.
Friday, July 31, 2009
.
Thursday, July 30, 2009

Cái Cò - Băng Tâm
Thân tặng những người vợ : Quân ,Dân, Cán ,Chính VNCH ,có chồng bị cầm tù dưới chế độ Cộng Sản khát máu.
"Cánh cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi"
Cái lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Thương em dạ sắt lòng son
Một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng
Bàn tay ai tốn vàng ròng
Bàn tay nay nứt máu hồng tuông rơi
Nhìn nhau muốn nói vạn lời
Mà tim se thắt rối bời tâm cang
Cánh cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi
Cánh cò ngày nay xuống biển tìm mồi
Ngô sắn, khoai sùng ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi
Cánh cò lặn lội bờ ao
Bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con
Thưong em lội suối trèo non
Dùng gánh, tay may nuôi con thay chồng
Biển dâu đã hoá ruộng đồng
Nhà tan nước mất vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không vê
Vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang
Cánh cò ngày nay mơ từng chén gạo
Giọt máu đào dành để bán nuôi con
Cánh cò ngày nay gối mỏi chân mòn
Vai gánh vai gòng đi thăm chồng cách núi ngăn non
Cánh cò lặn lội bờ đê
Đói khổ trăm bề nưóc mắt đầy vơi
Thương em tuổi mới đôi mươi
Vì cơn quốc biến hoang trôi phương trời
Chiều trên quốc lộ kinh hoàng
Chồng em tuẩn tiết máu tràn như sông
Chồng em chí sĩ anh hùng
Vi dân chiến đấu thác cùng muôn dân
Cánh cò ngày nay đã thành góa phụ
Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con
Muốn về làng quê, quê cũng không còn
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng chướng khí lam sơn
Cánh cò lặn lôi bờ mương
Vét cống đào đường gió rét lạnh căm
Chồng em giặc bắt biệt tăm
Tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào
Một đêm gió lạnh mưa vào
Đưọc tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục tù
Khổ sai đói rét Cộng thù giết anh
Cánh cò một thân lên vùng đất lạ
Đến trại tù tóc vấng vành tang
Đến từng mộ hoang máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng không mộ phần không khói không nhan !!!
Vạn Lý Thăm Chồng
Thu Thuỷ
(Thương tặng các bạn gái đồng cảnh ngộ)
Ðã gần 19 năm sống tha hương, mỗi lần nhìn mưa phùn rả rích lất phất rơi đem theo cái lạnh cắt da, mình cảm thấy lòng se thắt lại, nhớ hoài kỷ niệm thật buồn khi cùng ba con nhỏ dại băng rừng vượt suối ra tận Thanh Hóa tiếp tế lương thực cho anh Trường. Chuyến đi nhiều gian nan ấy hằn sâu trong tâm khảm mình mặc dầu đã 21 năm rồi từ ngày bốn mẹ con dắt díu khệ nệ khiêng từng thùng thiếc bao bị đệm cả hơn trăm ký lô đồ ăn lên tàu Thống Nhứt ra Thanh Hóa.
Mình còn nhớ rõ buổi chiều ấy thật ảm đạm, nắng đã tắt từ lâu như tia hy vọng mong chồng được thả về đã tiêu tan, lòng nặng trĩu âu lo, mình cùng cậu Thu em trai của chị Tố Nga chuyển các thùng đồ ăn nặng trĩu lên tàu (chồng chị Tố Nga cùng ở chung trại Thanh Hóa, chị cảm thông mình đơn chiếc yếu đuối nên cho em trai ra ga Lê Lai phụ mình). Sau khi đã kiểm kỹ lại các thùng thiếc và chắc chắn không cái nào bị mất mát, cho các con ngồi vào toa xong, mình vội vã cám ơn cậu Thu, lúc ấy cũng hấp tấp nhảy mau ra khỏi toa vì một hồi còi tàu rú lên, báo hiệu tàu sắp rời ga. /
Lần đàu tiên trong đời được đi xe lửa, ba con mình ngạc nhiên lạ lùng mở to mắt nhìn các trẻ nhỏ cùng lứa tuổi đang nô đùa trong các dãy nhà san sát cạnh đường rầy dọc theo xóm Bàn Cờ, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Bình Triệu. Mặc dầu mình đã nói trước với các con là bốn mẹ con sẽ đi thật xa ra Bắc thăm Ba, đem đồ ăn tiếp tế cho Ba nhưng hai đứa con trai còn quá nhỏ, trí óc non nớt không mường tượng nổi rằng đây là cuộc hành trình gian nan dài cả 1200 cây số. Chỉ có con gái đầu lòng Thủy Tiên khôn lanh và lớn hơn, mơ hồ cảm thấy không phải là một chuyến đi bình thường nhiều thú vị như khi xưa cùng đi với cả gia đình ra Vũng Tàu hoặc lên Ðà Lạt. Thủy Tiên thu mình lại, ngồi rúc vào một góc băng, cặp mắt xoe tròn, lo âu nhìn các hành khách xa lạ chung quanh. Sơn, Tùng vô tư lự và hiếu động, ngồi không yên, tò mò chạy lăng xăng trong toa. Mình xót xa nhìn các con thầm cầu nguyện cho bốn mẹ con được bình an suốt cuộc hành trình. Ðêm đến bốn mẹ con co rút ngồi sát vào nhau, cố dỗ giấc ngủ một cách khó khăn. Ðùi mình tê cứng, sưng húp lên vì muốn cho các con được ngủ thoải mái, mình luân phiên kê đầu mỗi đứa trên đùi mình, để các con đỡ mệt. Lưng mình đau rả rời vì ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ bất động. Ngồi kiểu nầy suốt ba ngày ba đêm chắc chết mất, mình nhủ thầm, ngao ngán và mệt mỏi. Liếc mắt thấy các người đồng hành mạnh ai nấy tìm một khoảng trống nhỏ dưới chân hoặc ngay cả lối đi chật hẹp để trải tấm nylon nằm cho đỡ mỏi lưng, mình cũng bấm gan trải đại các tờ báo dưới băng, kêu Sơn Tùng thu mình co chân lại nằm đỡ, nhờ vậy Thủy Tiên có thể tạm thời nằm dài ra trên băng cây (có đến ba người lớn ngồi chen chúc trên một băng). Mình thì chịu đựng hết nổi, lăn kềnh ra ở lối đi, đắp vội cái khăn quàng cổ lên mặt để bụi cát từ giày dép các hành khách qua lại không rơi vào mắt.
Chưa bao giờ mình thấy thấm thía câu "buồn ngủ gặp chiếu manh" như lúc nầy. Bốn mẹ con nằm được "thoải mái" hơn, đỡ tê cóng chân tay, nên mệt mỏi ngủ thiếp đi, đến sáng lúc nào không hay, mặc dầu trong đêm bao nhiêu chân thản nhiên bước qua người và đầu cổ mình. Thiên hạ nằm la liệt : người lớn thì tràn ngập lối đi, trẻ con nhỏ người hơn cố chui rúc xuống gầm băng, các bộ đội quen ngủ võng trong rừng thì treo võng nằm vắt vẻo như vượn, đong đưa qua lại tỉnh bơ trên đầu hành khách. Quang cảnh trong toa thật hỗn độn chưa từng thấy : tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tằng hắng, tiếng trẻ nhỏ la hét khóc ban đêm, xen lẫn tiếng đập ruồi muỗi chát chúa, chưa kể lâu lâu nước tiểu trẻ con đái dầm ban đêm chảy dài loang ra sàn thối tha dơ bẩn. Trời hừng sáng bốn mẹ con lồm cồm ngồi dậy, áo quần nhớp nhúa hôi hám, phờ phạc người, thấy ai nấy đều lấm lem, lấy lon hoặc ca súc miệng, phun ra cửa sổ toa, làm vệ sinh lau mặt ngay tại toa.
Ban đầu còn ái ngại, sau đó mình cũng quen đi, thản nhiên cho các con súc miệng như mọi người. Tàu ngừng ở các ga lẻ ở miền Trung, cảnh buôn bán tấp nập vô trật tự : ai cũng hấp tấp mua bán vì sợ tàu chạy bất thình lình, không kịp đưa hoặc thối tiền.Thôi thì tiếng la ó cãi vả mắng chửi chí chóe nổi lên, đinh tai nhức óc. Thủy Tiên, Sơn, Tùng mừng rỡ vì được dịp ăn các món cháo lòng, miến gà, cơm tấm bì, cơm sườn, hột vịt lộn, bán dọc theo các ga.
Ðã năm năm nay từ sau 75, quen ăn uống kham khổ, các con ngạc nhiên thấy lần nầy mình cứ mua tới tấp đồ ăn, đâu có ngờ rằng sở dĩ mình phung phí là mình lo các con mệt đói, ngả bệnh không đủ sức để tiếp tục băng rừng vô trại. Mình thì ngao ngán ăn uống qua loa cho có sức cầm cự, nôn nóng mong sao cho tàu mau đến Thanh Hóa, chán chường nhìn thắng cảnh qua cửa sổ mặc dầu dọc đường có biết bao bãi biển xanh biếc và núi non hùng vĩ của miền Trung.
Sau ba ngày trời ròng rã sống trong địa ngục hôi hám của toa xe chật chội dơ dáy, bốn mẹ con đến Thanh Hóa. Lại một phen chật vật, chen lấn, mồ hôi nhễ nhãi, bốn mẹ con mới khệ nệ khiêng đủ các thùng thiếc nặng cồng kềnh xuống ga. Thật là "trầy da tróc vảy" vì chỉ cần sơ hở một chút thì bị mất cắp đồ hoặc bị móc túi ngay. Sơn mới mười tuổi đầu hơn còn Tùng chưa đầy chín tuổi, nhưng đã tỏ ra bảo bọc che chở má và chị yếu ớt, giành xách các bao bị đệm to. Nhìn các con nhỏ bé khẳng khiu oằn vai dưới gánh nặng mình đau lòng tủi thân vô cùng. Vì đâu mà nên nỗi nầy? Mình cắn răng để khỏi bật khóc, mím môi nhìn lên trời xanh, thầm cám ơn ơn Trên đã phù hộ bốn mẹ con đi đường bình an vô sự.
Ðường vào trại xa cả năm chục cây số mà đã xế chiều hết xe đò đi ngang trại, nên bốn mẹ con đành phải vào tạm trú ở nhà trọ gần ga. Nói là nhà trọ, nhưng thật sự chỉ là những tấm phên tạm dựng lên sơ sài, trong có nhiều giường tre ọp ẹp cho khách mướn nghỉ đêm đỡ, đợi sáng sớm hôm sau lấy xe đò vô trại. Bốn mẹ con kinh hoàng chui rúc nằm trên chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo. Mình lấy các thùng thiếc bao bị sắp xếp lại, và tấn xung quanh cái mùng rách nát vá víu cả trăm lỗ, vì nghe nói đồ ăn để ngoài mùng sẽ bị chuột cống chiếu cố.
Ðêm đó mình phải đương đầu, dương Ðông kích Tây với lũ muỗi đói vo ve bay tới tấp, xuyên theo các lỗ rách của mùng. Nhưng hãi hùng nhứt là mục kích từng đoàn chuột cống kếch xù đánh hơi mùi đồ ăn, chạy lúc nhúc xung quanh các thùng thiếc y như những bóng ma trong các phim kinh dị. Nửa đêm, Sơn bị "Tào Tháo rượt", mình phải bấm gan rùng mình dẫn con ra nhà vệ sinh nhớp nhúa tận sau hè, tối om và thối tha. Hai mẹ con sợ hãi gớm ghiếc không dám nhìn cái thùng phẩn đầy dòi và ruồi nhặng, lại càng thêm rùng mình rợn xương sống khi trở về giường dưới bóng cây đa, với tàn lá âm u ma quái.
Tờ mờ sáng, mình giật mình vội đánh thức các con dậy để cùng nhau gom góp hành lý, khập khểnh khiêng lần ra bến xe đò gần đó, sắp hàng mua vé. Chen vai thích cánh với làn sóng người hỗn độn, nón lá rách bươm, mình mớỉ khổ sở giành giựt mua được vé xe đò vào gần trại. Sau khi chuyển được đồ đạc lên xe, mình thở phào ôm các con ngồi vào băng phía cuối xe. Mình tự phục thầm lấy mình là không hiểu có sức mạnh phi thường nào mà mình có đủ sức cùng các con khiêng lên xe cả trăm kí lô lương thực. Chiếc xe đò già nua sét rỉ, chậm chạp lăn bánh...
Gió mát buổi sáng tinh sương hiu hiu thổi, Thủy Tiên, Sơn, Tùng lim dim ngủ gà ngủ gât, vì đêm qua không được ngon giấc bởi lũ chuột và muỗi. Nhìn các con ngủ thơ ngây như thiên thần, mình cảm thấy ruột gan se thắt lại. Một ông lão nông dân ngồi gần thấy cảnh bốn mẹ con lặng lẽ nắm tay nhau, thu mình trong góc xe, tỏ vẻ ái ngại hỏi thăm. Mình bâng quơ trả lời qua loa, lòng tự ái không muốn ai thương hại. Lâu lâu đi ngang các ổ gà, xe giằng mạnh, tung xốc các hành khách ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Xe chạy độ một tiếng rưỡi thì ngừng trước một lều tranh được dựng bên đường, nơi điểm hẹn sẽ có xe trâu mỗi ngày từ trại ra đón các thân nhân trong Nam ra thăm nuôi trại viên.
Bốn mẹ con tụt xuống xe, quần áo xốc xếch đầy bụi bặm, mặt bơ phờ thiểu não. Mình vội kiểm lại đồ đạc, mừng rỡ thấy không bị mất mát hư hao vì trộm cắp và lũ chuột. Mình xoa đầu ba con khuyến khích khen "Các con giỏi lắm, đã phụ Má xách đồ ăn nặng cho Ba mà lại ngoan nữa. Ba sẽ rất mừng gặp lại các con và biết ơn Má con mình đã đem đồ ăn ra cho Ba". Thủy Tiên, Sơn, Tùng lặng lẽ không đáp, chỉ nắm chặt tay mình lại, lòng mình ấm lại, bao nhiêu nỗi nhọc mệt như tan biến, vì biết rằng bên mình còn có các con ngoan. Mình nhủ thầm : "Can đảm lên! Mình đã gần tới đích rồi! Ðường đi dầu có hiểm trở cách mấy, mình cũng không ngại. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa thôi! Cố gắng lên!" Ðúng như các chị bạn đi thăm nuôi trước đã nói : một lát sau tới giờ hẹn, một người đàn ông đánh xe trâu lù lù tiến ra lều tranh.
Bốn mẹ con mừng rỡ, lại một phen vất vả, chất đồ đạc lỉnh kỉnh lên xe, sau đó lầm lũi theo sau xe trâu. Con trâu già chậm chạp kéo chiếc xe. Tiếng bánh xe khô nhớt cứ cót két vang lên, người đàn ông thì lầm lì ít nói. Trời nắng gắt nhưng lạnh vì lúc ấy đã vào tháng ba. Bốn mẹ con bỡ ngỡ rảo chân bước mau theo xe, ba con chạy lúc thúc sát theo mình, ngây ngô chỉ chỏ cảnh vật, hỏi han lăng xăng chừng nào sẽ gặp lại Ba. Như người không hồn, mình im lặng nối gót theo các con, âm thầm thất thểu đi. Vô tư lự, Thủy Tiên, Sơn, Tùng hồn nhiên tung tăng chạy nhảy dọc theo đường mòn thích thú khi gặp các hoa dại tím mọc cạnh dòng suối con, ba đứa hái vài cành hoa buộc lại thành một bó nhỏ, nói với mình là để tặng Ba, làm mình càng xúc cảm, se thắt cả lòng.
Xa xa núi Lam Sơn mờ hiện ra và thấp thoáng kế bên là trại Lý Bá Sơ. Núi rừng tĩnh mịch âm u làm mình chợt rùng mình khi nghĩ đến các anh phải chôn vùi những ngày dài nơi sương lam chướng khí nầy, không biết ngày nào đoàn tụ với vợ con. Mình vội xua đuổi ý nghĩ hắc ám ấy, giựt mình khi nghe Tùng than mỏi chân quá. Mình vội bồng con lên, cố gắng lê bước theo xe trâu. Không hiểu nghĩ sao, người đàn ông lại lên tiếng ngắn ngủi "Chị cho cháu nhỏ ngồi đỡ một đoạn lên xe đi." Tùng mừng rỡ vội nhảy thót lên thùng thiếc ngồi trong lúc Thủy Tiên, Sơn lộ vẻ bất bình, trừng mắt nhìn Tùng. Mình thở dài chép miệng nói nhỏ với hai đứa lớn. "Thôi! Em nó còn nhỏ mà con!" Gần xế chiều, con trâu già phì phèo nước bọt tiến vào trại, bốn me con thiểu não lê gót theo, dép cứ bị sình ướt nhầy nhụa trên đường bám chặt thật khó đi. Thấy Thủy Tiên, Sơn bực dọc giựt mạnh dép lên than thở trơn trợt khó đi, người đàn ông cười khẩy mỉa mai nói: "Ðất nầy nó như thế đấy, cứ thích bám chặt mãi lấy người đi". Mình nhếch mép ngoảnh mặt nhìn nơi khác, chả buồn đối đáp. Trút tất cả các thùng bao bị vào nhà tiếp tân, mình cảm thấy như trút đi một gánh nặng trĩu đè lên vai mình suốt mấy ngày nay.Ðầy đủ đồ ăn tiếp tế và thuốc men đã được an toàn vô tận trại.
Mình mừng khấp khởi nghĩ nhờ cả trăm ký lương khô và thuốc men nầy mà chồng mình sẽ có sức khỏe để chống chọi với rừng thiêng nước độc. Trong nhà tiếp tân mới xây cất xong (oái oăm thay sau nầy mình mới nghe nói lại là nhà nầy do đội Xây dựng của anh Trường vừa xây xong chưa kịp lắp cửa nữa), ngoài bốn mẹ con còn có chị Lang từ Gò Công và chị Cao từ Thủ Thiêm ra thăm chồng trước mình một ngày. Hai chị đã được nói chuyện với chồng lúc trưa, nhưng trễ quá không còn xe trâu đưa ra đường cái đón xe đò về Thanh Hoá nên hai chị nán ngủ qua đêm đợi mai sáng về cho đỡ nguy hiểm. Nhìn nét mặt dàu dàu buồn của hai chị, mình cảm thông sâu xa nỗi buồn nhớ mong ấy. Khắc khoải đợi chờ, hăm hở từ trong Nam xuôi ra Bắc vượt ngàn dặm, băng rừng vượt suối, bất chấp hiểm nguy đang chờ đợi mình, để rồi được hội ngộ ngắn ngủi với chồng chỉ trong nửa tiếng, không được một cái nắm tay vội vã, chớ đừng nói chi một nụ hôn thắm thiết, còn gì thảm não cho bằng.
Cho các con ăn qua loa xong, mình ra tận phía sau, dắt các con đại tiện trong nhà vệ sinh nhỏ tạm thời được cất lên thật thô sơ và như mọi hố xí ở miền Bắc có cái thùng phân đầy dòi lúc nhúc. Hai đứa lớn kinh tởm, nhắm mắt nhắm mũi vội "ị" cho xong, chỉ có Tùng sợ té vào thùng phân, nhứt định nín không chịu vô cầu đầy ruồi nhặng thối tha. Mình đành buộc lòng để Tùng "ị" trên bờ gần ao sen và múc thùng nước giếng kế bên dội mạnh xuống ao. Sau ba ngày trên tàu không tắm gội, ba đứa nhỏ mình mẩy nhớp nhúa được mình kỳ cọ rửa ráy thơm tho, nên vừa lên giường xong là lăn kềnh ra ngủ ngon lành. Mình cũng vội vàng tắm gội sau đó vì ba ngày trời trong toa xe như địa ngục trần gian, mình cảm thấy bứt rứt ngứa ngáy khó chịu không thể tả. Ðêm xuống dần, tiếng chim bìm bịp kêu thật buồn bã, hoà lẫn với tiếng côn trùng nỉ non làm mình cảm thấy não nuột cả lòng. Ðưa mắt nhìn vào trại hẻo lánh phía xa xa, mình thầm nghĩ giờ nầy chắc anh Trường đã được báo có vợ con ra thăm nuôi, chắc anh cũng trằn trọc không ngủ được như mình.
Mình kéo cao cổ áo len, định đi ngủ, chợt thấy cánh cửa chưa được gắn nên phòng cứ mở toạc ra, gió lạnh ngang nhiên lùa vào, mình vội bàn với hai chị bạn cùng nhau kéo cánh cửa nặng trĩu chận đỡ ngang qua cho chắn bớt gió lại và cũng để phòng ngừa cán bộ liều lĩnh đột nhập vào như đã có tiếng đồn ở các trại kế bên.
Trời vừa hừng đông, mình còn chập chờn mệt mỏi trong giấc ngủ đầy mộng mị thì bị đánh thức nhỏm phắt dậy vì tiếng tru tréo lanh lảnh chát chúa của một nữ cán bộ bên tai : "Thế lầy là thế lào? Ai mà dám cả gan ỉa trên bờ ao như thế lầy? Ðể cho ông già Ðào phải đi hốt đồ dơ như thế?" (Ông Ðào là một tù nhân tự quản hình sự đã già). Mình điếng người chợt nhớ đêm qua trời tối nên mình sơ ý không thấy rõ để dội kỹ phẩn của Tùng xuống ao vì vậy mà còn rơi rớt vài "cục" trên bờ. Mình và các con rán nín cười khi nghe nữ cán bộ tiếp tục hét ỏm tỏi ngoài sân để chửi bóng chửi gió.
Nghe tiếng chân nhiều người dừng lại trước nhà tiếp tân, mình và hai chị bạn vội kéo lê cánh cửa gỗ qua một bên. Hên phước làm sao, đúng ngày đội xây dựng đang tụ tập điểm danh trước khi rã hàng lao động trước nhà tiếp tân. Các bạn anh Trường nhìn mình xì xào nói nhỏ : "Anh Trường ở phía sau hàng đó chị, chị thấy ảnh chưa? Một lát nữa chị sẽ gặp ảnh". Mình hồi hộp khi thấy bóng anh Trường thấp thoáng phía sau. Mình an tâm thấy anh lành lặn mạnh dạn tiến vào phòng tiếp tân, nơi đó có cán bộ chễm chệ lạnh lùng ngồi sẵn ở đầu bàn.
Bốn mẹ con lính quýnh ngồi phệch xuống ghế đối diện. Vợ chồng mình nghẹn ngào nói không ra lời, mắt nhìn mắt, cái nhìn thật sâu đậm thiết tha, nói lên sự chờ mong khắc khoải từ bao nhiêu năm dài. Ba con vội bíu lấy Ba hôn thật thắm thía. Anh cảm động xoa đầu ba đứa nhỏ, nghẹn lời. Anh chép miệng nhìn mình : "Sao Em ốm quá vậy? Em có sao không?" Mình ràn rụa nước mắt, chỉ biết siết bàn tay chai cứng vì lao động của anh. Tùng nhõng nhẽo quen vòi vĩnh nên sáng sớm hôm đó chưa ăn sáng, bụng đói cồn cào, được dịp mè nheo với Ba như ở nhà :
"Ba ơi! Con đói bụng quá!" Nhưng cán bộ dửng dưng, nhứt nhứt theo luật định không cho thân nhân ăn uống với trại viên, làm Tùng tiu nghỉu, phụng phịu oà lên khóc. Thủy Tiên, Sơn cũng oà lên khóc theo em như đưa đám ma, làm vợ chồng mình càng cảm thấy uất nghẹn. Anh Trường chỉ kịp hỏi thăm về sức khỏe, học hành của các con, còn mình thì lật đật hỏi anh về đời sống lao động ở trại, những câu hỏi thật nhạt nheo và rổng tuếch. Sau đó thì cán bộ lạnh lùng dõng dạc tuyên bố :
"Ðã nửa giờ qua rồi, cuộc thăm viếng đến đây chấm dứt! Nếu anh học tập lao động tốt thì sẽ được thăm viếng lâu hơn, có khi được cả ngày". Cả gia đình miễn cưỡng nói những lời tạm biệt, tha thiết dặn dò nhau giữ gìn sức khỏe và luyến tiếc bịn rịn chia tay, sau khi mình phụ chất các thùng ăm ắp đồ ăn lên xe "cải tiến" (xe cút kít có tay kéo như xe kéo trong Nam).
Mình thẫn thờ nhìn anh còng lưng đẩy xe nặng trĩu các bao bị đồ ăn đầy bụi đường và mồ hôi nước mắt của vợ con. Bóng anh khuất dần... tiếng kẽo kẹt của bánh xe hòa lẫn với tiếng khóc thút thít hờn dỗi của Tùng cứ xoáy mạnh vào đầu mình nhức nhối. Mình ôm đầu lảo đảo ngồi phệch xuống thềm đá. Thủy Tiên, Sơn vội rầy Tùng : "Nín đi, Tùng đừng khóc nữa, đừng làm má buồn nữa!" Mình ôm choàng lấy ba con, nghẹn ngào nhìn Tùng tha thứ. Chợt nhớ cả bốn mẹ con bụng đói meo, chưa ăn sáng, mình chạy vội ra sau bếp, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi, bỏ vào chút đỉnh bún Tàu còn sót lại trong bao hành lý, và nêm thêm chút muối tiêu bột ngọt. Bốn mẹ con đói quá, ăn ngấu nghiến ngon lành tô miến "thất nghiệp" nhớ đời đó. (Tiếc công lặn lội cả mấy ngàn cây số, nên mình dồn gởi tất cả cho anh Trường, chỉ để lại cho bốn mẹ con chút đỉnh bún Tàu và vài bịch mì gói ăn đỡ dạ thôi).
Ăn xong, bốn mẹ con tom góp đầy đủ hành lý để kịp theo xe trâu trở lại đường cái đón xe đò trở về Thanh Hóa. Lúc đó anh Trường đã trở ra để kịp tiễn đưa vợ con về. Giây phút biệt ly thật não nùng. Cả nhà bịn rịn, lưu luyến không muốn xa rời. Các anh bạn đang lao động chung quanh cũng ứa nước mắt ái ngại nhìn mình cùng ba con mọn thất thểu leo lên xe trâu. Anh Trường mấp máy môi nói : "Em và các con về bình yên!" Mình lí nhí ngậm ngùi run giọng : "Anh ở lại rán được mau về".Mình vốn ghét ba chữ "lao động tốt", tránh không nhắc đến.
Ba con vẫy tay luyến tiếc chào ba. Mưa phùn lại lất phất rơi, cái lạnh xé da cắt thịt : đúng là rét tháng Ba ở miền Bắc!! Cái lạnh lẽo ngoài trời không ghê gớm da diết đeo đẳng bằng cái lạnh cô đơn trong tâm hồn. Ngồi co gối trầm ngâm trên xe trâu, mình thẫn thờ như người mất hồn. Ðồ ăn, hành lý đã được chuyển đầy đủ vào trại, bận về thật nhẹ gánh, nhưng sao lòng cứ canh cánh nặng trĩu ưu tư. "Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương!" Mình bất giác rùng mình nhớ lại khi xưa có người quở trách bảo tại sao đám cưới hai đứa lại làm vào tháng bảy mưa ngâu, dễ bị chia lìa ngăn cách như Ngưu Lang Chức Nữ.
Ðường về xa dịu vợi, xe trâu lắc lư trên đường mòn gập ghềnh thả bốn mẹ con mệt nhoài xuống đường cái để lấy chuyến xe đò chót về Thanh Hóa. Tới đây mới vỡ lẽ : không thể nào mua vé tàu về Nam được, mà phải trở lộn ra Hà Nội mới hy vọng có vé về Sài Gòn. Mình thất sắc ngao ngán lo âu nhìn các con nhỏ dại lại phải cực nhọc một phen lặn lội nữa ra tận Hà Nội. Vé đi Hà Nội hiếm như vàng, muốn mua vé chợ đen cũng không có. Mình thất vọng bối rối, hoang mang không biết tính sao thì thời may có người mách bảo cứ năn nỉ ở quày vé nói có con mọn bịnh cần mua gấp vé về Hà Nội thì họa may mua được vé. May mắn thay thấy mình chạy thất thểu với ba con mọn đùm đề lôi thôi lếch thếch, người bán vé thương tình "nhín" được bốn vé cho bốn mẹ con. Như bắt được vàng, mình hăm hở kéo các con lên toa dành cho các người có con mọn liều lĩnh đi Hà Nội vì không còn cách nào khác. Tới Hà Nội, mình mừng rỡ gặp lại hai chị Cao và chị Lang cũng đang chờ mua vé về Sài Gòn.Ba chị em hỏi thăm nhau tíu tít và chen lấn rách cả áo, tóc tai bù xù mới mua được vé về Sài Gòn tối hôm đó.
Không biết làm gì cho qua thì giờ vì sân ga chật hẹp tràn đầy người, sợ lưu manh cướp giựt móc túi nên mình dẫn các con đi một vòng hồ Hoàn Kiếm và lấy xe điện "leng keng" xuống chợ Ðồng Xuân mua vài món lặt vặt, đem theo đi đường. Khí hậu Hà Nội lạnh hơn Thanh Hóa nhiều nên Thủy Tiên, con gái yếu đuối hơn, than lạnh và vì đi bộ nhiều nên cũng than mỏi chân. Mình vội kêu một xích lô đạp chở bốn mẹ con về ga trở lại sau khi sắp hàng dẫn các con vào ăn phở ở một tiệm nổi danh phố Nam Ngư cho ấm bụng và lấy sức lại vì ban sáng chỉ ăn một tô miến lõng bõng nước và muối tiêu.
Tối hôm đó bốn mẹ và hai chị bạn mừng rỡ nhảy lên toa tàu Thống Nhứt trực chỉ về Sài Gòn. Hành lý thì gọn ghẽ nhẹ nhàng, nhưng mỗi người mang nặng một tâm tư. Lần nầy thì các con đã quen cảnh hỗn độn và dơ dáy trên tàu nên ba đứa biết thân phận, mỗi đứa tìm một góc kẹt dưới băng, chui rúc vào như đàn chó con, co ro khoanh tròn mình lại ngủ. Một hồi còi tàu rú dài trong đêm tối...
Tàu chuyển bánh nặng nề, chậm chạp và uể oải, uể oải như tâm hồn mình, trống rỗng và chán chường.. Tiếng còi tàu lại rít lên trong bóng tối dày đặc. Mình mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại chập chờn thoáng thấy xa xa bóng anh Trường âm thầm mất hút vào trại, đâu đây như còn văng vẳng tiếng ba con thơ dại ú ớ trong mơ : "Ba ơi! Ba ơi!" Mình thiếp dần, thiếp dần... Chân tay rã rời. Con tàu vẫn lạnh lùng tiến trong màn đêm âm u như một bóng ma...
Thu Thủy
Vietnam Library Network
Wednesday, July 29, 2009
Dấu hiệu hy vọng của Biển Đông yên bình?
25/07/2009 06:18 (GMT + 7)
.TuấnViệtNam)
.
.


.
.
.
.
.
.
.
***
Năm Có chấp tay sau lưng đi quan sát tiệm tạp hóa cột gỗ mọt ăn, trên vách ổ mối dài ngoằn ngoèo như ghẻ chùm bao. Chú nghiêm trọng gật đầu nhè nhẹ sửa lại gọng cặp soi mát ‘mới mua năm chăm bạc’ chủ nhà mời vào uống nước trà bàn chuyện giao cho chú xây cất. Mời Năm Có xây nhà, chủ nhân phải kiên nhẫn đợi khá lâu, với đầy đủ điều kiện. Cầm ly trà nóng tới nguội, Năm Có phân trần ‘thợ hồ xứ này họ xây theo ý chủ, họ quên xây phải đúng phương hướng thủy thổ, thì nhà làm ăn mới phát, gia đình mới hòa thuận, muốn xây mau như họ, tôi làm cũng được, mà sau này đừng trách tôi không chịu nói cho nghe! Thời buổi, tôi xây tường, ca nông, mọt chê bắn không lũng, đừng nói đạn súng cối, ma-ti-dết, mút-cà-tông!’Bàn về giá cả, Năm Có nghiêm mặt, ‘nè, tôi học nghề mấy chục năm mới lên thợ cái nghe! Cầm cục gạch xây tường phải thẳng như thước gạch vậy, thấy Chín Be xây cái nhà Tửng É không? Ai đời, thợ hồ xây cột có chửa!’Năm Có đắc chí, xoa hai bàn tay, như hai nải chuối cau mẳn chín thâm kim. Chủ nhà lả vả ‘sao cũng được mà anh Năm’.
***
Ngày khởi công, quấn điếu thuốc bập bập phà khói, chỉ huy đám thợ phụ, Năm Có căng dây, nheo mắt, hạ giọng, ‘qua chút, qua trái chút nữa, nói hoài cũng vậy, tụi bây lỗ tai cây mà!’
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
***
Chợ này trước mặt là con kinh cùng, hai bên đồng ruộng bao la trải tới bờ sông Hậu Giang cách đó gần bốn chục cây số. Sau lưng xa xa là những dãy núi cao, núi đất, núi đá.Buổi chiều, công việc đã xong, người ta thong dong đi ruộng. Ai nhà ở xóm chợ, đi ruộng Chưn Num, bờ ruộng tiếp giáp với dãy núi hùng vĩ chở che. Dân xóm nhà thờ đi xích ra ruộng bưng, cỏ xanh mơn mỡn, nhờ nước xâm xấp. Ai ở xóm chùa dưới tạt qua đám ruộng khô Ô Bà Lày, gần mấy chòm cây thốt nốt. Xóm kinh càng tiện, đổ ra phía cầu Giáo Sự. Ðồng ruộng bao la, bờ ruộng cao, mát mẻ, bụi cây, đám cỏ xanh che khuất kín đáo, dù mưa hay nắng cũng đủ chỗ cho dân tình làm công tác vệ sinh thoải mái. Ban ngày, túng bách quá thì chạy qua đầu bờ kinh, sau mấy cụm me nước lá dầy đặc mát mẻ cũng xong, miễn khuất mắt đám phú lít mắc ôn mắc gió của cha Cò Tây.
.
.
.
.
.
.
.
.
***
Chú Sáu Hường quấn cái khăn rằn cố hữu lửng thửng tới tiệm cà phê,đối diện với tiệm Vĩnh Huê Chành, cẩn thận phủi bụi ghế rồi ngồi quay vô tiệm kêu ‘cà phe … e!’Tiệm cà phê này có lợi thế nhờ tọa lạc ở ngã tư đường, hai bên là dãy phố xưa nhứt. Phố rộng dài, tường cũ kỷ, dân Tàu đã ở hai đời. Tiệm Vĩnh Huê Chành trước là công xi rượu, sau vựa nước đá, đề bô nước ngọt la ve, nhờ phát đạt nên cất lại cơi thêm hai từng, nóc bằng, lầu đúc. Cửa sổ hình bán nguyệt, song sắt, có giếng nước sau nhà. Nhà bị kiểm kê vì mấy mươi năm thiếu thuế cách mạng, mấy đứa con lại vượt biên. Huyện uỷ thương tình chủ tiệm biết điều, dễ thương như mấy chai rượu Martel nên cho phép dọn đồ đạc ra, chỉ mượn tạm nhà làm cửa hàng bách hóa.Chú Sáu vấn điếu thuốc lá le lưỡi liếm rồi cuốn điếu thuốc, châm lửa phì phà, cố ý ngong ngóng chờ đợi, lý do thầm kín chỉ có chú biết. Chú nhấp ly cà phê đen thơm mùi bắp rang, vừa nhìn người nhà tiệm Vĩnh Huê Chành, lăng xăng dọn dẹp. Mắt chú Sáu chợt rực sáng, bất giác đứng dậy nhìn trân trối cái tủ chén cũ kỷ để trước lề đường chờ xe ba gác chở đi, chú lẩm bẩm ‘a, cái tủ búp phê, cái gạc măng rê’, mồ hôi đổ như tắm, đầu lắc lư như tợ nhập bà bóng, miệng láp giáp ‘cái bàn, cái ghế, cái tủ!’ - mắt lờ đờ mất thần.
***
Anh thợ mộc dựng cây cột thao lao dựa vô cửa ngữa mặt nhìn lên ngắm nghía, hạ cây cột, lấy cây thước ê ke đo, làm dấu rồi cưa hì hục. Lúc dựng lên thấy thiếu cả tấc tây. Chú cầm cây cột hậm hực chưởi thề, ‘mẹ bà nó, ngó thấy đúng trân, lúc cưa thì hụt cả tấc’, vừa mắc cỡ vừa bực tức.Buổi sáng, sau khi cà phê cà pháo xong, Sáu Hường mở thùng đồ nghề trịnh trọng làm việc, Sáu Hường tối kỵ việc cho mượn dụng cụ dù viên đá mài dao. Chú làm việc kiên nhẫn với cây cưa, búa, bào, đục, hiệu Bờ Rô Sư Tử của Tây. Cây búa bén gọt cam ngọt xớt, dụng cụ được chú tự tay mài tỉ mỉ hàng giờ, bên tai giắt cây viết chì, bên giắt điếu thuốc vấn hút dỡ dang, bàn tay vàng màu vẹc ni. Ai đặt khung cửa sổ, chú làm xong mang đến ráp vào khít khao, cánh cửa không bị xệ.
***
Năm Có kéo ghế ngồi bên đánh thức Sáu Hường qua cơn mê ban ngày. Chú Sáu mừng rỡ như Bá Nha gặp Tử Kỳ.‘Uống cà phe, sao? Anh Năm thấy sao, coi kìa’, chú chỉ về phía tiệm Vĩnh Huê Chành, ‘cái tủ còn y nguyên đóng năm 48, bây giờ nó kéo bỏ một góc kia, cái tủ tôi đóng mấy ngày mới rồi, phần dưới để tô chén, phần trên làm bàn ăn cơm, nhứt cử lưỡng tiện. Cái nhà này chủ ỷ giàu, không tin phong thủy, bỏ cây đòn dông, cất nóc bằng, cất không có cửa sau, tiền vô dội ra như bị bịnh táo bón,ăn rồi ói, bị tịch biên phải rồi, nhà hướng tán gia bại sản’.Năm Có gật đầu đồng ý, cả hai uể oải sánh vai ra khỏi tiệm, khập khiễng ngã vào nhau. Hai người thấy cần nương tựa nưng đỡ tinh thần nhau để sống, bớt lẻ loi sau thời niên thiếu long đong làm việc nhọc nhằn như con ong thợ, xây tổ mà không được hút mật.
.
Gailes, Australia, 6/1989
Tuesday, July 28, 2009
Việt Kiều đỏ, Việt Kiều xanh
» Tác giả: Định Nguyên »
1. Việt Kiều đỏ, Việt Kiều xanh
“…có một vương quốc riêng, một vườn địa đàng riêng của “Việt Kiều Đỏ” tại quê hương chúng ta được xây dựng nổi trên mặt đất mà cột trụ là những tấm thân gầy guộc và lem luốc của những người dân Việt Nam bần hàn và cam phận…”
Biến cố Hoàng Sa-Trường Sa thế mà cũng có mặt tích cực. Hơn ba chục năm trong ngoài im lìm, ngờ vực, và đối kháng; vừa qua, người Việt Nam quốc nội cũng như hải ngoại có dịp bày tỏ tinh thần bảo vệ Tổ Quốc cao độ của mình một cách khá đồng loạt mà không quan tâm lắm đến màu cờ hay chính kiến. Để biểu đồng tình cũng như hổ trợ chuyện biểu tình chống Trung cộng tại Hà Nội và Sài Gòn, người Việt Nam hải ngoại cũng đã tổ chức biểu tình nhiều nơi, trước toà đại sứ hay tổng lãnh sự Trung cộng. Ngoài ra, có rất nhiều bài viết và lời góp ý của rất nhiều người trong cũng như ngoài nước về vấn đề nầy. Là người thích những tin tức, những bình luận chính trị hơn bất cứ một thể loại nào khác nên tôi đọc tất cả không chừa một bài, một chữ nào. Và tất cả những bài viết, những lời góp ý ấy đã làm tôi cảm động và tin tưởng vào tiền đồ của Tổ Quốc: Lòng yêu nước còn thì Tổ Quốc còn!
Tất cả những bài viết và góp ý ấy bài nào cũng hay, lời góp ý nào cũng tâm huyết. Nhưng có một đoạn góp ý của một vị nào đó (xin lỗi tôi không nhớ tên, đã lục lại tìm hai ba lần nhưng cũng không tìm ra) rất đáng chú ý. Ông ta (?) đề nghị những công nhân Việt Nam mỗi tuần nên hy sinh nhịn một bữa ăn trưa cỡ trên mười ngàn đồng tiền Việt Nam (tương đương khoảng trên 60 cents USD) để dồn tiền mua tàu chiến tối tân bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt là vùng biển và các hải đảo xa xôi. Người có đề nghị nầy phải là một người yêu nước thật sự, thấy được thế yếu của Việt Nam chúng ta trước anh khổng lồ bành trướng bắc phương. Nhưng lạ là tại sao ông ta chỉ đề cập đến các anh chị công nhân thôi? Các thành phần dân tộc khác ở đâu? Và nhà cầm quyền CSVN ở đâu? Bàn việc nước mà không quan tâm đến vai trò của nhà cầm quyền sao ổn được? Chuyện nhà nước sẽ đề cập sau, trước hết hãy nói chuyện tiền. Cứ giả sử như đây là “việc cần làm ngay”, nghĩa là Việt Nam cần tiền để mua sắm chiến cụ tối tân để bảo vệ Tổ Quốc, ngoài thành phần công nhân mà ông bạn nhắm đến, tôi xin giới thiệu hai thành phần nổi cộm khác giàu có hơn nhiều: “Việt Kiều Đỏ” và “Việt Kiều Xanh”! “Việt Kiều Đỏ” là những đảng viên ĐCSVN, bà con thân nhân, bạn bè của họ cùng những người giàu có hoặc sống thoải mái nhờ quyền lực của CSVN. “Việt Kiều Xanh” là những người Việt Nam tị nạn cộng sản trên khắp thế giới.
Thông thường, người ta nói “Việt Kiều” là nói đến những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Quan niệm “Việt Kiều” của tôi có phần “thoáng” hơn, bao gồm hai loại sau đây: Một, những người Việt Nam sống ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hai, những người tuy sống trên lãnh thổ Việt Nam nhưng tôn sùng và phục vụ một chủ nghĩa ngoại lai, không phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam. Đất đai lãnh thổ của Tổ Tiên Việt Nam để lại họ coi như không phải gia sản chung của Dân tộc Việt Nam mà của Chủ nghĩa Cộng sản nên đã sử dụng một cách tùy tiện nhằm mục đích bành trướng chủ nghĩa nầy. Trên quan điểm đó, ngoài “Việt Kiều Xanh” sống rải rác khắp năm châu, toàn bộ đảng viên ĐCSVN và những thành phần bám vào quyền lực của họ đều có thể cho là “Việt Kiều” tại chỗ. Loại “Việt Kiều Đỏ” nầy bao gồm toàn bộ VC sinh sống ngay chính trên đất nước Việt Nam và những kẻ tay sai, đặc biệt là thành phần trí thức sống ở nước ngoài, có mặt trong tất cả các cộng đồng Việt Nam lớn nhỏ khắp nơi, ngay trong địa phương tôi ở cũng không thiếu. Biến cố Hoàng Sa-Trường Sa không những đã phơi trần dã tâm buôn dân bán nước của CSVN mà còn giúp chúng ta dễ nhận biết những kẻ “ăn cơm tự do, thờ ma về cộng sản” từ bấy lâu nay tại các địa phương.
Đối với Dân tộc Việt Nam, hai loại “Việt Kiều” “Đỏ” và “Xanh” nầy, một bên nhờ quyền lực, một bên do hoàn cảnh, đã có cuộc sống tách vượt hẳn so với đại đa số người Việt Nam hằng ngày “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”. Cần tiền để mua tàu chiến hiện đại mà không nghĩ đến hai thành phần “Việt Kiều” nầy là một thiếu sót lớn. Không cần phải nhịn ăn trưa hằng tuần, họ cũng có thể góp hằng triệu, hằng tỷ đô la trong vòng một thời gian ngắn!
Trong suốt cuộc chiến vừa qua, ngoại trừ những cấp lãnh đạo chóp bu, phải công nhận rằng cùng với thường dân bị lùa đi bộ đội, lao công vận tải, thanh niên xung phong…đại đa số đảng viên CSVN đã phải trải qua một cuộc sống vô cùng nguy hiểm, vất vả, và cơ cực trong núi rừng. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ. Họ đích thực là những người vô sản. Họ là những người trong sạch chưa biết tham nhũng, hối mại quyền thế là gì. Nhưng sau khi lấy được miền Nam, thâu tóm giang sơn về một mối, cuộc đời của họ đã thay đổi hoàn toàn, thay đổi tận gốc rể. Bỗng nhiên họ có đủ thứ, họ không còn là dân vô sản thực thụ nữa. Trong phút chốc, một số họ đã trở nên những chủ nhân ông của những biệt thự lộng lẫy, những xe hơi bóng loáng, những dụng cụ cá nhân và gia đình tối tân mà họ chưa hề thấy, chưa hề biết sử dụng bao giờ. Thời gian qua, ngoại trừ số đoản mệnh chết sớm hoặc già cả bệnh hoạn phải về hưu, cuộc đời của những đảng viên ĐCSVN còn tại chức cứ thăng tiến dần, cho đến nay thì đa số họ đã trở nên những kẻ giàu có nhà ngang dãy dọc, xe cộ tườm tượp, “tiền rừng bạc biển”. Chức quyền càng cao tiền bạc của càng nhiều. Vị trí càng quan trọng tài sản càng kếch sù. Làm thế nào họ có thể trở nên giàu có như vậy? Hãy nghe Phạm Lưu Vũ nhận xét trong bài “Học cách làm giàu”. Theo Phạm Lưu Vũ, có nhiều cách làm giàu, nhưng “làm tiền trong môn chữ “lộc” là cách an toàn nhất, mau giàu nhất:
“Làm tiền trong môn chữ “lộc” là dối trá để được lên cao, bợ đỡ để được thăng chức. Thăng rồi lại thăng nữa, thăng mãi không ngừng. Muốn thế phải kết bè kết cánh, lừa dưới lừa trên, lừa cả quỉ thần, thiên hạ lưu manh thu về một mối. Bề ngoài thì nhũn nhặn như đầy tớ. Bên trong thì quyền to như ông chủ…Cho tới khi nhất hô vạn ứng, triết lý sẵn sàng…là có thể tranh cướp bổng lộc, giành giật địa bàn, bạ đâu “ăn” đấy…Nhưng phải đến khi đặt ra luật lệ, biến hóa tùy thời, quyền ăn, quyền nói, quyền trói, quyền cởi…nhất nhất đều ở trong tay mình. Thì bấy giờ mới có thể “ăn” bất cứ cái gì, của bất cứ ai. Từ việc hớt “lộc” của đám quan chức dưới quyền, đến việc nẫng váy của lũ thứ dân…tất cả đều là những việc làm thường ngày, đơn giản, không để lại chứng cớ gì. Đó gọi là đạt tới cảnh giới: “lộc lai tùy tâm” (lộc đến tùy theo lòng (tham) của mình)…
Môn chữ “lộc” nầy là một môn làm tiền thượng đẳng cao siêu, đến quỉ thần cũng không sao lường được”…
Đảng CSVN (ĐCSVN) là một “đội ngũ tiên phong” làm tiền theo môn chữ “lộc” nầy đây. Tình trạng “nhất hô vạn ứng, triết lý sẵn sàng…Bề ngoài thì nhũn nhặn như đầy tớ. Bên trong thì quyền uy như ông chủ… và mọi luật lệ đã được đặt ra từ lâu cho phép họ quyền ăn, quyền nói, quyền trói, quyền cởi” không ai được làm khác, chính là bản chất của chế độ CS tại Việt Nam. Cho nên, hiện nay, họ có thể “ăn” bất cứ cái gì, của bất cứ ai. Không phải tất cả “Việt Kiều Đỏ” đều có điều kiện “ăn” như nhau, nhưng trong môi trường ấy, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ, “lộc lai tùy tâm”, tuy mức độ khác nhau, họ trở nên giàu có là chuyện quá dễ hiểu. Cứ về Việt Nam., đi khắp mọi ngõ ngách đất nước sẽ thấy cán bộ chức quyền có nhà cửa nguy nga, xe cộ bóng loáng, cuộc sống sung túc vượt hẳn đại đa số người dân xung quanh họ. Đã có một vương quốc riêng, một vườn địa đàng riêng của “Việt Kiều Đỏ” tại quê hương chúng ta được xây dựng nổi trên mặt đất mà cột trụ là những tấm thân gầy guộc và lem luốc của những người dân Việt Nam bần hàn và cam phận.
Năm 2003, khi lần đầu tiên về Việt Nam sau gần mười bốn năm ra đi, trong những ngày cuối tôi được chú em họ dẫn đường xuống nhà hàng nổi trên sông Sài Gòn để ăn tối. Nhà hàng nổi được thiết kế trên một chiếc tàu khá lớn, sức chứa có thể ba bốn trăm người, có sân khấu và nhạc sống như nhà hàng trên đất liền. Khi đến giờ, ca sĩ xuất hiện, nhạc sống bắt đầu, tàu nhổ neo từ bến Bạch Đằng chạy chầm chậm quanh Sông Sài Gòn cho thực khách vừa ăn, vừa nghe nhạc, vừa ngắm cảnh thành phố ban đêm. Đẹp và rất thoáng mát. Dù là một “Việt Kiều Xanh” nhưng sau gần một tháng ở VN túi tiền đã vơi, tôi chỉ gọi vài món ăn bình dân với vài chai bia giải khát. Trong khi đó, toàn bộ boong tàu đầy nhóc người, bàn nào bàn nấy thức ăn đầy ắp, đặc biệt bàn bên cạnh chỉ thấy có 5 người đàn ông trung niên mà có đến hai chai XO trên bàn. Tôi thấy “khớp” nên hỏi nhỏ chú em: “Họ là ai mà sang quá vậy, có phải Việt Kiều không”? “Không phải Việt kiều mô, các quan chức và các đại gia đó. Em biết một người trong số họ”, chú em trả lời. Tôi chợt nghĩ, những người trên nhà hàng nổi nầy không “Việt Kiều Xanh” thì cũng “Việt Kiều Đỏ”, người dân VN bình thường đang ở dưới kia kìa…!
Khi tàu đang chạy, tôi nhìn xuống giòng sông đục ngầu và đầy rác rưởi, thấy một người đàn ông đang bơi một chiếc xuồng bé nhỏ phía dưới. Cứ tưởng là dân đánh cá nên tôi cứ lơ đãng phóng tầm mắt nhìn mọi thứ, từ những tòa nhà cao nghệu đến những vùng xa xa tràn ngập ánh điện. Bỗng tôi giật mình nghe tiếng sột soạt bên cạnh cửa sổ. Quay nhìn lại: một cái rá bằng lưới đang di động qua lại ngay trước mắt, phía ngoài khung tàu. Tôi không biết chuyện gì nên quay nhìn chú em có ý hỏi. “Họ ăn xin đó anh ơi”! Bấy giờ, tôi lần theo cái rá lưới nhìn xuống thấy người đàn ông ngồi trên xuồng, tay cầm một cái sào tre thật cao vươn tới tận chỗ chúng tôi ngồi, tầng ba của con tàu! Khi thấy có người bỏ tiền vào rá, ông ta hạ sào xuống, lấy tiền và tiếp tục lần khác. Cũng như phần lớn người Việt Nam khác, người đàn ông đói nghèo nầy không thể lên được nhà hàng nổi nên phải “phát huy sáng kiến”, dùng “cần câu cơm” kiểu XHCN nầy để kiếm sống!
Khi tàu trở lại bến chúng tôi rời nhà hàng nổi với vẻ lạnh nhạt của những người phục vụ. Cũng phải thôi, chúng tôi không phải là những thực khách hào sảng và thường xuyên như họ mong đợi.
Nhất muối tiêu, nhì Việt kiều!
Đó là nhận định rất tinh mắt của giới kinh doanh dịch vụ ăn chơi trong nước. “Muối tiêu” là những “đại gia” tóc đã bạc một phần, bao gồm chủ tịch các cấp chính quyền, bí thư các cấp đảng ủy, tổng giám đốc, giám đốc các xí nghiệp, nhà máy…Họ là những “Việt Kiều Đỏ” tiêu biểu và giàu có nhất của xã hội Việt Nam. Không có nghề nào kiếm tiền dễ bằng “nghề” ỷ quyền để móc ngoặc và hối lộ tham nhũng. Tối nay họ đi chơi mất một số tiền, ngày mai chỉ cần một cái gật đầu, một cái nháy mắt, một chữ ký…không những họ có thể lấy lại số tiền đó mà còn “bội thu” rất nhiều. Thường, những tay cờ bạc thắng tiêu xài rất rộng rãi. Đại đa số cán bộ đảng viên có chức quyền trong nước đã và đang thắng những canh bạc rất lớn nên họ tiêu xài hết sức thoải mái. Con cái của họ, các “công tử” chế độ, sẵn nguồn tiền bất tận của cha mẹ nên ăn chơi và đua đòi lên tận trời xanh. Đa số dân lao động kiếm không ra 3-4 đô mỗi ngày, “Việt Kiều Đỏ” ăn chơi 5-10 vé (vé=100đô) một đêm là chuyện thường. “Việt Kiều Xanh” làm sao theo kịp?! Không phải “Việt Kiều Xanh” nào cũng có điều kiện như nhau, chỉ một số thôi, và giỏi lắm một hai năm cũng chỉ về quê, lận lưng chừng một hai chục ngàn đô, đóng vai hào hoa phong nhã một lần (về lại lo cày thấy mẹ mới kiếm lại được chi phí nầy) nhưng “Việt Kiều Đỏ” quanh năm “thú vui suốt sáng, trận cười thâu đêm”. “Việt Kiều Xanh” mấy ai dám xài xe hơi trị giá từ ba trăm ngàn đến một triệu rưởi đô, đặc biệt là xe bọc thép chống đạn như một số “Việt Kiều Đỏ” đang chơi trội! “Việt Kiều Xanh” đã có ai dám xài cell phone cần kim cương trị giá một trăm ngàn Mỹ kim như có “Việt Kiều Đỏ” đang dùng?
Tóm lại, bên cạnh đại khối người Việt Nam nghèo khổ, “Việt Kiều Đỏ” là thành phần giàu có ngất trời, giàu hơn cả “Việt Kiều Xanh”. Nếu CSVN lập được “Hội Việt Kiều Yêu Nước” tại chỗ và cũng có lòng như “Việt Kiều Xanh” thì dân Việt Nam đỡ khổ hơn nhiều. Cứ nghĩ coi, hằng năm người Việt Nam ở nước ngoài gởi về nước chừng ba, bốn tỷ đô la, ngoài chuyện giúp đỡ gia đình còn cứu trợ đủ thứ. Từ cứu trợ bão lụt, thiên tai đến giúp bạn bè, làng xóm cũng như người bệnh hoạn tàn tật…trong khi “Việt Kiều Đỏ” cứ tiếp tục thu gom và ôm của sống cuộc đời vương giả, không cần biết cảnh đời khốn khổ xung quanh thì khó coi quá?! Các nhà tu như linh mục, đại đức; các hội “từ thiện”… cứ nườm nượp ra hải ngoại chiếu cố vắt kiệt “con bò sữa” hải ngoại trong khi lại không chú ý đến “kho bạc vĩ đại” ngay bên cạnh, trong tay hàng ngũ “Việt Kiều Đỏ” tại Việt Nam thì lạ thật!
Tóm lại, hai thành phần “Việt Kiều” nầy, dù hoàn cảnh và cách sống, cách làm tiền khác nhau, đã có khả năng tài chánh vượt trội so với đại khối dân Việt Nam trong nước, kể cả hàng ngũ công nhân. Số lượng “Việt Kiều Đỏ” và “Việt Kiều Xanh” coi như tương đương, mỗi bên có chừng trên dưới ba triệu người. Nếu hằng ngày mỗi người bỏ ống một đô la thì trong một ngày đã có khoảng sáu triệu đô, một tháng có một trăm tám chục triệu đô. Cứ làm vài bài toán nhân sẽ biết một năm, hai năm, mười năm…sẽ có được bao nhiêu tiền. Trong trường hợp khẩn cấp, mỗi người đóng góp mười đô (hay nhiều hơn) một ngày thì số tiền sẽ không nhỏ. Đó là chưa kể những “top hundred, top thousand…”, những người đại giàu có nhưng yêu Tổ Quốc hơn yêu CNXH, có thể “tự giác” đóng thêm nữa thì số tiền sẽ rất nhiều.
Nhưng, tiền không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sao thu gom tiền? Liệu “Việt Kiều Đỏ” có sẵn lòng như “Việt Kiều Xanh” không? Và, cứ giả sử như một số “Việt Kiều Đỏ” xé rào, trộm lệnh đảng, sẵn sàng cùng “Việt Kiều Xanh” đóng góp tiền của để bảo vệ Tổ Quốc thì khi đã có tiền rồi giao cho ai? Ai chịu trách nhiệm đứng ra mua vũ khí? Khi mua được vũ khí tàu bè rồi, giao cho ai điều khiển và chiến đấu? Chính quyền CSVN? Tôi nghi quá, biểu tình chống Trung cộng xâm lăng mà còn không cho, còn bị bắt, làm sao dám nghĩ đến chuyện yêu cầu họ chống lại “người đồng chí môi hở răng lạnh”, “người thầy Trung Quốc Vĩ Đại” ? Đưa tiền cho họ bỏ túi thì được, nhưng yêu cầu họ mua vũ khí để chiến đấu chống Tàu, bảo vệ Tổ Quốc thì nên suy nghĩ cẩn thận, coi chừng ở tù cả đám!
Định Nguyên
(Nguồn :http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=19879