Trường Thành’.
.
Mấy người lo cơm nước nghe Năm Có nói, chán ngấy, mặt chầm dầm, ‘ăn no rồi đi về cho người ta dọn dẹp, còn ngồi nói chuyện năm trên’. Năm Có lãng tai nên khề khà tiếp tục ‘Còn chuyện xây mả mồ nghe, thợ hồ xây ẩu, đất sụp, động mồ động mả con cháu tán gia bại sản, mả ông Cả, Sáu Be xây sụp tường đó, thằng cháu nội trai ông Cả đi ghe nồi bị Ma Rốc bắn chết đó thấy hông? Bởi hồi xưa người ta trọng thợ hồ lắm, nhứt là mấy cô gái ưa đòi mẹ gã cho thợ hồ, nên có câu: Má ơi, con quyết lấy anh thợ hồ, mai sau má có chết, cái mả cái mồ nó xây’.Mà thật, Năm Có xây nhà khó ai dám chê, dù đồng nghiệp địch thủ như Sáu Be cùng học một thầy.
.
Chiều chiều, trước khi chủ dọn cơm, Năm Có đứng chỉ huy tổng quát, lớn tiếng dặn dò đám thợ phụ cốt ý cho chủ nhà nghe, ‘Mỗi buổi chiều tụi bây tưới nước sương sương lên vách, để cách đêm tường chắc, tô vách tường thì xi măng phải già hơn một chút, tô bằng bàn chà cho bằng phẳng, mới lấy bai vuốt cho láng. Pha nước vôi phải nhớ mấy phần nước mấy phần vôi, nếu quên, thùng vôi pha sau đặc hay lỏng hơn thùng trước, quét lên tường chỗ đậm chỗ lợt sọc rằn coi không được, còn đổ nền nhà, ngày nào đổ phải làm cho rồi, nếu chưa rồi mà đợi bửa sau làm tiếp, nền cũ hồ khô cứng, đổ thêm lớp mới thành bánh da lợn nghe. Lót gạch, phải trải cát cho thật bằng, sau khi lót, đổ nước lên thấy nước không đọng mới được.’
.
Trước khi rửa tay nghỉ, Năm Có thu dụng cụ rửa thật sạch, ngâm nước để hôm sau, cây bàn chà, cái bai, xẻng, cuốc không bị hồ đóng cứng. Năm Có dặn dò khuyên răn thợ phụ ‘ăn cây nào rào cây nấy, cất căn nhà này rồi, còn cất căn khác nữa’. Nói vậy nhưng khi tiền nong trái ý có chuyện bực mình với chủ nhà, Năm Có bỏ mặc, ‘kệ nó, nhà ông nhà cha mình sao mà làm kỷ lưỡng’.Tuy gắt gao với thợ phụ, Năm Có đối với em út rất có lòng, nhứt là với các cô gánh hồ như cô Hai Thảo, được chú chở che, ngon ngọt. Cô Hai Thảo gánh hồ da mặt hồng như trái hồng quân. Cây đòn gánh tre quằn quại hai đầu là hai thùng hồ nặng trĩu, nhún nhẩy, thoăn thoắt nhịp nhàng trên vai thêm chút duyên của người khỏe mạnh cần cù, chiếc áo vá vai vải ú màu đen nhuộm hồ, cát, vôi hàng ngày ngả sang màu xám.
.
Năm Có vừa ý lắm, liếc nhìn cô Hai Thảo.‘Áo vá vai, vợ ai không biết! Áo vá quàng, cả quyết vợ anh’
.
Nắng đổ trên nền nhà đang xây dỡ, gạch ngói, cây vụn ngổn ngang, Hai Thảo hay đứng sau lưng che nắng cho Năm Có, bóng hai người nhập thành một in trên vách, cô Hai Thảo cầm cái nón lá dầy, vành nón rách tua tủa, vuốt mồ hôi tươm trên trán quạt phe phẩy cho Năm Có, cả hai mát mặt, mát lòng, mát ruột, ‘nắng lửa hồng mát như mưa’, Năm Có bắt chước giọng cải lương, hể hả.Năm Có tâm sự nghề nghiệp, ‘hồi mấy năm trước anh đứng trên cây thang tre vừa kéo thùng hồ nặng lên, cây thang gẫy, anh nhảy kịp, nếu không giờ này đâu có ngồi nói chuyện với em’. Hai Thảo quạt phành phạch vừa mắc cở, sợ tai tiếng, đám thợ phụ thị thiềng, nói cô nịnh bợ thợ cái.
.
Ngày dài làm việc cực nhọc, nóng bức lấy gì làm hứng thú, nếu thiếu cơ hội nghỉ ngơi bên Năm Có, rãnh tay nghe kể chuyện.
.
Ðêm về cơ thể rã rời sau suốt ngày gạch rồi hồ, hồ rồi gạch, hai bên vai đau nhức ê ẩm, Hai Thảo lăn ra ngủ mê mệt, trong giấc chiêm bao cô thấy Năm Có tướng quân lẫm lẫm oai nghi cầm cây bai sắc như gươm Lục Yểm chém yêu đứng chỉ huy đám dân đinh xây ngôi nhà ngói năm căn như nhà thầy ký Xạ, nhà nền cao, bực thang đá xanh, nền lót gạch Tàu mát lạnh, sau nhà có giếng nước mát lành, có bàu sen cây che mát, Hai trở thành bà chủ ngồi trong nhà, da dẻ mát rượi dù bên ngoài trưa nắng cháy da.
.
Năm Có liệng cây thước hồ cắm xuống đất, cầm bai múa đường quờn, cả vùng Chợ mọc lên dãy nhà mười căn, hàng ba rộng rãi, chiều chiều ngồi trên chỏng mời bà con tới uống nước. Trong giấc mơ, Hai thấy khát nước, thèm vắt nước đá bào xi rô vàng ngọt mát, thấy rêu mọc xanh trên mái ngói cũ. Hai lăn lộn, trằn trọc, mồ hôi rít mình, ngứa ngáy vì mấy vết muỗi cắn, cái mùng rách lỗ chổ, chỏng tre và chiếu ẩm mồ hôi. Hai thèm thoát khỏi căn nhà ọp ẹp vách lá, lợp đưn, cột tre chật hẹp, sợ mọt chê rớt sập, sợ đạn súng mút xuyên qua, sợ súng trái châu rớt cháy nhà. Ước mơ có căn nhà gạch, ngoài Năm Có, ai có đủ khả năng mang cho cô? Hai Thảo chép miệng, ‘Má ơi, má nghèo làm con cực khổ quá trời!’
.
Dù cho má đánh ba treo,Ðứt giây rớt xuống, con cũng theo anh thợ hồ.’
***
Chợ này trước mặt là con kinh cùng, hai bên đồng ruộng bao la trải tới bờ sông Hậu Giang cách đó gần bốn chục cây số. Sau lưng xa xa là những dãy núi cao, núi đất, núi đá.Buổi chiều, công việc đã xong, người ta thong dong đi ruộng. Ai nhà ở xóm chợ, đi ruộng Chưn Num, bờ ruộng tiếp giáp với dãy núi hùng vĩ chở che. Dân xóm nhà thờ đi xích ra ruộng bưng, cỏ xanh mơn mỡn, nhờ nước xâm xấp. Ai ở xóm chùa dưới tạt qua đám ruộng khô Ô Bà Lày, gần mấy chòm cây thốt nốt. Xóm kinh càng tiện, đổ ra phía cầu Giáo Sự. Ðồng ruộng bao la, bờ ruộng cao, mát mẻ, bụi cây, đám cỏ xanh che khuất kín đáo, dù mưa hay nắng cũng đủ chỗ cho dân tình làm công tác vệ sinh thoải mái. Ban ngày, túng bách quá thì chạy qua đầu bờ kinh, sau mấy cụm me nước lá dầy đặc mát mẻ cũng xong, miễn khuất mắt đám phú lít mắc ôn mắc gió của cha Cò Tây.
.
Một buổi chiều khi đi đồng về, ai chú ý sẽ thấy đám thợ hồ đang bàn tán xôn xao giữa sân bên hông chợ. Cuộc thảo luận khá sôi nổi. Ðây không phải buổi họp chính trị về chuyện Nhựt thua trận, Tây thua Ðức, Việt Minh cướp chính quyền, Bảo Ðại thoái vị. Cuộc họp mặt công khai, các tham dự viên là các tay thợ hồ, trong đó Năm Có là một. Thợ phụ và các cô gánh hồ vắng mặt, chưa xứng đáng tham dự đề tài. Họ dùng tất cả tứ chi, miệng mồm thuyết phục, giảng giải, phản đối …
.
Ðề tài thảo luận mới mẻ ‘cái cầu tiêu máy’. Từ thuở giờ xứ này có ai nghe thứ lạ lùng này đâu, viết máy, xe máy, bàn máy may, nhà máy xay lúa thì có, ai chịu khó nghe cũng im lặng tỏ vẻ hồ nghi.Thuyết trình viên Sáu Be, từng đi làm Sàigòn, truyền bá thao thao, ‘nè, chung quanh họ đào sâu xuống chừng hai thước tây, chung quanh xây gạch tráng xi măng. Nè, nè, phần trên đúc sẵn, nè, nè, nó cong cong giống con thỏ, nên người ta kêu bằng con thỏ. Ði xong, dội nước xuống, cái xác ở dưới, còn nước chảy ra đường mương, chừng 15 năm có xe lại hút đi. Nè, nè! Xác nó mục thành đất. Sáu Be càng nói càng lắp bắp, tay chân lúng túng trình bày.’
.
Năm Có ngắt lời, ‘thôi mà, nói nghe gớm thấy bà nội’, vừa khạc nhổ một bệt nước miếng.Ở đây, sang như nhà ông Quận, chỉ có thùng, gọn và sạch. Sáu Be đi xa về vẽ rắn thêm chưn, ‘đâu phải hể thợ ở Sàigòn về là giỏi hết!’
.
Ðêm đó, Năm Có thấy đau quặn ngang bụng và bả vai sau buổi nhậu ở nhà Sáu Be về vụ ‘cái cầu tiêu máy’. Sáu Be được mấy thầy ký kêu đo đạc xây cầu. Năm Có tuy là thợ kỳ cựu, bị chạm tự ái nên sa sút tinh thần sau những năm làm việc, cảm thấy bị đào thải theo thời gian. Chú bị đẩy xuống thợ hạng nhì, chỉ được mướn sửa nhà lặt vặt, xây miệng giếng, sửa bức tường cũ bị nước xoáy mục. Ðàn em, tay chưn bộ hạ bỏ nghề đi lính hết.
.
Thời cuộc đổi nhanh, lúc còn xây nhà cho tiệm tạp hóa ông Húa, chú Năm nằm đêm có thể nghe và đếm bao nhiêu tiếng súng mút, bây giờ tiếng súng dồn dập như máy nổ, nhà gạch thẻ hai mươi do chính tay chú xây cho ông Năm thợ bạc bị bắn cháy sập, chú hết tưởng tượng nổi súng đạn bây giờ, chiến tranh bộc phát có mấy năm, dân chợ làm ăn phát đạt tranh đua xây cất nhà lầu đúc, nóc bằng tránh pháo kích. Nhà đúc đào móng sâu, bê tông cốt sắt, sàn nhà lót gạch bông mát mẻ, lan can bằng đá mài, hồ đẩy bằng xe ba bánh, nhiều mà mau. Mấy cây cột, bức tường này Năm Có thuở xưa cẩn thận cầm từng viên gạch xây. Qua bao nhiêu mùa mưa nắng, tường không mục, vách không lở, vôi không phai.
.
Năm Có đứng nhìn họ đập bằng búa tạ, xô ngã từng mảng tường, gạch, nằm lăn lóc trên mặt đất không chút nương tay thương tiếc. Họ đành lòng phá tan nát công trình xây dựng của Năm Có, nỡ quên công lao cô Hai Thảo còng lưng, sưng bả vai gánh hồ dưới cơn nắng chang chang, ‘mồ hôi nước mắt em Hai nhiều hơn nước trộn hồ’. ‘Hai ơi! Vì thương anh, nghe lời anh theo nghề hồ, vôi ăn lở lói tay em, thùng hồ ngã trúng đầu, rồi em chết tức tưởi vì đạn pháo kích. Cái đòn gánh và đôi gióng em, anh còn giữ. Anh hứa liều cất căn nhà ngói tường gạch có giếng nước sau nhà cho em đỡ cực, mà giờ này anh còn ở trên căn nhà lá lôi thôi cheo leo bên bờ kinh, mùa nước lên sợ sụp đổ, long chong như kiếp thằng thợ hồ, xây chưa được cái mả cái mồ cho em. Anh tệ lắm em Hai à’.
.
Năm Có lơ mơ thấy mình lấy xi măng trắng đắp tượng Hai Thảo trắng toát như màu nước vôi. Hai biến thành nàng tiên thanh khiết thướt tha bay lãngđãng trên bầu trời xanh.Năm Có mắt lờ đờ nửa say nửa tỉnh, dụi mắt cay sè sau giấc mộng Nam Kha. Thím Năm cầm cây chổi lông gà đuổi ruồi muỗi cho chồng.
.
‘Ngủ gì ngủ dữ vậy, xế trưa rồi coi chừng bị mộc đè à! Anh Sáu Hường kêu ông ra tiệm cà phê coi nhà ông Húa bị kiểm kê, tịch biên làm cửa hàng bách hóa kìa’. Chú Năm chống tay ngồi dậy khó khăn. Ờ, bà đưa tôi vài chục tôi ra uống cà phê với anh Sáu Hường luôn thể!
.
Năm Có và Sáu Hường là đôi bạn thân lâu đời. Nhà cách nhau con kinh, bề ngang chừng sáu thước, hai bên có chuyện rầy rà trong gia đình đều nghe rõ, muốn thăm viếng nhau phải đi vòng qua ngã chợ mất hai mươi phút đi bộ, nên thường hẹn nhau ở quán cà phê cho tiện đôi bên. Quán cà phê là chỗ hai người bạn già xả hơi những bực dọc về nhân tình thế thái, đồng bịnh tương lân, câu chuyện không bị mấy mụ vợ ‘thọc gậy bánh xe, mở miệng ưa chỏi bản họng, nghe phát ghét’.
***
Chú Sáu Hường quấn cái khăn rằn cố hữu lửng thửng tới tiệm cà phê,đối diện với tiệm Vĩnh Huê Chành, cẩn thận phủi bụi ghế rồi ngồi quay vô tiệm kêu ‘cà phe … e!’Tiệm cà phê này có lợi thế nhờ tọa lạc ở ngã tư đường, hai bên là dãy phố xưa nhứt. Phố rộng dài, tường cũ kỷ, dân Tàu đã ở hai đời. Tiệm Vĩnh Huê Chành trước là công xi rượu, sau vựa nước đá, đề bô nước ngọt la ve, nhờ phát đạt nên cất lại cơi thêm hai từng, nóc bằng, lầu đúc. Cửa sổ hình bán nguyệt, song sắt, có giếng nước sau nhà. Nhà bị kiểm kê vì mấy mươi năm thiếu thuế cách mạng, mấy đứa con lại vượt biên. Huyện uỷ thương tình chủ tiệm biết điều, dễ thương như mấy chai rượu Martel nên cho phép dọn đồ đạc ra, chỉ mượn tạm nhà làm cửa hàng bách hóa.Chú Sáu vấn điếu thuốc lá le lưỡi liếm rồi cuốn điếu thuốc, châm lửa phì phà, cố ý ngong ngóng chờ đợi, lý do thầm kín chỉ có chú biết. Chú nhấp ly cà phê đen thơm mùi bắp rang, vừa nhìn người nhà tiệm Vĩnh Huê Chành, lăng xăng dọn dẹp. Mắt chú Sáu chợt rực sáng, bất giác đứng dậy nhìn trân trối cái tủ chén cũ kỷ để trước lề đường chờ xe ba gác chở đi, chú lẩm bẩm ‘a, cái tủ búp phê, cái gạc măng rê’, mồ hôi đổ như tắm, đầu lắc lư như tợ nhập bà bóng, miệng láp giáp ‘cái bàn, cái ghế, cái tủ!’ - mắt lờ đờ mất thần.
***
Anh thợ mộc dựng cây cột thao lao dựa vô cửa ngữa mặt nhìn lên ngắm nghía, hạ cây cột, lấy cây thước ê ke đo, làm dấu rồi cưa hì hục. Lúc dựng lên thấy thiếu cả tấc tây. Chú cầm cây cột hậm hực chưởi thề, ‘mẹ bà nó, ngó thấy đúng trân, lúc cưa thì hụt cả tấc’, vừa mắc cỡ vừa bực tức.Buổi sáng, sau khi cà phê cà pháo xong, Sáu Hường mở thùng đồ nghề trịnh trọng làm việc, Sáu Hường tối kỵ việc cho mượn dụng cụ dù viên đá mài dao. Chú làm việc kiên nhẫn với cây cưa, búa, bào, đục, hiệu Bờ Rô Sư Tử của Tây. Cây búa bén gọt cam ngọt xớt, dụng cụ được chú tự tay mài tỉ mỉ hàng giờ, bên tai giắt cây viết chì, bên giắt điếu thuốc vấn hút dỡ dang, bàn tay vàng màu vẹc ni. Ai đặt khung cửa sổ, chú làm xong mang đến ráp vào khít khao, cánh cửa không bị xệ.
.
Chú thường nói, làm cửa sổ, cửa cái, quan trọng là bản lề tùy theo cửa và cây nặng nhẹ. Ðinh cũng vậy, đinh lớn đóng cây mỏng phải khoan trước. Ván tùy loại ván, thao lao, dầu, mềm hơn căm xe, cà chất. Ðống cây ván dài ngắn, dầy mỏng trong xưởng lớn nhỏ đủ loại, được bàn tay khéo léo đóng thành đồ gia dụng. Sáu Hường có thể nhắm mắt cầm khúc cây biết đầu nào ngọn, đầu nào gốc, loại gỗ gì. Ai muốn đặt tủ búp phê, gạc măng rê, kích thước tùy thích, chú giao bảo đảm vừa ý. Gỗ sần sùi, khúc mắc, vào tay chú thành trơn láng.
.
Trong nhà, Sáu Hường thờ tổ Lỗ Bang, để chứng tỏ, chú hay kể chuyện khi rãnh rang ngồi mài cưa mài đục, rằng, lâu rồi chú có đóng cái tủ thờ bằng ván cây sao cho nhà kia, đêm đêm tủ vặn mình ken két như ó diều kêu oang oác dành ăn, mặt cửa tủ toát mồ hôi nhơn nhớt mùi tanh hôi của xác chết nhỏ xuống, đọng trên sàn như máu khô, trẻ con trong nhà bị ói mữa, đứa ở quét nhà mỗi ngày lượm được một nùi tóc rối dưới đáy tủ, chủ nhà sợ thợ mộc ếm mới trầu rượu mời Sáu Hường gỡ bùa. .
.
Chú đến xem xét mới biết, xưa có người tiều phu đi đốn củi, bị heo rừng chém chết. Bầy kên kên mỗ rỉa tử thi, tha thịt đứng trên cây sao dành ăn, miếng thịt rớt trên kẻ lá cành cây biến thành con ma mộc. Cây sao bị đốn xẻ ván đóng tủ, âm hồn con ma mộc vì chết oan uổng còn lẩn quẩn trong cái tủ thờ đó. Chú Sáu khuyên chủ nhà nấu mâm cơm cúng, lấy mấy nùi tóc bỏ vô nồi đất, đốt chung với giấy vàng bạc, cầm bó nhang đọc bùa, gõ trên tủ thờ hô:‘Ma mộc, sống khôn thác thiêng, về bãi về gành, về cội về nguồn, về rừng xanh nước biếc, ở a …!’
.
Ma mộc sợ uy xuất đi, mỗi năm còn đòi chủ cúng một lần.Nhà xây tường xong, lúc gác đòn dông mới thấy sự quan trọng của thợ mộc. Sáu Hường và chủ nhà thắp nhang - quát đuổi đàn bà tránh xa, sợ đàn bà có tháng vô ý đạp trên bóng, tổ vật chết - uy nghi nâng cây đòn hai đầu bịt vải đỏ trừ ma, gác đòn dông đúng giờ khắc, chủ gia làm ăn mới khá. Gia chủ ít dám làm phật lòng thợ mộc, sợ ếm bùa Lỗ Bang, ma quỉ khua chén khua dao, nhà khó ở yên.
.
Sáu Hường có khả năng trị mộc, cây ván làm sao vào tay đều dùng được tất cả, chú sống với gỗ, với cưa, bào, đục,đẽo, tuy ít học chữ nhưng cũng là nghệ sĩ có óc sáng tạo phong phú cộng thêm sự khéo tay.‘Tôi đưa cây đinh, miếng ván đó, đóng cho ngay tôi phục, làm tủ ba chưn đặt đâu đứng
đó, không lung lay mới tài. Ðục mấy cái khe lót miếng kiếng soi mặt, hai bên chạm hai con rồng con phượng như long phụng bay múa trên mặt tủ’.
.
Ngài Lỗ Bang thương xót con cháu vì vướng nghiệp tổ, nghề là nghiệp, sinh nghề tử nghiệp, đôi lúc trưa đứng bóng, tổ về nhập vào Sáu Hường, chú cầm bào, cưa, đục, uốn éo oằn oại thân mình, mắt trừng trừng,đầu lắc lư, giọng khàn khàn:‘Cái này là bào rà,Cái này là bào tách,Cái này là bào xoi’Bào rà ư ứ ự, bào tách ứ ự ư, bào xoi a!Xoi, tách, rà, ý a… tam bào ý a, phạt mộc’.Mỗi lần tổ về mắt Sáu Hường đỏ gấc như tôm luộc, hơi rượu bay hừng hực, chú quơ cao cây thước Lổ Bang (thước nách), một thứ dụng cụ thiêng liêng.Sáu Hường vỗ đầu, chép miệng than ‘mình già hết thời rồi!’Người ta nói sĩ nông công thương, mình đứng hàng thứ ba, bây giờ đứng hàng thứ mấy trong xã hội, ít ai đặt chú làm bàn ghế như trước.
.
Họ mua giường sắt, bàn ghế bằng nhôm, plastic, xếp lại được, nhà cửa họ đúc nóc bằng, quên tục lệ gác đòn dông,địa vị quan trọng Sáu Thợ Mộc mất luôn, bùa Lỗ Bang hết linh nghiệm.Chú Sáu Hường chợt xót xa luyến tiếc không khí bình tịnh chợ năm xưa, lúc mặt trời mọc đầu kinh, những cánh cửa cây mở rầm rập, tiếng kéo thông hồng ken két nôn nã chuẩn bị buổi chợ mai, bắt đầu sinh hoạt nhộn nhịp huyên náo.
.
Trời chạng vạng tối, âm thanh của cây, thanh bình chậm rãi, thay tiếng trống thu không, nhắc nhỡ nhà nhà lên đèn cho gia đình ấm cúng, chừa một cánh cửa mở cho ánh đèn dầu lọt ra ngoài sân đủ sáng cho trẻ con chơi đùa, cho các bà ngồi chuyện trò trên chỏng, các ông dập dìu ra quán cà phê, thanh niên tụ tập đàn ca xướng hát.Cửa cây xếp gài bằng những cây thông hồng âm thanh mở cũng như đóng, thanh thản, không có gì vội vã, nghe như vỗ về, an lòng và dễ thương làm sao, người ta cũng đâu nỡ mạnh tay xô cửa vào giờ nghỉ ngơi.
.
Ngày nay, những dàn cửa sắt sơn xanh sơn đỏ, nhìn thấy nhức mắt, kéo nhanh nghe ê răng, điếc tai buổi sáng, nó báo hiệu cơn lo sợ tạm qua, sau tai nạn. Chiều về tiếng cửa sắt tranh nhau cảnh cáo người vào nhà, nghiến rít đe dọa, báo hiệu sự mất an ninh chuẩn bị đêm lo âu triền miên, bỏ lại bên ngoài không khí vắng vẻ bơ vơ cho lũ chó hoang sủa trăng, đêm hôm tối trời súng nổ, chúng nó trốn nơi nào. Bà vợ lâu lâu bực bội chửi chồng xa xả, ’làm thợ mộc mà cái giường ở nhà lung lay như răng ông già, cột nhà mọt ăn muốn sập, nhà dột cột xiêu’.‘Ôi, cuộc đời vô ơn bạc ngãi’, chú than, ‘ngoài đường cũng như trong nhà’.Chú Sáu nhìn lại hai bàn tay, đếm còn chín ngón, một ngón tay cái bị cái búa bén phạt bứt một lóng lúc đẽo cột, đầu gối vướng cây cưa, cái thẹo dài để đời. Chú Sáu buồn bã lắc đầu, lẩm bẩm an phận, ‘tổ còn trác, trách chi cái miệng đàn bà’.
***
Năm Có kéo ghế ngồi bên đánh thức Sáu Hường qua cơn mê ban ngày. Chú Sáu mừng rỡ như Bá Nha gặp Tử Kỳ.‘Uống cà phe, sao? Anh Năm thấy sao, coi kìa’, chú chỉ về phía tiệm Vĩnh Huê Chành, ‘cái tủ còn y nguyên đóng năm 48, bây giờ nó kéo bỏ một góc kia, cái tủ tôi đóng mấy ngày mới rồi, phần dưới để tô chén, phần trên làm bàn ăn cơm, nhứt cử lưỡng tiện. Cái nhà này chủ ỷ giàu, không tin phong thủy, bỏ cây đòn dông, cất nóc bằng, cất không có cửa sau, tiền vô dội ra như bị bịnh táo bón,ăn rồi ói, bị tịch biên phải rồi, nhà hướng tán gia bại sản’.Năm Có gật đầu đồng ý, cả hai uể oải sánh vai ra khỏi tiệm, khập khiễng ngã vào nhau. Hai người thấy cần nương tựa nưng đỡ tinh thần nhau để sống, bớt lẻ loi sau thời niên thiếu long đong làm việc nhọc nhằn như con ong thợ, xây tổ mà không được hút mật.
.
Hết cả dãy phố bị nhà nước mượn dần, hai người thợ già dẫn nhau đi xem, cơ hội cà phê tâm sự, từng tuổi này còn tranh đua gì. Chủ nhà bị đuổi , tiếc của đã đành, Năm Có và Sáu Hường tiếc công mình mấy mươi năm xây dựng, kẻ tiếc của, người tiếc công.Nhà cao cửa rộng bị tịch biên xong, đến những căn nhà lá xóm kinh bị dời đi theo chương trình thủy lợi gì gì đó. Chú Năm Có và Sáu Hường may mắn dựng lại hai căn chòi tranh chung vách, lợp tạm lá dừa, mưa dột nước tràn lênh láng. .
.
Tuy xa chợ, đường đất lầy lội khó đi, nhưng hai người rất toại nguyện được sống gần nhau trong cơn hoạn nạn, bà con xa không bằng láng giềng gần, chiều chiều ngồi chồm hổm, kể chuyện cái bai, cái cưa, cái bào, cây cột xây kiểu này, cái tủ đóng kiểu kia.Mỗi lần nghe nhà ai bị tịch biên, tim hai người bị nhói ít nhiều, chắc lưỡi tới lui, tiếc hùi hụi như người mất của, ‘ừ, nhà tôi xây đó, tường xây gạch thẻ chắc chắn’. Hai bà vợ hiền thục tới đâu nghe hoài cũng chán. Thím Năm đang thổi lửa nấu cơm, củi để ngoài trời bị mưa ướt nên khói bay mịt mù, cay chảy nước mắt, bực quá lên tiếng, ‘nữa, cũng cái giọng đó nữa, cái nhà nào cũng do ông xây cất hết, vợ con thì cất nhà chòi cho ở, bây giờ giỏi xây hai cái kim tỉnh để dành đó’.Chú Năm Có cười vả lã, ‘gạch hồ có đâu mà xây?’Thím Sáu Hường nhà bên được dịp, nói xéo chồng, vừa cho hàng xóm nghe:
‘Nè, ông thợ mộc, rãnh đóng giùm hai cái thọ đi Chú Sáu Hường ngáp dài,’cây ván đâu mà đóng’Tiếng chú Năm Có bên nhà vọng qua, ‘thôi anh Sáu, mình ra bờ kinh kéo vó coi có mớ cá sặc nào không, cá sặc rằn làm khô nhậu bắt dữ a!’Hai ông bạn già lụm cụm xuống bờ kinh ngồi bệt xuống cầu ván.
.
Chú Sáu lè nhè,‘Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẽo, gập ghềnh khó đi’.Hai mái đầu bạc phơ gật gù mơ tưởng mình là Khương Tử Nha ngồi câu cá chờ thời, mỗi lần kéo vó lên, đáy vó chỉ có vài cọng rong xanh, vài cánh bèo, một ý nghĩ thoáng qua óc, chú Năm thẩn thờ, ‘anh Sáu à, vợ tôi nói phải anh à, mình già rồi, trước sau gì cũng đi theo ông bà ông vãi, phải như hồi còn trẻ, biết vậy, mua đá xanh xây sẵn kim tỉnh cho mình. Kim tỉnh xây bằng đá xanh chắc không sợ nước, không mục, đời đời không sập’.Chú Sáu hưởng ứng, ‘ừ, anh nói tôi mới nhớ, phải biết hồi đó cây ván còn rẽ, tôi đóng cái thọ bằng cây gõ, cây dên dên xanh, dòng thứ dên dên xanh nằm dưới đất cả mấy trăm năm không mục, xương cốt còn nguyên. Bây giờ làm sao kiếm thứ cây đó’.Cả hai dựa vai nhau, mặt buồn thiu, ủ rũ.
.
Trên bờ đê, đám lau sậy cúi đầu yên lặng, xì xào tâm sự - chia xớt nỗi xót xa.‘Ông ơi, lên xúc cám cho heo ăn dùm’, tiếng thím Năm gọi chồng. Bên kia nhà, tiếng thím Sáu ơi ới, ‘ông ơi, lên bửa giùm đống củi mai có nắng phơi’.Hai ông già nhìn nhau, chia xẻ chung một ý nghĩ, ‘thợ hồ mà bắt đi xúc cám cho heo ăn, thợ mộc khéo như anh mà bả kêu đi bửa củi’. Chú Năm lép nhép ‘giết ruồi mà mượn tới gươm vàng’.
.
Chiều về trời bảng lảng những đám mây vàng ánh như màu lúa chín, đàn chim học trò lũ lượt bay về núi, xa xa vài con chim thi rớt mỏi mệt vỗ cánh bay theo. Trên bờ dọc theo con kinh hai ông già lọm khọm dắt nhau, chân dò dẫm,đi ngữa nghiêng như hai người say rượu.Chú Sáu an ủi nói theo tiếng thở ra thật dài, ‘đổi đời rồi anh Năm à, tới hai con gà mái nhà mình còn biết gáy, đổi đời thiệt rồi anh!’
.
CHÚ THÍCH:- Cái sự vong như cái sự tồn: mất cũng như còn.
- Ghẻ chùm bao: loại ghẻ làm da sần sùi, màu xám giống mụt cóc.
- Chuối cau mẳn: loại chuối cau nhỏ, bằng ngón tay cái là lớn nhứt.
- Bông dụ: một trò chơi cờ bạc, cái bông dụ có sáu mặt, từ một đến sáu, giống trò chơi đổ xí ngầu lác
.- Trái hồng quân: nhỏ bằng đầu ngón tay cái,ăn ngọt, màu huyết sậm.
- Vải ú: loại vải thô
.- Thị thiềng (động từ): phao tin đồn.
- Gươm lục yểm: loại gươm trừ tà trong truyện cổ Tàu.
- Ðưn: loại lá dùng lợp nhà, mát nhưng mau dột, dễ cháy.
- Mộc đè: ngủ buổi xế khó dậy
.- Ðề bô (depot):đại lý, hoặc kho.
- Thao lao, dầu, căm xe, cà chất: tên các loại gỗ.
- Phạt mộc: chặt gỗ.
- Kim tỉnh: giếng vàng, cái huyệt chôn.
- Cái thọ: quan tài.
- Cây thông hồng: nhỏ hơn ngón tay út, dài chừng hơn một thước, bằng kim loại, xỏ vào cái khoen, dùng để gài cửa.
- Mỗi người tốn ba thước củi: dân Miên khi chết, họ thiêu, tốn khoảng ba mét củi.
- Gà mái biết gáy:đàn bà cầm quyền.
Gailes, Australia, 6/1989
.

Tuesday, July 28, 2009

Việt Kiều đỏ, Việt Kiều xanh
» Tác giả: Định Nguyên »

1. Việt Kiều đỏ, Việt Kiều xanh
“…có một vương quốc riêng, một vườn địa đàng riêng của “Việt Kiều Đỏ” tại quê hương chúng ta được xây dựng nổi trên mặt đất mà cột trụ là những tấm thân gầy guộc và lem luốc của những người dân Việt Nam bần hàn và cam phận…”

Biến cố Hoàng Sa-Trường Sa thế mà cũng có mặt tích cực. Hơn ba chục năm trong ngoài im lìm, ngờ vực, và đối kháng; vừa qua, người Việt Nam quốc nội cũng như hải ngoại có dịp bày tỏ tinh thần bảo vệ Tổ Quốc cao độ của mình một cách khá đồng loạt mà không quan tâm lắm đến màu cờ hay chính kiến. Để biểu đồng tình cũng như hổ trợ chuyện biểu tình chống Trung cộng tại Hà Nội và Sài Gòn, người Việt Nam hải ngoại cũng đã tổ chức biểu tình nhiều nơi, trước toà đại sứ hay tổng lãnh sự Trung cộng. Ngoài ra, có rất nhiều bài viết và lời góp ý của rất nhiều người trong cũng như ngoài nước về vấn đề nầy. Là người thích những tin tức, những bình luận chính trị hơn bất cứ một thể loại nào khác nên tôi đọc tất cả không chừa một bài, một chữ nào. Và tất cả những bài viết, những lời góp ý ấy đã làm tôi cảm động và tin tưởng vào tiền đồ của Tổ Quốc: Lòng yêu nước còn thì Tổ Quốc còn!

Tất cả những bài viết và góp ý ấy bài nào cũng hay, lời góp ý nào cũng tâm huyết. Nhưng có một đoạn góp ý của một vị nào đó (xin lỗi tôi không nhớ tên, đã lục lại tìm hai ba lần nhưng cũng không tìm ra) rất đáng chú ý. Ông ta (?) đề nghị những công nhân Việt Nam mỗi tuần nên hy sinh nhịn một bữa ăn trưa cỡ trên mười ngàn đồng tiền Việt Nam (tương đương khoảng trên 60 cents USD) để dồn tiền mua tàu chiến tối tân bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt là vùng biển và các hải đảo xa xôi. Người có đề nghị nầy phải là một người yêu nước thật sự, thấy được thế yếu của Việt Nam chúng ta trước anh khổng lồ bành trướng bắc phương. Nhưng lạ là tại sao ông ta chỉ đề cập đến các anh chị công nhân thôi? Các thành phần dân tộc khác ở đâu? Và nhà cầm quyền CSVN ở đâu? Bàn việc nước mà không quan tâm đến vai trò của nhà cầm quyền sao ổn được? Chuyện nhà nước sẽ đề cập sau, trước hết hãy nói chuyện tiền. Cứ giả sử như đây là “việc cần làm ngay”, nghĩa là Việt Nam cần tiền để mua sắm chiến cụ tối tân để bảo vệ Tổ Quốc, ngoài thành phần công nhân mà ông bạn nhắm đến, tôi xin giới thiệu hai thành phần nổi cộm khác giàu có hơn nhiều: “Việt Kiều Đỏ” và “Việt Kiều Xanh”! “Việt Kiều Đỏ” là những đảng viên ĐCSVN, bà con thân nhân, bạn bè của họ cùng những người giàu có hoặc sống thoải mái nhờ quyền lực của CSVN. “Việt Kiều Xanh” là những người Việt Nam tị nạn cộng sản trên khắp thế giới.

Thông thường, người ta nói “Việt Kiều” là nói đến những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Quan niệm “Việt Kiều” của tôi có phần “thoáng” hơn, bao gồm hai loại sau đây: Một, những người Việt Nam sống ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hai, những người tuy sống trên lãnh thổ Việt Nam nhưng tôn sùng và phục vụ một chủ nghĩa ngoại lai, không phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam. Đất đai lãnh thổ của Tổ Tiên Việt Nam để lại họ coi như không phải gia sản chung của Dân tộc Việt Nam mà của Chủ nghĩa Cộng sản nên đã sử dụng một cách tùy tiện nhằm mục đích bành trướng chủ nghĩa nầy. Trên quan điểm đó, ngoài “Việt Kiều Xanh” sống rải rác khắp năm châu, toàn bộ đảng viên ĐCSVN và những thành phần bám vào quyền lực của họ đều có thể cho là “Việt Kiều” tại chỗ. Loại “Việt Kiều Đỏ” nầy bao gồm toàn bộ VC sinh sống ngay chính trên đất nước Việt Nam và những kẻ tay sai, đặc biệt là thành phần trí thức sống ở nước ngoài, có mặt trong tất cả các cộng đồng Việt Nam lớn nhỏ khắp nơi, ngay trong địa phương tôi ở cũng không thiếu. Biến cố Hoàng Sa-Trường Sa không những đã phơi trần dã tâm buôn dân bán nước của CSVN mà còn giúp chúng ta dễ nhận biết những kẻ “ăn cơm tự do, thờ ma về cộng sản” từ bấy lâu nay tại các địa phương.

Đối với Dân tộc Việt Nam, hai loại “Việt Kiều” “Đỏ” và “Xanh” nầy, một bên nhờ quyền lực, một bên do hoàn cảnh, đã có cuộc sống tách vượt hẳn so với đại đa số người Việt Nam hằng ngày “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”. Cần tiền để mua tàu chiến hiện đại mà không nghĩ đến hai thành phần “Việt Kiều” nầy là một thiếu sót lớn. Không cần phải nhịn ăn trưa hằng tuần, họ cũng có thể góp hằng triệu, hằng tỷ đô la trong vòng một thời gian ngắn!

Trong suốt cuộc chiến vừa qua, ngoại trừ những cấp lãnh đạo chóp bu, phải công nhận rằng cùng với thường dân bị lùa đi bộ đội, lao công vận tải, thanh niên xung phong…đại đa số đảng viên CSVN đã phải trải qua một cuộc sống vô cùng nguy hiểm, vất vả, và cơ cực trong núi rừng. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ. Họ đích thực là những người vô sản. Họ là những người trong sạch chưa biết tham nhũng, hối mại quyền thế là gì. Nhưng sau khi lấy được miền Nam, thâu tóm giang sơn về một mối, cuộc đời của họ đã thay đổi hoàn toàn, thay đổi tận gốc rể. Bỗng nhiên họ có đủ thứ, họ không còn là dân vô sản thực thụ nữa. Trong phút chốc, một số họ đã trở nên những chủ nhân ông của những biệt thự lộng lẫy, những xe hơi bóng loáng, những dụng cụ cá nhân và gia đình tối tân mà họ chưa hề thấy, chưa hề biết sử dụng bao giờ. Thời gian qua, ngoại trừ số đoản mệnh chết sớm hoặc già cả bệnh hoạn phải về hưu, cuộc đời của những đảng viên ĐCSVN còn tại chức cứ thăng tiến dần, cho đến nay thì đa số họ đã trở nên những kẻ giàu có nhà ngang dãy dọc, xe cộ tườm tượp, “tiền rừng bạc biển”. Chức quyền càng cao tiền bạc của càng nhiều. Vị trí càng quan trọng tài sản càng kếch sù. Làm thế nào họ có thể trở nên giàu có như vậy? Hãy nghe Phạm Lưu Vũ nhận xét trong bài “Học cách làm giàu”. Theo Phạm Lưu Vũ, có nhiều cách làm giàu, nhưng “làm tiền trong môn chữ “lộc” là cách an toàn nhất, mau giàu nhất:

“Làm tiền trong môn chữ “lộc” là dối trá để được lên cao, bợ đỡ để được thăng chức. Thăng rồi lại thăng nữa, thăng mãi không ngừng. Muốn thế phải kết bè kết cánh, lừa dưới lừa trên, lừa cả quỉ thần, thiên hạ lưu manh thu về một mối. Bề ngoài thì nhũn nhặn như đầy tớ. Bên trong thì quyền to như ông chủ…Cho tới khi nhất hô vạn ứng, triết lý sẵn sàng…là có thể tranh cướp bổng lộc, giành giật địa bàn, bạ đâu “ăn” đấy…Nhưng phải đến khi đặt ra luật lệ, biến hóa tùy thời, quyền ăn, quyền nói, quyền trói, quyền cởi…nhất nhất đều ở trong tay mình. Thì bấy giờ mới có thể “ăn” bất cứ cái gì, của bất cứ ai. Từ việc hớt “lộc” của đám quan chức dưới quyền, đến việc nẫng váy của lũ thứ dân…tất cả đều là những việc làm thường ngày, đơn giản, không để lại chứng cớ gì. Đó gọi là đạt tới cảnh giới: “lộc lai tùy tâm” (lộc đến tùy theo lòng (tham) của mình)…

Môn chữ “lộc” nầy là một môn làm tiền thượng đẳng cao siêu, đến quỉ thần cũng không sao lường được”…

Đảng CSVN (ĐCSVN) là một “đội ngũ tiên phong” làm tiền theo môn chữ “lộc” nầy đây. Tình trạng “nhất hô vạn ứng, triết lý sẵn sàng…Bề ngoài thì nhũn nhặn như đầy tớ. Bên trong thì quyền uy như ông chủ… và mọi luật lệ đã được đặt ra từ lâu cho phép họ quyền ăn, quyền nói, quyền trói, quyền cởi” không ai được làm khác, chính là bản chất của chế độ CS tại Việt Nam. Cho nên, hiện nay, họ có thể “ăn” bất cứ cái gì, của bất cứ ai. Không phải tất cả “Việt Kiều Đỏ” đều có điều kiện “ăn” như nhau, nhưng trong môi trường ấy, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ, “lộc lai tùy tâm”, tuy mức độ khác nhau, họ trở nên giàu có là chuyện quá dễ hiểu. Cứ về Việt Nam., đi khắp mọi ngõ ngách đất nước sẽ thấy cán bộ chức quyền có nhà cửa nguy nga, xe cộ bóng loáng, cuộc sống sung túc vượt hẳn đại đa số người dân xung quanh họ. Đã có một vương quốc riêng, một vườn địa đàng riêng của “Việt Kiều Đỏ” tại quê hương chúng ta được xây dựng nổi trên mặt đất mà cột trụ là những tấm thân gầy guộc và lem luốc của những người dân Việt Nam bần hàn và cam phận.

Năm 2003, khi lần đầu tiên về Việt Nam sau gần mười bốn năm ra đi, trong những ngày cuối tôi được chú em họ dẫn đường xuống nhà hàng nổi trên sông Sài Gòn để ăn tối. Nhà hàng nổi được thiết kế trên một chiếc tàu khá lớn, sức chứa có thể ba bốn trăm người, có sân khấu và nhạc sống như nhà hàng trên đất liền. Khi đến giờ, ca sĩ xuất hiện, nhạc sống bắt đầu, tàu nhổ neo từ bến Bạch Đằng chạy chầm chậm quanh Sông Sài Gòn cho thực khách vừa ăn, vừa nghe nhạc, vừa ngắm cảnh thành phố ban đêm. Đẹp và rất thoáng mát. Dù là một “Việt Kiều Xanh” nhưng sau gần một tháng ở VN túi tiền đã vơi, tôi chỉ gọi vài món ăn bình dân với vài chai bia giải khát. Trong khi đó, toàn bộ boong tàu đầy nhóc người, bàn nào bàn nấy thức ăn đầy ắp, đặc biệt bàn bên cạnh chỉ thấy có 5 người đàn ông trung niên mà có đến hai chai XO trên bàn. Tôi thấy “khớp” nên hỏi nhỏ chú em: “Họ là ai mà sang quá vậy, có phải Việt Kiều không”? “Không phải Việt kiều mô, các quan chức và các đại gia đó. Em biết một người trong số họ”, chú em trả lời. Tôi chợt nghĩ, những người trên nhà hàng nổi nầy không “Việt Kiều Xanh” thì cũng “Việt Kiều Đỏ”, người dân VN bình thường đang ở dưới kia kìa…!

Khi tàu đang chạy, tôi nhìn xuống giòng sông đục ngầu và đầy rác rưởi, thấy một người đàn ông đang bơi một chiếc xuồng bé nhỏ phía dưới. Cứ tưởng là dân đánh cá nên tôi cứ lơ đãng phóng tầm mắt nhìn mọi thứ, từ những tòa nhà cao nghệu đến những vùng xa xa tràn ngập ánh điện. Bỗng tôi giật mình nghe tiếng sột soạt bên cạnh cửa sổ. Quay nhìn lại: một cái rá bằng lưới đang di động qua lại ngay trước mắt, phía ngoài khung tàu. Tôi không biết chuyện gì nên quay nhìn chú em có ý hỏi. “Họ ăn xin đó anh ơi”! Bấy giờ, tôi lần theo cái rá lưới nhìn xuống thấy người đàn ông ngồi trên xuồng, tay cầm một cái sào tre thật cao vươn tới tận chỗ chúng tôi ngồi, tầng ba của con tàu! Khi thấy có người bỏ tiền vào rá, ông ta hạ sào xuống, lấy tiền và tiếp tục lần khác. Cũng như phần lớn người Việt Nam khác, người đàn ông đói nghèo nầy không thể lên được nhà hàng nổi nên phải “phát huy sáng kiến”, dùng “cần câu cơm” kiểu XHCN nầy để kiếm sống!

Khi tàu trở lại bến chúng tôi rời nhà hàng nổi với vẻ lạnh nhạt của những người phục vụ. Cũng phải thôi, chúng tôi không phải là những thực khách hào sảng và thường xuyên như họ mong đợi.

Nhất muối tiêu, nhì Việt kiều!

Đó là nhận định rất tinh mắt của giới kinh doanh dịch vụ ăn chơi trong nước. “Muối tiêu” là những “đại gia” tóc đã bạc một phần, bao gồm chủ tịch các cấp chính quyền, bí thư các cấp đảng ủy, tổng giám đốc, giám đốc các xí nghiệp, nhà máy…Họ là những “Việt Kiều Đỏ” tiêu biểu và giàu có nhất của xã hội Việt Nam. Không có nghề nào kiếm tiền dễ bằng “nghề” ỷ quyền để móc ngoặc và hối lộ tham nhũng. Tối nay họ đi chơi mất một số tiền, ngày mai chỉ cần một cái gật đầu, một cái nháy mắt, một chữ ký…không những họ có thể lấy lại số tiền đó mà còn “bội thu” rất nhiều. Thường, những tay cờ bạc thắng tiêu xài rất rộng rãi. Đại đa số cán bộ đảng viên có chức quyền trong nước đã và đang thắng những canh bạc rất lớn nên họ tiêu xài hết sức thoải mái. Con cái của họ, các “công tử” chế độ, sẵn nguồn tiền bất tận của cha mẹ nên ăn chơi và đua đòi lên tận trời xanh. Đa số dân lao động kiếm không ra 3-4 đô mỗi ngày, “Việt Kiều Đỏ” ăn chơi 5-10 vé (vé=100đô) một đêm là chuyện thường. “Việt Kiều Xanh” làm sao theo kịp?! Không phải “Việt Kiều Xanh” nào cũng có điều kiện như nhau, chỉ một số thôi, và giỏi lắm một hai năm cũng chỉ về quê, lận lưng chừng một hai chục ngàn đô, đóng vai hào hoa phong nhã một lần (về lại lo cày thấy mẹ mới kiếm lại được chi phí nầy) nhưng “Việt Kiều Đỏ” quanh năm “thú vui suốt sáng, trận cười thâu đêm”. “Việt Kiều Xanh” mấy ai dám xài xe hơi trị giá từ ba trăm ngàn đến một triệu rưởi đô, đặc biệt là xe bọc thép chống đạn như một số “Việt Kiều Đỏ” đang chơi trội! “Việt Kiều Xanh” đã có ai dám xài cell phone cần kim cương trị giá một trăm ngàn Mỹ kim như có “Việt Kiều Đỏ” đang dùng?

Tóm lại, bên cạnh đại khối người Việt Nam nghèo khổ, “Việt Kiều Đỏ” là thành phần giàu có ngất trời, giàu hơn cả “Việt Kiều Xanh”. Nếu CSVN lập được “Hội Việt Kiều Yêu Nước” tại chỗ và cũng có lòng như “Việt Kiều Xanh” thì dân Việt Nam đỡ khổ hơn nhiều. Cứ nghĩ coi, hằng năm người Việt Nam ở nước ngoài gởi về nước chừng ba, bốn tỷ đô la, ngoài chuyện giúp đỡ gia đình còn cứu trợ đủ thứ. Từ cứu trợ bão lụt, thiên tai đến giúp bạn bè, làng xóm cũng như người bệnh hoạn tàn tật…trong khi “Việt Kiều Đỏ” cứ tiếp tục thu gom và ôm của sống cuộc đời vương giả, không cần biết cảnh đời khốn khổ xung quanh thì khó coi quá?! Các nhà tu như linh mục, đại đức; các hội “từ thiện”… cứ nườm nượp ra hải ngoại chiếu cố vắt kiệt “con bò sữa” hải ngoại trong khi lại không chú ý đến “kho bạc vĩ đại” ngay bên cạnh, trong tay hàng ngũ “Việt Kiều Đỏ” tại Việt Nam thì lạ thật!

Tóm lại, hai thành phần “Việt Kiều” nầy, dù hoàn cảnh và cách sống, cách làm tiền khác nhau, đã có khả năng tài chánh vượt trội so với đại khối dân Việt Nam trong nước, kể cả hàng ngũ công nhân. Số lượng “Việt Kiều Đỏ” và “Việt Kiều Xanh” coi như tương đương, mỗi bên có chừng trên dưới ba triệu người. Nếu hằng ngày mỗi người bỏ ống một đô la thì trong một ngày đã có khoảng sáu triệu đô, một tháng có một trăm tám chục triệu đô. Cứ làm vài bài toán nhân sẽ biết một năm, hai năm, mười năm…sẽ có được bao nhiêu tiền. Trong trường hợp khẩn cấp, mỗi người đóng góp mười đô (hay nhiều hơn) một ngày thì số tiền sẽ không nhỏ. Đó là chưa kể những “top hundred, top thousand…”, những người đại giàu có nhưng yêu Tổ Quốc hơn yêu CNXH, có thể “tự giác” đóng thêm nữa thì số tiền sẽ rất nhiều.

Nhưng, tiền không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sao thu gom tiền? Liệu “Việt Kiều Đỏ” có sẵn lòng như “Việt Kiều Xanh” không? Và, cứ giả sử như một số “Việt Kiều Đỏ” xé rào, trộm lệnh đảng, sẵn sàng cùng “Việt Kiều Xanh” đóng góp tiền của để bảo vệ Tổ Quốc thì khi đã có tiền rồi giao cho ai? Ai chịu trách nhiệm đứng ra mua vũ khí? Khi mua được vũ khí tàu bè rồi, giao cho ai điều khiển và chiến đấu? Chính quyền CSVN? Tôi nghi quá, biểu tình chống Trung cộng xâm lăng mà còn không cho, còn bị bắt, làm sao dám nghĩ đến chuyện yêu cầu họ chống lại “người đồng chí môi hở răng lạnh”, “người thầy Trung Quốc Vĩ Đại” ? Đưa tiền cho họ bỏ túi thì được, nhưng yêu cầu họ mua vũ khí để chiến đấu chống Tàu, bảo vệ Tổ Quốc thì nên suy nghĩ cẩn thận, coi chừng ở tù cả đám!

Định Nguyên

(Nguồn :http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=19879

TRỞ VÊ ĐẨU TRANG