Thursday, June 4, 2015


BẢO QUỐC TRẤN KHÔNG

Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc, lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay 

Trần Ngọc Nguyên Vũ là bút hiệu của Thiếu Tá phi công khu trục "Thiên Kích, Skyraider" Trần Ngọc Hà, cựu SVSQK63A/KQ.
Tháng 11 năm 1970, từ Căn Cứ KQ Biên Hòa, ông thuyên chuyển lên Phi Đoàn tân lập 530 Thái-Dương trên PleiKu, Phi-Đoàn Trưởng là Th/Tá Lê Bá-Định. Mấy tháng sau ông được bổ nhiệm làm trưởng-phòng huấn-luyện KĐ72/CT thay vị trưởng phòng cũ đi Hoa-Kỳ. Cũng trong năm 1971 ông bị bắn rớt, và nhẩy dù thoát hiểm trong phi-vụ yểm trợ cho tiền đồn BenHet.
Mùa Hè năm 1972, tại mặt trận Tây nguyên, phi công Trần Ngọc Hà đã phải nhảy dù tại Charlie vì phòng không địch, trong phi-vụ giải vây TĐ11 Dù. Vào thời điểm căng thẳng nhất của cuộc chiến, để khích lệ tinh thần các chiến hữu, ông coi việc nhảy dù ra khỏi chiếc phi cơ bốc cháy trên vòm trời lửa đạn như là một môn thể thao thời thượng!
Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, SĐ6KQ thành lập, ông được bổ nhiệm làm Tham-Mưu Phó CTKH/SĐ6KQ và đặc trách phần thuyết trình về vấn đề không yểm cho các Sư-Đoàn BB và các Tiểu-Khu thuộc lãnh thổ QK2. Đầu năm 1975, ông được thuyên chuyển về khối CTKH/BTLKQ tại Tân-Sơn-Nhất.
Ông cộng tác thường xuyên cho Đặc San Lý Tưởng KQ và Đặc San KQ Bắc Cali. Trần Ngọc Nguyên Vũ cũng rất quen thuộc với Trang nhà Cánh Thép.






BẢO QUỐC TRẤN KHÔNG
VIỆT NAM MẾN YÊU. MỘT THỜI ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT

Nơi đất trích trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha nhìn quanh cả vạn muôn
Há chỉ mình ta xuôi biên tái
"Nhất khứ bất phục phản" là thường.(2)
*****

PleiKu! Vùng đất nghiệt ngã của thiên nhiên dành cho con người với những cơn gió núi mưa rừng rả rích trói buộc bước chân người khách lữ. Những người lính đồn trú ở đây gọi nó là "vùng đất đầy ải", hay một cái tên nghe có vẻ giang hồ và lãng mạn hơn là "Đất Trích". Cái thành phố mà "Lính" nhiều hơn "Dân" này, nằm nhô mình lên giữa một vùng núi đồi trùng điệp của vùng Tây Nguyên quanh năm ngút ngàn khói lửa. Ở đây vào mỗi buổi chiều, khi chiếc phi cơ của hãng hàng không VN vừa cất cánh để bay về SàiGòn, cùng tiếng gầm rú của chiếc C130 cuối cùng theo sau rời phi đạo, thì người ta có cảm tưởng như mình bị cô lập trong một thung lũng huyền bí mà ngoài kia là những rình rập bí ẩn của núi rừng...PleiKu là nơi dừng chân của nhiều sắc lính từ khắp 4 vùng chiến thuật. Những người lính mà tên tuổi đã danh trấn giang hồ như Đào Trọng Vượng, Đào Văn Năng, Nguyễn văn Song, Trần Cao Chánh, Vương Mộng Long, Phùng Nhi Cầu, Hậu, Phong, Bình, Thủy, Quán, Thại, Ý , Đỗ Mạnh Trường, Trần Tiễn San của Biệt Động Quân, và Nguyễn Đình Bảo, Sông Lô, Bùi Đức Lạc, Mễ, Đoàn Phương Hải, Tô Đạm Liệu, Hiệp, Thanh của Nhẩy Dù...và còn rất nhiều những người khác nữa. Họ là những người đã được tôi luyện trong những "lò cừ" của quân đội, và được bọc kín trong cái vỏ "quân phong quân kỷ" bằng thép. Nhưng đôi khi họ cũng tự thoát ra khỏi cái vỏ cứng ngắc đó để sống tuyềnh toàng theo "giang hồ". Cũng bởi giang hồ không có vua, nên những ông "vua không ngai" này chỉ khuất phục trước cái "phong độ" và "luồng hào khí ngút trời" của tráng sĩ. Riêng Trần Cao Chánh cũng đã có lần muốn làm nên đại cuộc, nhưng ý trời chưa thuận theo lòng người nên nửa đường đành đứt đoạn...Sau này trên bước đường giang hồ phiêu bạt, vào những đêm trăng mờ huyền hoặc, người ta lại nghe được tiếng gầm bi thiết của con mãnh sư lạc bầy, cô đơn bốc lên như muốn chọc thủng cả một khung trời tưởng vọng...

Đối với lính, thì dù là đất trích hay đất lành, họ cũng là những người đến rồi đi như bóng mây. Nhưng với người dân sống ở đây thì PleiKu như có một ma lực vô hình nào đó giữ họ lại; chẳng khác nào như những dòng sông huyền hoặc quấn chặt lấy núi rừng, cuộn mình nằm yên lặng làm chứng nhân cho những buổi lễ phong thần...Ai đã một lần đến đây và thấy yêu PleiKu, thì phải ở cho đủ hai mùa mưa nắng, mới "thấm" và "cảm thông" được tâm tình u uẩn của "người phố núi".


PleiKu gió núi mưa rừng đổ
Người đến rồi đi như bóng mây
Bỏ lại những chiều nơi phố thị
Thung lũng buồn thung lũng ngóng mây bay

Tây Nguyên! ...Theo lời kể của một "hậu duệ" dòng họ Võ là Trung Tá Võ Quế, KĐT/KĐ/YC PleiKu thì ngày xưa nơi đây là vùng "đất phong" của nhà Nguyễn cho những người có công với triều đình. Những tỉnh như Võ Đắt, Võ Định gần PleiKu là đất phong của nhà vua cho họ Võ, và hiện nay vẫn còn ghi trên bản đồ nước Việt. Đối với dân Không Quân thì PleiKu chẳng phải là vùng đất xa lạ gì, họ có mặt ở đây từ cái thủa mà phi đạo của phi-trường Cù-Hanh còn được lót bằng những tấm vỷ sắt (PSP), nằm cạnh "cô hàng xóm" Holloway của đoàn Trực Thăng Không Kỵ Hoa Kỳ. Cái khắc nghiệt nhất của PleiKu đối với dân phi-hành là phi-trường này chỉ có độc nhất một phi đạo nằm theo hướng "Đông - Tây". Buổi sáng thì gió thổi từ hướng Đông, còn buổi chiều thì gió lại kéo về từ hướng Tây. Cho nên khi cất cánh hay về đáp, người lính KQ luôn luôn phải trực diện với tia mặt trời quái ác chiếu thẳng vào mắt họ. Một tay nghề còn non rất có thể sẽ lãnh một hậu qủa nguy hiểm. Về mùa Hè, sau những phi-vụ vật lộn với tử thần nơi chiến địa. Người phi-công mang con tầu về đáp, trong lúc đầu óc còn đang miên man suy nghĩ tìm một vần thơ tình tự gởi về cho "người phố núi"...đến khi nghe thấy tiếng âm thoại trầm ấm văng vẳng vỗ về bên tai: " - VNAF! Đây đài kiểm soát Holloway..." thì người phi công hào hoa mới hoảng hồn tỉnh mộng, và thấy mình đã lạc cánh sang nhà "cô hàng xóm" mất rồi. Nhưng đã qúa muộn. Trong cuộc đời của người lính chiến KQ, nếu có những lỗi lầm chết người, thì đôi khi cũng có những lầm lỗi thật dễ thương, và thật...đáng nhớ. Sau khi theo chiếc xe Pickup mầu xanh có đeo tấm bảng kẻ hàng chữ mầu trắng "Follow Me" to tổ chảng ( để dù mắt có lèm nhèm cũng vẫn đọc được) về bến đậu. Người khách lạ lạc đường, một đêm gõ nhầm cửa, được "cô hàng xóm" dễ thương khoản đãi một bữa ăn tối "để đời" tại câu lạc bộ sĩ quan (BOQ). Sáng hôm sau trước khi lên đường lại còn tiễn thêm một bữa ăn sáng đầy đủ chất dinh dưỡng, kèm thêm một "ly cối" coffee hảo hạng loại "Good to the last drop" cho tỉnh ngủ... 
 



PleiKu! Vùng đất đầy ải đã từng đón tiếp những tên tuổi lẫy lừng của KQ như Trần Văn Minh, Đỗ Trang Phúc, Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Hồng Tuyền, Lưu Đức Thanh, Võ Quế, Nguyễn Ngọc Khoa, Lê Bá Định, Nguyễn Văn Bá, Lê Văn Thảo, Nguyễn Quốc Thành, Lê Mộng Hoan, Lê Như Hoàn, Phạm Bính, Phạm Đình Anh, Dan Hoài Bửu, Lê Thanh Hồng Vân, Trần Mạnh Khôi, Tạ Thượng Tứ, Nguyễn Văn Mười, Lê Quốc Đức, Trần Văn Nghiêm, Phan Hiền Tính, Nghiêm Ngọc Ẩn, Nguyễn Quan Vĩnh, Đào Bá Hùng, Nguyễn Ngọc Lành, Lê Thuận Lợi, Ngô Nhơn, Phan Đình Hùng, Đào Quang Vinh, Vĩnh Quốc, Phạm Công Khanh, Nguyễn Văn Thắng, Trương V. Vinh, Nguyễn Phú Chính, Đặng Văn Âu, Nguyễn Qúy Chấn, Nguyễn Quý An, Trương Nguyên Thuận, Thái Ngùng, Ngô Đức Cửu, Vũ Ngọc Liễn, Phạm Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Dzũng, Võ Ý, Mai râu, Trần Văn Lân, Lê Văn Bút, Đạt...cùng những khuôn mặt trẻ như Hoàng Trọng Hùng, Hai còi, Lê Bình Liêu, Hùng Chùa, Đinh Đức Bản, Nhân (hạt ni), Vĩnh Hiếu, Nguyễn Đình Xanh, Chỉnh, Phạm Hữu Lộc, Đệ, Thống, Lạc, Xuân, Long, Thụy, Sơn, Tuấn, Trung, Vĩnh Thuận, Hải, Phúc, Nguyễn Tài Cơ...và bao nhiêu những người khác nữa. Họ là những người đã tạo nên những "Huyền Thoại" cho vùng đất này. Những huyền thoại không cần kiểm chứng. Bởi vì có bao giờ ta đứng ngắm một bông lan rừng mọc cheo leo trên gềnh đá, mà còn hỏi cơn gió nào, hay loài chim nào đã mang hạt giống hiếm qúy gieo xuống đây, để nó mọc lên chồi lan đang tỏa hương thơm ngát này hay không? Trải qua suốt một khoảng chiều dài trong lịch sử của cuộc chiến, đã có biết bao nhiêu người KQ đã làm nên "huyền thoại" như Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Quang Tri, Phạm Long Sửu, Nguyễn Ngọc Biện, Lưu Kim Cương, Nguyễn Văn Tường, Dương Thiệu Hùng, Huỳnh Văn Vui, Phạm Đăng Cường, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du, Trần Thế Vinh, Nguyễn Gia Tập, Đào Giang Hải, Bùi Đại Giang, Bùi Ngọc Bình, Khưu Văn Phát, Trương Phùng, Trang Văn Thành, Tào Thuận, Dương Huỳnh Kỳ...và nhiều người khác nữa. Họ, những người trai thế hệ, không những đã ghi những dòng chữ bi hùng trên trang quân sử máu của dân tộc mà còn đi sâu vào lòng người qua bao thế hệ...

Mùa Hè năm 72, trời Tây Nguyên nổi cơn gió bụi. Thành phố PleiKu sôi sục như nồi nước trên ngọn lửa. Những tin tức tối mật và thượng khẩn từ biên thùy tới tấp gởi về phòng hành quân Quân Đoàn và Trung Tâm Hành Quân Không Trợ. Máy truyền tin bốc khói. Phi trường PleiKu nhộn nhịp suốt ngày với những chuyến bay hành quân, chuuyển quân và di tản. Những chiếc vận tải cơ kổng lồ C130 khi đáp nhả ra những toán quân tăng viện, và khi cất cánh mang theo những người dân di tản về vùng an toàn...

Ngồi trong phòng lái của chiếc phi-cơ chất đầy bom đạn đậu nơi đầu phi-đạo chờ cất cánh, người lính chiến Không-Quân đã nhìn thấy cảnh đoàn người cúi rạp mình dưới sức gió vũ bão của chiếc C130, tất bật chạy lên phi cơ. Lẫn lộn trong cái hỗn độn, vội vàng kia, là hình ảnh một người con gái với mái tóc rối bời tung bay theo gió, vạt áo dài quằn-quại quấn lấy bước chân nghiêng ngả trên sân bay... Hình ảnh bi hùng này đã làm cho tấm lòng chai đá của người lính KQ nổi lên nỗi xót xa… Anh giơ tay vẫy chào tạm biệt đoàn người trên sân bay, và bấm nút vô tuyến liên lạc với người phi-công vận-tải: “Chúc bạn một chuyến bay an toàn, chúng tôi đang vào trận để cản bước quân thù đây.” Rồi anh mím môi tống tay ga, đưa con tầu lao mình vào vùng trời mịt mù khói lửa… 
Trời đất mịt mù cơn bão lửa
Phượng hồng rũ cánh tả tơi bay
Em đi bụi đỏ vương tà áo
Quấn cả theo chân bước đọa đầy.
Gặp em buổi nắng tàn phi đạo

Rối bời vạt tóc xõa tung bay
Ơi người con gái chiều di tản
Trôi dạt về đâu thế cuộc này.


Giữa tháng Tư năm 1972, phố núi bừng lên, đêm cao nguyên mở hội đón những người lính "Nhẩy Dù" đến tăng viện cho chiến trường. Phạm Văn Thặng cùng các bạn đến "Quán Biên Thùy" uống ly rượu ân tình để đưa tráng sĩ lên đường...Sóng gió gầm thét vang trời. Những người lính Bộ Binh, Nhẩy Dù, Biệt Động Quân và Không Quân vào trận, quay cuồng trong lửa đạn, phóng tay điểm lên bức tranh sơn hà những đường nét bi tráng...Dương Huỳnh Kỳ, con thần điểu của phi-đoàn Thái Dương 530, lao xuống mục tiêu, trầm mình trong ngọn lửa mịt mùng đốt cháy địch quân. Cuốn theo ngọn âm phong xoáy thủng lòng người: 


"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi"
"Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi"
"Chinh phu tử sĩ mấy người"
"Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn." (1)

  
Khói lửa ngút ngàn...Hồn tử sĩ chập chờn muôn ngả..."Đá vọng phu mọc khắp biên cương." (2) Cả đất trời cũng nhạt nhòa ngấn lệ, tiếc thương cho người anh hùng nửa đường đứt gánh. Kỳ ra đi mang theo cuộc tình lỡ của "người em gái nhỏ PleiKu", và cả mộng ước bình thường của người cha gìa, chỉ mong có một đứa cháu nội để bồng ẵm trước khi cụ về với cụ bà nơi cõi vĩnh hằng cao diệu vợi...Khi Kỳ leo lên chiếc khu-trục cơ chất đầy bom đạn để ra chiến trường, thì cha của Kỳ cũng đáp chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam từ PleiKu về SaìGòn, để từ Sài Gòn lấy xe đò về Cần Thơ. Ngồi trên phi cơ cụ miên man xây mộng... "Tháng tới lên đây làm lễ cưới cho tụi nó, rồi năm sau lại lên đón vợ chồng chúng nó bồng con về thăm quê nội..." Nhưng những điều mơ ước của cụ đã bốc thành mây khói theo với bom đạn ngang trời...

 Cuối tháng 5 năm 1972, Phạm Văn Thặng một mình lội qua bờ sông định mệnh...Dòng Dakbla sủi bọt gầm lên mộ khúc bi ai...Trời KonTum lại thêm một lần vần vũ đám mây tang khóc cho một loài chim gẫy cánh. Toán Lôi Hổ của "Chiến Đoàn 2 Xung kích" nhẩy xuống bốc xác người lính KQ tuẫn quốc. Xác Thặng được mang về SàiGòn để làm lễ an táng...Thiếu Tá Ngô Văn Mai TĐT/TĐ11/BĐQ và Trung Úy Trần Cao Chánh quyên góp anh em một số tiền lớn giao cho con "tiểu mãnh sư" Phùng Nhi Cầu mang về SG đưa cho gia đình Thặng. Ngày an táng Thặng, Th/Tá Đoàn Phương Hải, người lính vừa trở về từ cõi chết, chống nạng đến đưa tiễn một người bạn đang quay lưng đi vào cõi chết...Có nhìn thấy những người lính Dù và Biệt Động Quân đứng sau quan tài của Thặng, người ta mới cảm nhận được tất cả những ân tình sâu đậm, và nghĩa cử cao đẹp của người lính đối với chiến hữu của họ.

Rồi thì "cơn gió bụi" cũng qua đi...Sau cơn mưa dông trời lại sáng. Nhưng cuộc chiến nào cũng có cái giá của nó mà người tham dự phải trả. Hàng chục ngàn địch quân đã ngã xuống. Về phiá ta, tất cả những đơn vị tham chiến đều bị thiệt hại nặng nề. Tiểu đoàn BĐQ biên phòng phải hy sinh vị tiểu đoàn trưởng anh dũng là Đ/U Bửu Chuyển và hơn một nửa quân số. Thiếu úy Nguyễn Đình Xanh thoát ra khỏi chiếc khu trục cơ lâm nạn, nhẩy dù xuống giữa trận tiền cản đường quân giặc, để TĐ phó Phan Thái Bình dẫn nửa còn lại từ Polei-Kleng rút về hậu cứ. Tiểu đoàn 11 Dù đã phải bỏ lại người anh cả thân yêu của tiểu đoàn, Trung Tá Nguyên Đình Bảo, cùng những "kinh kha của thời đại" nơi chiến địa. Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Mễ bị trọng thương, Đ/U Đoàn Phương Hải thay quyền của Đích Thân, dẫn anh em rời "vùng đất chết Charlie" dưới cơn mưa pháo của địch. Tiểu đoàn 11BĐQ của Th/Tá Ngô Văn Mai cùng những con mãnh hổ của vùng "rừng núi sình lầy" cũng cùng chung một định mệnh như những người lính Lôi Hổ của "Chiến Đoàn 2 Xung Kích"...Sư Đoàn 22BB mất đi vị chỉ huy khả kính cùng hằng ngàn tráng sĩ thà chết không bỏ thành. Để lại tấm gương trung liệt cho ngàn sau chiêm ngưỡng. Không Đoàn 72CT và các đơn vị tăng phái của Không Đoàn 62CT chưa bao giờ mất nhiều phi-cơ và nhân sự như thế.Thiếu Uý Nguyễn Tài Cơ một trong "53 Thái Dương Chi Bảo" của PĐ/530, đã bỏ chiếc phi-cơ bốc cháy trên vòm trời lửa đạn, bung dù thoát hiểm. Sau 2 ngày lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, áp dụng tất cả những gì đã học được từ bài học "thoát hiểm mưu sinh" để lẩn tránh những đơn vị của địch quân đang điên cuồng tìm bắt người phi công lâm nạn. Cuối cùng người phi công trẻ của phi đoàn 530 đã được Jean Paul Van, cố vấn của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đang bay thị sát chiến trường, nhận được tín hiệu, nhào xuống bốc về PleiKu...Sau khi đưa anh về đơn vị, viên cố vấn cao ngạo nhất trong những cố vấn của đồng minh Hoa Kỳ, theo đúng luật giang hồ, đã đứng thẳng người giơ tay chào người phi công can trường của KLVNCH. Mấy ngày sau, phi cơ của Jean Paul Van bị bắn nổ tung trong lúc bay qua vùng đóng quân của địch. Jean P. Van một người trai xứ lạ, anh đến đây và chết ở đây như một lời nguyền của những dòng sông oan trái. Ngày anh đi, hành trang chẳng có gì để mang theo, ngoài một khối tình không trọn của người ở lại...Trong cuộc chiến khốc liệt này, có biết bao nhiêu tráng sĩ, cùng những người lính Không Quân đã nhập cuộc trọn vẹn, để góp phần cho cuộc chiến thắng của toàn quân.


Thái Dương vừa rơi hôm trước
Bàng hoàng còn tưởng cơn mê
Thần Tượng Lạc Long chưa tìm được xác
Bắc Đẩu Sơn Dương chẳng thấy về
Mưa rừng rơi phủ lê thê
Bản đồi cúi mặt chiều tê tái buồn.
 
Máu của địch, máu của quân ta đã đổ ra chan hòa khắp nẻo, để tưới bón cho ngàn cây xanh lá, cho khóm Dã Quỳ hoang dại trổ sắc vàng tươi. Áp lực cuả địch quân ban đầu trùm lên cả một vùng núi đồi rực lửa từ PoleiKleng, Tân Cảnh đến KonTum, Pleiku đã được những người lính oai hùng của QLVNCH giải tỏa.
Người dân sau một lần tất bật di tản, nay lại lần lượt trở về theo tiếng gọi của rừng sâu núi thẳm. Họ trở về để gây lại cuộc sống đã hơn một lần bị đứt đoạn. Những con đường sau một thời gian vắng bóng, nay lại thấp thoáng những vạt tóc mềm ấp ủ bờ vai, những tà áo dài quấn quýt bước thân thương, cùng những tiếng giầy, tiếng guốc ngập ngừng gõ nhịp trên mặt đường...Đoạn đường tuy có ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để hồn thơ của khách đa tình dấy lên, hòa nhịp theo với cung đàn diễm tuyệt. Hàng quán lại mở ra ân cần mời mọc người khách lạ phương xa...Nhưng ánh mắt long lanh, đằm thắm của "cô hàng" hôm nao; nay trong tia nhìn, trông sao đượm mầu đăm chiêu xa vắng. Ngọn đèn khuya vẫn le lói mà như heo hút chập chờn...Chao đảo theo cơn gió lạnh của núi rừng, như đợi như chờ người đi không trở lại. Người đi không trở lại, nhưng người ở lại vẫn đợi vẫn chờ. Niềm thương nỗi nhớ theo ngày tháng chồng chất lên vai, càng lúc càng nặng như những đám mây đen gầm gừ, chậm chạp kéo về tự cuối chân trời.
 
Anh đi rồi PleiKu gầy guộc nhớ
Đồi Cù Hanh sương khói phủ lê thê
Bao nhiêu chiều con đường xưa vẫn đợi
Từng mùa mưa lầy lội lối đi về.

Và rồi tất cả lại được bắt đầu bằng những xây đắp cần cù và nhẫn nại của "người phố núi", như những con dã tràng se cát, để tạo ra cuộc sống, để làm nên cuộc tình...Cho đến ngày như định mệnh đã an bài, một thảm họa khốc liệt khác lại bất thần chụp xuống vùng núi đồi Tây Nguyên trùng điệp, kéo theo ngọn sóng thần cuồng nộ dâng lên, tràn theo tỉnh lộ 7, phủ trùm lấy KonTum, PleiKu, Phú Bổn...Cuốn trôi tất cả những dấu vết của vùng đất đầy oan trái. Vùng đất một thời được gọi là "Đất Trích!"
Ta vẫn hoài mong từ dạo ấy
Một lần tạ lỗi với tang thương
Với khung trời phủ mờ sương khói
Với những gian truân những đoạn trường. 

Trần Ngọc Nguyên Vũ
_______________________


Vùng trời biên-trấn!
(Để vinh danh những hảo-hán đã một thời tung hoành nơi quan tái.)
Trần Ngọc Nguyên Vũ







“Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây.”
Chinh Phụ ngâm

…Kể từ ngày cuộc chiến leo thang, và để đáp ứng cho nhu cầu đòi hỏi của chiến trường, theo với đà bành trướng của Quân Lực Việt Nam Cộng-Hòa, quân-chủng Không-Quân cũng đã nâng cấp số đơn-vị từ Không-Đoàn thành Sư-Đoàn Không-Quân. Cho tới năm 1970 thì KQ đã có 4 sư-đoàn, chia đều cho 4 quân-khu, và căn-cứ 92 KQ nằm trong lãnh thổ của Quân Khu 2, đã trở thành căn-cứ KQ Pleiku trực thuộc Sư-Đoàn 2 KQ, với hai Không-Đoàn chủ lực là Không-Đoàn 72 chiến-Thuật và Không-Đoàn Yểm-Cứ PleiKu. 

Trước kia, căn cứ 92CT/BTLKQ đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh; ngoài những quân nhân thường trú thuyên chuyển lên đây, căn cứ này còn là nơi tiếp nhận những đơn-vị biệt-phái ngắn hạn. Các biệt đội quan-sát, trực-thăng, vận-tải, và khu-trục thường được biệt-phái lên PleiKu từ 2 đến 3 tuần lễ, để yểm trợ cho nhu cầu chiến trường của quân-khu 2, hoặc cho các cuộc nhẩy toán của Biệt-Kích vào mật khu của địch, xuất phát từ các căn-cứ B15 ở KonTum, và B50 ở Ban Mê-Thuột. Nếu những người được đổi lên làm việc tại PleiKu coi như là bị “đi đầy”, thì đối với dân biệt phái, nhiều người lại thích cuộc sống xa đơn-vị gốc này; một cuộc sống xa nhà, nhưng phảng phất một chút gì bồng-bềnh lãng-mạn, để thỏa cái chí “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” của người trai thời loạn:

PleiKu gió núi mưa rừng
Mây Trường-Sơn phủ mù vương cuộc đời.

PleiKu được giới giang-hồ khoác cho một cái hỗn danh là “vùng đất trích”! Tuy là một vùng đất nghiệt-ngã, kể cả về khí-hậu lẫn địa-dư, nhưng PleiKu lại là miền “linh địa”, nên cũng là nơi những “kỳ-nhân dị-hán” đến ẩn mình, để khi gặp dịp là thỏa sức vẫy vùng, tung hoành ngang dọc…Họ là những người một thời đã viết lên bản “Huyền-Sử-Ca” bi hùng trên những trang quân sử máu của dân-tộc. Một trong những “Kỳ Nhân” mà tên tuổi sáng chói trên vòm trời Không-Lực, đó là “Cửu-Long Đại-Hiệp” Trung-Tướng Trần Văn-Minh.

 Thủa ấy, ai đã từng ghé qua căn cứ 92CT vào mùa mưa, khi đi ngang qua cổng Phi-Vân, nhìn về phía bên trái, sẽ thấy một dẫy cư xá lẫn lộn trong khu nhà trên con đường bùn lầy đất đỏ, có một gian nhà nhỏ trông đơn-sơ thanh-tịnh, nhưng lại có một sức thu hút kỳ lạ, khiến cho khách lữ-hành phải dừng chân đứng ngắm. Đó là tư-thất của “Ngọa Long Tiên-Sinh”…Thiếu-Tá Lê Bá-Định, cử-nhân Luật, khóa 58 SVSQ/KQ Trần Duy-Kỷ, một “Đại Hiệp” của ngành khu-trục. Thuộc mẫu người “văn-võ-song-toàn”, phong độ hào-sảng, coi trọng cái khuôn thước mẫu-mực của đạo nghĩa trong xã-hội, luôn luôn ưu-tư đến đại-cuộc, thích cuộc sống ngang-tàng khí-phách, dám làm những chuyện “lấp biển vá trời”, và biết thưởng thức cái vẻ đẹp qua những đường nét đan-thanh của văn chương, thơ, phú…Lúc chưa gặp thời, người vẫn ung-dung tự-tại nhận một chức vụ thật khiêm-nhường của phòng Tâm-Lý-Chiến trong cái căn-cứ quanh năm gió bụi, mưa bùn lầy lội này. Rồi sau đó, người đã về đầu quân dưới trướng một thiên tài lỗi-lạc của ngành “Không-Quân-Chiến-Thuật” là Trung-Tá Nguyễn-Văn-Bá, để chiêu nạp những “anh-hùng hào-kiệt” từ các nơi đổ về, dựng nên một “Không-Đoàn Biên-trấn” lừng danh vùng biên-thùy của miền Tây Nguyên đất Việt; với các phi-đoàn Khu-Trục Thái-Dương 530, Trực-Thăng Lạc-Long 229, Sơn-Dương 235, và Quan-Sát BlackCat 118, mà sau này đổi danh-hiệu là Bắc-Đẩu.

Nói đến dân biệt-phái của Không-Quân, thì không thể không nhắc tới những tên tuổi lẫy lừng một thời như: Nguyễn Ngọc-Oánh, Vũ Văn-Ước, Trần Phước, Đằng-Vân Đặng Văn Hậu, Đỗ Trang-Phúc, Dương Hùng-Cường, Ôn Văn Tài, Nguyễn Ngọc-Biện, Huỳnh Văn-Vui, Ngô Văn-Kim, Nguyễn Quốc-Thành, Nguyễn (Trần) Phước-Hội, Lê Mộng-Hoan, Nguyễn Ngọc-Thức, Nguyễn Văn Trang, Đàm Thượng-Vũ, Võ Công-Minh, Lưu Đức-Thanh, Lê Như-Hoàn, Phạm Đình-Anh, Phạm Bính, Dương Ngọc-Ẩn (Cọp), Trần Văn-Lân, Nguyễn Phú-Chính, Lưu Huy-Cảnh, Nguyễn Phúc-Hưng, Hồ Danh-Lịch, Nguyễn Tuấn-Dị, Đinh Sinh-Long, Nguyễn Quan Vĩnh, Phạm V. Thặng, Nguyễn Văn Huynh, Đinh Trần Chính, Ấn (Đen), Hoàng Mạnh Dũng, Nguyễn Hoàng Mai (Râu), Trần Thanh-Long (TiTi), Lê Quốc-Đức, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Công-Khanh, Đoàn Văn Quang, Lê Văn Bút, Trần Văn Nghiêu, Nghiệp, Thịnh, Võ Ý, Vĩnh-Quốc, Huỳnh Hải-Hổ, và hàng trăm những “Hiệp-Sĩ Không-Gian, và dưới đất” khác…

“Khu-Trục Đại-Hiệp” Lê Như-Hoàn, khóa 61 SVSQ/KQ. Xuất thân từ trường Hải-Quân Phi-Hành Pensacola, Florida Hoa-Kỳ; anh là một phi-tuần-trưởng khu-trục trẻ tuổi, tài hoa và đầy nhiệt tình. Con Hồng-Điểu (Phượng-Hoàng Rosa) của vùng trời xứ Bưởi, cùng với các Đại-Hiệp của Không-Lực VNCH trên khắp 4 vùng chiến-thuật như: Phạm Đình-Anh, Dan Hoài-Bửu, Lê Quốc-Hùng, Phạm Đăng-Cường, “Hiệp-Sĩ Say” Nguyễn Văn-Phong, Phạm B. An, Việt, Cung, Nguyễn Tiến-Thành, Nguyễn Văn-Mười, Nguyễn Đình-Lộc, Trần Mạnh-Khôi, Huỳnh Thanh-Minh, Lê Thanh Hồng-Vân, Nguyễn Q. Chấn, Nguyễn Đạm-Thuyên, Nguyễn Quốc-Đạt, Lê Văn Thặng, Sử Ngọc-Cả, BS. Phước thuở ấy, và sau này có: Nguyễn Quý-An, Nguyễn Gia-Tập, Bùi Đại-Giang, Đào Giang-Hải, Phan Hiền-Tính, Trần Văn-Nghiêm, Hồng Khắc-San, Thái Phương-Thủy, Tạ Thượng-Tứ, Ngô Đức-Cửu, Nghiêm Ngọc-Ẩn, Nguyễn Kim-Năm, Vũ V. Cần, Phan Đắc-Huề, Khưu V. Phát, Nguyễn Văn Xuân, Dương Thiệu-Chí, Lê Thuận-Lợi, Vũ Công-Hiệp, Nguyễn Du, Bạch Diễn-Sơn, Trần Như-Đẩu, Trịnh Đức-Tự, Đoàn-Toại, Đào Bá-Hùng, Trương-Phùng, Trần Thế-Vinh, Tự (Điên), Lê V. Luận, Nguyễn Văn-Sung, Vũ Ngô Khánh-Truật, Nguyễn Văn Trót, Đoàn-Phan, Đinh Đức-Bản, Phạm Gia-Đôn, Nguyễn Văn Hai (Còi), Lê Bình-Liêu, Nguyễn T. Thụy, Đỗ V. Dự, Thành, Nguyễn Thanh-Sơn, Trần V. Toàn, Hùng Phan, Trương Nguyên-Thuận, Nguyễn Đình-Xanh, Nguyễn Tài-Cơ, Phạm H. Lộc, Thống, Đệ, Nguyễn Q. Hải, Độ, Phạm Nghị-Luận, Lạc, Vĩnh-Thuận, WingmanF5, Thành536, An-Vũ-Dương, Nguyễn Phát-An, Xuân (tóc đỏ), Tuấn (Bocassa), Phúc (Cháy), Nguyễn Công-Phúc (Gangdhi), Trần K. Long, Phạm M. Xuân, Trung (Mọi), Dương Huỳnh-Kỳ, Tơ (gìa) Togia9, Hoàng Trọng-Hùng, Nhân (hạt ni), Phạm Vương-Thục, Long (Ghiền), Vũ Ngọc-Huyên, Trang V. Thành, Tào-Thuận, Thái-Ngùng, Nguyễn mạnh-Khang, Trịnh Trọng-Khang, Phan Vũ-Điện, Đào Quang-Vinh, Trịnh Minh-Nhựt, Nguyễn M. Dũng, BS. Khanh, BS. Kỳ và biết bao nhiêu những “tài hoa son trẻ” khác…là những ngôi sao sáng trong ngành phi-hành, cũng như không phi-hành, sẵn sàng nối tiếp bước chân của các bậc đàn anh tài danh như Phạm Ngọc-Sang, Nguyễn Quang-Tri, Phạm Long-Sửu, Võ Xuân-Lành, Từ Văn Bê, Phan Phụng-Tiên, Dương Thiệu-Hùng, Nguyễn Hồng-Tuyền, Đặng Văn-Phước, Ông Lợi-Hồng, Trần Doãn-Hoành, Bồ Đại-Kỳ, Nguyễn Văn-Cử, Lê Xuân-Lan, Thái Bá-Đệ, Nguyễn Ngọc-Khoa, Nguyễn Văn Tường (Mực), Lê Văn-Thảo, Nguyễn Quốc-Hưng…Người đã từng vạch lên những đường bay hào-hùng, lả lướt như những nét chấm phá tuyệt-vời, trong một bức tranh thủy mạc trên vòm trời Tây-Nguyên mịt mù khói lửa, vào những năm anh làm Biệt-Đội Trưởng biệt-đội khu-trục ở PleiKu. Sau này Lê Như Hoàn đã đem cái phong-độ “Hào-hùng trên không - Hào-hoa dưới đất” của người “Hiệp-Sĩ Không-Gian” nơi vùng trời biên-trấn, về truyền lại cho những cánh chim non, trong thời-gian anh phục vụ tại Trung-Tâm Huấn-luyện KQ Nha-Trang, cùng với Phi-Hổ Nguyễn Hồng Tuyền.  

 PleiKu không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, L ôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ, như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải, Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh, Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:

Tôi người lính trận từ xa tới
Gặp em nơi phố núi sương mù
Quán nhỏ ngây buồn nghe tâm-sự
Một buổi chiều mưa rơi…pleiKu

Rồi sáng hôm sau các anh lại lạnh lùng quay lưng cất bước lên đường khi:

“Gió Lào dậy tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng gìa bạt núi non
Mùa chinh chiến theo chân thù nghịch
Ta về theo cho dậm chiến trường.” (1)

Chiến trường Tây-Nguyên quanh năm mịt mù khói lửa, với những địa danh ngang dọc bước quân hành in dấu chân của tráng-sĩ, cùng với những:

“Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
lớp lớp tràn lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh-phụ
Cô đơn chót núi đứng bồng con
Khu chiến trập-trùng cơn bão lửa
Đá vọng phu mọc khắp biên-cương.” (1)

Lồng vào cái khung cảnh đất trời quay cuồng trong cơn bão loạn đó, “Không-Đoàn 72 chiến-thuật” đã trưởng-thành, và vươn lên cùng với khí thế ngút-ngàn của những anh-hùng, hảo-hán chốn sa trường…Chỉ sau một thời-gian ngắn hoạt-động, mà tên tuổi đã danh trấn giang-hồ. Pleiku thuở đó cũng đã thu hút được nhiều phóng-viên nổi tiếng của các hãng thông-tấn quốc-tế…Cùng các phóng-viên chiến trường quốc-nội như Sao Bắc Đẩu, Quỳnh-Như, Kiều-Mỹ-Duyên, Phan N. Nam, Nguyễn Ngọc Hạnh…đến tận nơi sinh-hoạt, làm phóng-sự, ghi lại những hình ảnh hào-hùng, sống động của người lính chiến vùng trời Tây Nguyên. Tờ báo quân đội “Diều Hâu” của nhà văn Trung-Tá Nguyễn Đạt-Thịnh hồi đó đã nhận xét về KĐ 72CT qua bài viết “Tìm hiểu hiện-tượng nhổ giò của KQVN” như sau:


“…Chỉ vào một hố bom khá sâu, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh nói với tôi: 
- Anh biết quả bom này bỏ cách chiếc thiết giáp của mình bao nhiêu không? 
- ...? 
- Ba thước.
Thao thao bất tuyệt, vị Tư lệnh trẻ nhất Việt Nam kể cho tôi nghe trận đánh khó khăn nhưng vô cùng hào hứng, vừa xẫy ra tại ngọn đồi mà chúng tôi đang đứng.

Một Tiểu đội Cộng quân, trang bị bằng một khẩu đại bác, một khẩu đại liên phòng không, đã chiếm giữ ngọn núi đá trên đường 14, cách Pleiku khoảng 20 cây số về hướng Bắc. Cây đại bác được nhét thật sâu vào lòng núi, bom bỏ bao nhiêu cũng không suy xuyển. Sư đoàn 23 đã phái một đơn vị có chiến xa yểm trợ tiến lên núi, để diệt khẩu pháo đang gây khá nhiều trở ngại cho xe cộ di chuyển từ Pleiku đi Kontum. Một trong những chiếc thiết giáp yểm trợ bị bắn cháy. Xạ thủ B-40 chỉ khai hỏa cách chiếc xe ba thước. Khu trục được gọi đến can thiệp, và nhiệm vụ của người phi công là phải bỏ lọt trái bom vào một miệng hầm nhỏ, mà không làm tổn thương đến những người có thể còn sống trong thiết giáp. Lắc đầu tỏ vẻ thán phục, Đại tá Bá tiếp:
- Chiếc AD-6 bay với tốc độ mấy trăm cây số một giờ, mà anh chàng phi công này thả bom như để. Trái bom rơi hẳn vào hầm rồi mới nổ, không gây một hư hại nào bên ngoài cả.

Những lời khen ngợi của Đại tá Lý Tòng Bá khêu gợi lòng tò mò và tôi đã tìm đến Không đoàn 72 Chiến Thuật, để gặp người phi công "bỏ bom như để", Thiếu tá Lê Quốc Đức. Ngoài 30 tuổi, Thiếu tá Đức trông hiền như ông thầy giáo. Anh tỏ ra hơi ngượng khi tôi lập lại với anh những lời của Đại Tá Bá. Giọng anh nhỏ nhẹ:
- Thật ra thì việc tôi làm tại Núi Đá, bất cứ người phi công nào cũng làm được. Dĩ
nhiên, sự chính xác này đòi hỏi đôi chút cố gắng.

Câu nói chỉ là một câu khiêm nhường. Tôi nghĩ như vậy. Nếu quả thật tất cả mọi phi công Việt Nam đều "khéo tay" như Thiếu tá Đức, thì có lẽ chúng ta nên nghĩ đến những loại kỹ nghệ đòi hỏi sự chính xác, khéo tay như kỹ nghệ làm đồng hồ chẳng hạn, để thiết lập sau khi chiến tranh chấm dứt.




Thấy tôi có vẻ không tin được rằng bất cứ người phi công nào cũng thả bom chính xác như Thiếu tá Đức, vị Tư lệnh Không đoàn 72, Trung tá Nguyễn Văn Bá bảo tôi:
- Anh còn đi nhiều, còn gặp nhiều đơn vị Bộ binh. Những người đó sẽ là nhân chứng cho sự chính xác hay không chính xác của anh em phi công. Riêng phần tôi, tôi nghĩ rằng có một điểm anh nên đào sâu hơn, tìm hiểu hơn là tinh thần của người phi công Việt Nam. Qua hai chữ tinh thần, tôi muốn nói cả tinh thần đồng đội với những người bạn họ yểm trợ mà không hề bao giờ biết mặt, cả tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, chấp nhận mọi nguy hiểm. Tôi đi tìm hiểu cái tinh thần đồng đội, tinh thần nhập cuộc ấy qua những nhân chứng khác…

Bốn trăm phi công, một ngàn chuyên viên làm việc quần quật. Máy bay được bảo trì, tu bổ cả đêm để mờ sáng hôm sau lại cất cánh, đáp ứng những nhu cầu yểm trợ của Bộ Binh. Một vị Tướng lãnh đã dẫn chứng cho tôi thấy Cộng quân đặt rất nặng yếu tố bất ngờ. Trong mỗi trận đánh, họ đều dành cho ta ít nhất là một bất ngờ. Tết Mậu Thân, yếu tố bất ngờ có thể được ghi nhận trên ba bình diện: Thời gian, không gian và vũ khí. Về thời gian, Cộng quân đã đánh vào cái lúc mà chúng ta không chờ đợi nhất: Những ngày đình chiến Tết. Về không gian, chúng đã chọn những chiến trường mà từ trước đến nay chưa bao giờ chúng chọn: Thành phố. Và yếu tố bất ngờ cuối cùng là những khẩu AK, B-40, B-41 lần đầu tiên được đem xử dụng ồ ạt. Trong trận Hạ Lào, cái bất ngờ mà địch quân dành cho chúng ta là những chiếc PT-76 khá lợi hại trước những thiết vận xa M-113 trang bị kém hơn. Lần này, sự bất ngờ có tính cách chiến thuật. Không ai có thể ngờ được rằng quân đội Bắc Việt lại công khai vượt tuyến và đánh trận địa với chúng ta. Những khẩu đại bác 130, 122 ly, những chiến xa hạng nặng T-34, T-54 cũng có thể kể là những bất ngờ chiến cụ.

Nhưng lần này, chính địch quân cũng bị bất ngờ. Họ bất ngờ trước sự trưởng thành đột ngột của Không Quân Việt Nam. Là Quân Chủng rất nặng về kỹ thuật, Không Quân không thể xé quy luật lớn, vượt lên, ra ngoài những công thức ước tính rất toán pháp.

 Sau ba lần thử lửa, người ta có thể khẳng định rằng tình trạng "nhổ giò" của Không Quân là một "thực tế" (xin mượn tiếng của ông Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ để nói về Không Quân đấy nhé) và thực tế này không chỉ làm cho địch quân bất ngờ mà thôi. Nó còn là sự bất ngờ của người Mỹ và người Việt Nam nữa. Vì thật ra, trước khi có những minh chứng hôm nay, chắc chắn không ai dám tin được rằng, những người lính rất ít chất lính, rất bay bướm lại có thể là người lính tốt. 

 Trên ba mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên và Bình Long hàng trăm ngàn người lính Việt Nam, hàng trăm ngàn người lính Cộng đang chứng kiến cái vươn vai Phù Đổng của Quân chủng Không Quân. 
KBC xin ghi nhận sự chuyển mình quan trọng đó.”

*****

…Rời khỏi phòng họp của Không-Đoàn 62CT/SĐ2KQ, thì trời bắt đầu mưa lâm râm. Lân qúa giang ông Liên-Đoàn Trưởng LĐ62 Tác-Chiến để ra phi-cơ. Là một phi-tuần trưởng khu-trục tài hoa son trẻ, lại thêm phong độ hào-sảng của một tráng-sĩ, qua những lần dẫn biệt-đội đi biệt phái PleiKu, ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của LĐ62TC/KĐ62CT Trần Văn-Lân đã lọt vào cặp mắt xanh của con “Ngọa-Long” vùng đất trích. Anh-hùng ngộ anh-hùng, để rồi sau những đêm “Tri-kỷ tương phùng như sương khói – Trăng tàn chưa nghĩ chuyện chia tay”, Lân đã được Thiếu-Tá Định dàn trải tâm-tình, ngỏ ý muốn mời anh cùng vung gươm, vẫy vùng nơi quan tái…Ai tráng-sĩ mà không mê say đại cuộc. Sinh ra giữa thời ly loạn, tới lúc trưởng thành, cũng như bao nhiêu những nguời trai cùng thế-hệ, đã gắn liền cuộc đời mình với kiếp sống“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”,(2) cùng cái hào-khí của tiền nhân “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa – Gieo Thái-Sơn nhẹ tựa hồng mao” (3)… Để rồi qua những lần lang thang làm “Anh khách lạ, đi lên đi xuống” (*) trên con đường ngắn ngủi mà chỉ “Đi dăm phút đã về chốn cũ” (*), trước cửa hiệu thuốc tây có tấm bảng đề chữ “Cao-Nguyên”…Cho đến một ngày “Anh Khách Lạ” chợt thấy “May mà có em, đời còn dễ thương” (*), thì cái vùng đất gió núi mưa rừng này đã trở thành miền quê ngoại của cánh chim bằng miền thùy-dương cát trắng. Nay lại gặp tri-kỷ mở lời thì hiểm nguy nào ngăn cản được con thần ưng, chỉ mong xoải cánh bay vào vùng trời dông bão…

Chiếc khu-trục cơ AD5 không gắn bom, và hỏa-tiễn dưới cánh, trông gồ ghề như một con quái điểu nằm trong ụ đậu, chờ hai ông phi-công lên nổ máy cất cánh. Thấy Long đang đứng đợi mình dưới cánh phi-cơ, Lân cười chạy tới bắt tay Long nói:
- Thật là thất lễ, làm ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của PĐ 530 phải vất vả.

Long cười giọng hào-sảng:
- Có gì đâu, chỉ là chuyện nhỏ. Ông Định dặn tôi bằng mọi giá phải đưa bạn lên PleiKu hôm nay.

Lân cảm động trước tấm chân tình của những người lính chiến Không-Quân. Anh nhớ hôm về Nha-Trang họp để làm nốt thủ-tục bàn giao biệt đội Khu-Trục cho KĐ-72CT tân lập, Thiếu-Tá Định đưa Lân ra tận bãi đậu Trực-Thăng. Trước khi lên phi-cơ, ông ân cần dặn dò Lân:
- Toa về trong ấy họp, lo thu xếp công việc rồi lên đây bay cùng anh em.
- Vâng, tôi sẽ ráng thu xếp mọi chuyện cho được mau chóng.
- Cũng không cần phải vội vàng lắm; cần nhất là phải lo cho chị nhà và cháu bé trước. Có tề gia rồi mới nghĩ đến chuyện “bình thiên hạ” được chứ…

Cử chỉ chăm sóc kín đáo, và những lời bộc lộ chân tình, đã nói lên mối quan tâm của Th/Tá Định đối với các chiến hữu, và ông đã thu phục được cánh chim trời bạt gió của vùng biển Nha-trang ngút ngàn sóng nước…

Long và Lân leo lên hai bên cánh phi-cơ để bước vào phòng lái. Cột xong giây dù và nón bay, Long đưa ngón tay ra hiệu cho người cơ-trưởng đứng dưới đất để quay máy. Tiếng động cơ gầm lên, chiếc AD5 lừng-lững di chuyển ra phi-đạo. Long liên-lạc với đài kiểm-soát Nha-Trang xin cất cánh. Chiếc phi-cơ phóng về phía trước rồi vụt bốc lên, biến mình mất hút vào trong màn mây, mưa mịt mù dầy đặc…

Dán mắt vào bảng phi-cụ trước mặt, Long bấm máy nói với Lân:
- Trời xấu toàn vùng, mình sẽ lên cao độ 12,000 bộ. Lấy hướng đi Phú-Bổn, rồi từ Phú-Bổn lấy hướng thẳng về PleiKu.

Lân quay sang Long nói:
- Tiếc thật, chiều nay gía tụi mình còn ở lại Nha-Trang, tôi sẽ mời bạn thưởng thức món chả cá đặc biệt của vùng biển. Trời mưa rả rích, ngồi trong chiếc quán lá bên gềnh đá, nghe trùng dương rì rào vỗ sóng, nhâm nhi ly rượu cùng bạn hữu, kể chuyện “tình người lính chiến”, thì còn gì thú vị bằng.
Long cười trong máy:
- Cám ơn bạn, tôi cũng thích món chả cá xóm Bóng lắm, nhưng xin hẹn lần sau. Hiện nay phi-đoàn đang thiếu người.
- Tôi đâu dám dụ dỗ ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của phi-đoàn. Nhưng vào mùa này thì thời tiết buổi sáng cũng không khá hơn buổi chiều đâu nhé. 

Cả hai người đều bấm máy cười sảng khoái. Phi-cơ đội mưa lên đến cao độ bình phi. Long rà núm điều chỉnh cần lái, để phi-cơ bay lướt trên những cụm mây xám bồng bềnh như sóng nước của dòng sông thiên-hà dưới cánh. Bỗng có tiếng vô-tuyến dồn-dập trong ống nghe của nón bay:
- Thái-Dương 03 đây Peacock gọi. Chúng tôi vừa được Trung-Tâm HQKT-2 chuyển lệnh khẩn cấp cho bạn liên-lạc để làm việc với BlackCat trên tần-số FM…

Long đưa mắt nhìn Lân rồi bấm máy trả lời:
- Peacock, Thái-Dương 03 nhận bạn 5/5. Tôi sẽ liên-lạc với Blackcat, tần số FM…

Long kiểm soát thật nhanh bảng phi-kế, điều khiển cần lái chúi mũi làm “penetration” cho phi cơ xuyên mây xuống cao độ, rồi quay qua nhìn Lân nói:
- Chắc có chuyện làm ăn lớn, lần này bạn có dịp biểu diễn tài tác xạ…

Phi cơ xuống tới 4,000 bộ, nhìn bản đồ Long thấy mình đang ở trên Phú-Nhơn, anh bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Blackcat đây Thái-Dương 03 gọi, tôi đang ở trên Phú-nhơn, cao độ 4,000 bộ, bạn cho biết vị trí.

Tiếng người phi-công quan sát dồn-dập vọng lên:
- Thái-Dương 03, Blackcat nghe bạn 5/5. Chúng tôi đang ở cao độ 3,000 bộ, về hướng Đông - Bắc của Phú nhơn 2 dậm…OK! Chúng tôi thấy bạn rồi. Hiện tại Black Cat đang ở hướng 10 giờ của Thái-Dương, bạn cho biết trang bị.
- Thái-Dương 03 chỉ có 800 viên đại-bác 20ly. Bạn cho biết chi tiết mục tiêu.
- Thái-Dương 03, mục tiêu được ghi nhận là nơi đóng quân của địch. Chúng tôi sẽ cho bạn một trái khói mầu cam…

Chiếc L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh tọa-độ của người phi-công quan-sát:
- Thái-Dương 03, bạn sẽ oanh-kích ngay trái khói, trải dài theo hướng Đông – Tây 300 thước.
- Thái-Dương 03 nhận rõ. Từ trái khói, dọc theo hướng Đông-Tây 300 thước.

 Nói xong Long liếc mắt kiểm soát lại các đồng hồ phi-cụ, điều chỉnh cần hòa-khí về vị thế chiến đấu, bật nút khai hỏa lên nòng 4 khẩu đại-bác, rồi làm một vòng “roll” 360 độ, lao xuống mục tiêu. Long bấm nút tác xạ, những họng súng đại bác hai bên cánh khạc lửa, tung ra từng tràng đạn 20ly công phá, cầy nát một khoảng rừng…Bỗng một cột lửa bung tỏa ra, rồi một tiếng nổ long trời lở đất dội lên như một ngọn hỏa-diệm sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, làm xao động cả một vùng khí quyển. Long kéo mũi phi-cơ thẳng đứng, làm một “nửa vòng số 8” rồi đưa phi-cơ lên cao độ của vòng chờ. Tiếng ngưòi phi-công quan-sát dồn dập trên tần số:
- Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 03 đánh qúa đẹp. Bạn đã oanh kích đúng hầm chứa vũ khí của địch rồi đó.

Long bấm nút vô-tuyến cười nói:
- Chỉ là chuyện nhỏ, cám ơn bạn qúa khen.
- Thái-Dương 03, lần này bạn sẽ đánh về hướng Tây - Nam của trái khói 100 thước. Mục tiêu được ghi nhận có nhiều xe Molotova của địch được ngụy trang dưới lùm cây.
- Thái-Dương 03 hiểu. Tây Nam trái khói 100 thước.

Nói xong Long quay sang nhìn Lân nói qua máy:
- Xin nhường bạn chiêu này.

Lân cười…chuyển nút điều khiển cần lái, rồi lật ngược phi-cơ lao xuống mục tiêu. Đạn phòng không từ dưới phóng lên tua tủa như một mạng lưới lửa đan chéo thân tầu. Tiếng người phi-công quan-sát dồn dập gọi:
- Thái Dương 03 coi chừng phòng không từ hướng Tây.

Lân mím môi bấm nút khai hỏa. Chiếc khu-trục cơ gầm lên theo với nhịp bắn. Bỗng một tiếng nổ chát chúa vang lên, con tầu như khựng lại. Lân liếc mắt nhìn qua bên phải, anh thấy cánh phải của chiếc AD5 trúng đạn phòng không rách toạc ra, rồi một ngọn lửa phực lên từ ổ súng đại-bác gắn trên cánh. Lân vội vàng trả cần lái về vị thế thăng bằng, kéo mũi phi-cơ lên để lấy cao độ. Con tầu rung lên dữ dội…Ổ đạn chứa trong cánh phi-cơ phát nổ làm gẫy lìa một nửa cánh phải, ngọn lửa cháy lẹm qua ống dẫn thủy điều vào buồng máy, bùng lên như một ngọn đuốc khổng lồ trên không. Phi-cơ nghiêng hẳn về bên trái, quay tròn rồi rơi vào vị thế triệt nâng…

Với một phản-ứng vô cùng nhậm lẹ, và bén nhậy của một phi-công khu-trục dầy dạn chiến trường, Long chụp vội cần lái, lấy lại phần điều khiển phi-cơ bên ghế trái, bấm nút vô-tuyến gởi tín hiệu khẩn cấp “MayDay”, rồi ra hiệu cho Lân bung dù…

Lân cảm thấy mình bị hút vào khoảng không-gian vô tận, và quay lộn nhiều vòng rồi bị ngất đi vì lực “G” qúa mạnh…Khi tỉnh dậy Lân thấy mình đang lơ lửng giữa vòm trời. Anh đảo mắt nhìn quanh, thấy chiếc dù của Long ở phía xa. Lân mừng thầm là người bạn đồng hành với mình cũng đã thoát ra khỏi chiếc phi-cơ lâm nạn. Bỗng Lân thấy bầu trời nhạt-nhòa như một màn mưa phùn che trước mặt, Lân liếm môi anh thấy mùi vị tanh tanh và mặn, anh đưa tay vuốt mặt và thấy bàn tay mình đầy máu. Tấm kiếng che mặt trên nón bay đã bị bể nát; một giòng máu nóng từ trên trán chẩy xuống, anh tháo vội chiếc khăn quàng cổ, cuốn lại rồi nhét vào bên trong chiếc nón bay để ngăn dòng máu đang rỉ xuống làm mờ mắt, rồi anh co duỗi hai chân để thử, và thấy an tâm là chân không bị gẫy. Lân đưa tay làm dấu Thánh Gía trên mình, thầm cám ơn Chúa đã mang anh và Long ra khỏi giây phút hiểm nghèo…

Lân nhìn xuống dưới, thấy cánh dù đang rơi đúng chỗ những đám khói nơi trận địa, anh kéo dây điều khiển cho cánh dù lạng về phía Đông để tránh vị trí của địch. Cánh dù từ từ hạ xuống, Lân co hai chân, kéo mạnh dây dù rồi buông ra để giảm tốc độ. Anh nhắm mắt, chụm hai cánh tay che lấy mặt. Cả thân hình anh rớt xuống và vướng vào ngọn cây. Lân cảm thấy hai bên xườn bị đau nhói vì sức va chạm qúa mạnh. Lân mở mắt thấy mình bị treo trên cành cây cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lân nhìn xung quanh không thấy cánh dù của Long, anh nhìn lên trời thấy hai chiếc khu-trục cùng chiếc L19 như những con diều hâu quần thảo trên đầu mình, anh thấy vững bụng.

 Lân tháo dây dù rồi đu theo cành cây nhẩy xuống đất. Anh bỗng thấy một đám khói mầu bốc lên cách chỗ anh đứng khoảng 100 thước, rồi chiếc khu-trục đâm bổ xuống và nhả ra một trái bom, anh vội vàng chạy vòng ra sau thân cây để núp. Một tiếng nổ vang dội như tiếng sấm cùng những mảnh bom bay rào rào như một trận cuồng phong, cắt đứt cành cây ngọn cỏ. Đứng nép mình sau thân cây, Lân thấy tim mình đập như muốn văng ra khỏi lồng ngực. Chưa kịp hoàn hồn thì một tiếng nổ kế tiếp lại ầm vang lên, lần này gần chỗ Lân núp hơn. Lân thấy mặt đất rung lên dữ dội như đang trải qua một cơn địa chấn. Anh cảm thấy ù tai và ngộp thở vì sức ép của qủa bom. Sỏi đá và những cành cây gẫy đổ ào ào rơi xuống như trời xập…Chiếc khu-trục xuống thật thấp, lao vút đi, rít lên như một mũi tên xé gió, nhả từng tràng đạn đại bác 20ly cầy tung mặt đất. Lân có thể nhìn thấy chiếc nón bay của người phi-công ngồi trong phòng lái. Lằn đạn nổ gần đến nỗi anh có cảm tưởng như da thịt mình bị bỏng rát. Đây là lần đầu tiên Lân được chứng kiến cảnh bom nổ, đạn bay nơi chiến địa ngay bên cạnh mình. Một luồng cảm khái rần rật chạy khắp toàn thân, anh thầm cảm phục sự gan dạ và dũng-cảm của những người bạn đồng ngũ…




Khi những chiếc khu-trục đã làm xong công việc giải tỏa bãi đáp cho trực thăng, và phóng lên trời để bao vùng. Lân chạy ra khỏi chỗ núp, anh thấy một chiếc UH1 đang lừng lững bay tới. Lân mừng rỡ chạy ra khoảng đất trống, đưa tay vẫy…Chiếc trực-thăng đảo một vòng ngay chỗ Lân đứng, rồi bất thần lao xuống. Khi chiếc phi-cơ cấp cứu còn cách mặt đất khỏang chừng nửa thước, thì Lân phóng tới bám lấy thành tầu, một cánh tay từ trong khoang tầu vươn ra nắm chặt lấy tay Lân rồi kéo thốc anh lên. Lân lăn mình trên sàn phi-cơ, ngước nhìn lên anh tưởng mình nằm mơ, Th/Tá Lê Bá-Định và Đức (Điên) một cao thủ trong giới cơ-phi Xạ-thủ phi-hành của vùng trời biên-trấn, đứng xừng-xững như hai ông Hộ-Pháp, chắn ngang hông phi-cơ cho Lân dựa người vào khi chiếc phi-cơ nghiêng mình chao đi như một chiếc lá, bay về phía chiếc dù thứ hai đang treo lơ lửng trên cây. Cánh quạt gió khổng lồ quay vùn vụt, chém vạt những cành cây như một con quái điểu đang đập cánh vồ mồi. Chiếc trực-thăng nghiêng ngả, tìm cách đáp xuống để bốc người phi-công lâm nạn…Đưa mắt nhìn xuống bên dưới, Lân thấy cánh tay của Long cố vươn lên như muốn kéo chiếc trực-thăng xuống thấp thêm một chút nữa…Mọi người trên tầu đang hồi hộp theo dõi chiếc phi-cơ tròng trành lên xuống như bị nhồi sóng, thì một loạt tiếng nổ chát chúa vang lên. Con tầu cấp cứu đã lọt vào ổ phục kích, và lãnh trọn luồng đạn thù nghịch từ những hầm trú ẩn của địch bắn lên…

Từng tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm đạn của kẻ thù…

Trong một khoảnh khắc chưa đầy một giây đồng hồ, Lân quên hẳn vết thương trên đầu, anh chồm tới tháo giây cột trên ghế ngồi, kéo người trưởng phi-cơ ra, đẩy về phía Thiếu-Tá Định và Đức (Điên), rồi anh với tay đập mạnh lên vai người phi-công phụ đang ngồi bất động như chết cứng trên ghế…Cú đập bất thần đã kéo người phi-công phụ ra khỏi con mê lộ của tử thần; bản năng tự-vệ dành lấy mạng sống cho anh, cùng mọi người trên con tầu trúng đạn bùng dậy, anh chụp vội cần lái, đưa chiếc trực-thăng bốc mình lên, lấy lại thăng bằng, chúi mũi lao thẳng về phía trước, rồi bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- BlackCat, đây Lạc-Long 04 gọi. Báo cho bạn biết chúng tôi bị lọt ổ phục kích của địch, chỉ bốc được một phi công nhẩy dù. Tầu bị bắn bể ống dầu, trưởng phi-cơ bị thương nặng, chúng tôi phải rời vùng.

Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát vọng lên qua ống nghe như để vỗ về, chia xẻ cùng mọi người trên con tầu lâm nạn:
- Lạc-Long 04, Blackcat nhận rõ. Xin hỏi phi hành đoàn Lạc-Long 04 là những ai đó.
- Trưởng phi-cơ Đại-Úy Huyên, Phi-Công phụ Trung Úy Long.
- Có phải “Thần Điêu Đại-Hiệp Vũ Ngọc-Huyên và “Đại-Hiệp Long Ghiền” đấy không. Xin được tỏ lòng ngưỡng mộ đến “Lạc-Long Đại-Hiệp”, các bạn vừa hoàn thành một phi-vụ cấp cứu vô cùng khó khăn và nguy-hiểm.

- Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Cám ơn bạn qúa khen. Chúng tôi sẽ bay dọc theo QL 14. Phi cơ có thể bốc cháy bất cứ lúc nào, nhờ bạn theo dõi phi trình.
- BlackCat nhận rõ. Xin báo cho Đại-Hiệp biết là Thái-Dương 31 đã thanh toán gọn ổ phục kích của địch cho bạn rồi, và sẽ hộ tống Lạc-Long 04 về PleiKu. Chúng tôi cũng đã nhờ Trung-Tâm Không-Trợ 2 báo cho phòng Hành-Quân-Chiến-Cuộc của KĐ72CT cho xe cứu thương đón Lạc-long 04 tại bãi đáp. Chúc Đại-Hiệp về đáp an toàn. Chúng tôi ở lại bao vùng, để tiếp tục công việc cấp cứu Thái-Dương 03.

Trong khoang tầu bê bết máu, Thiếu-Tá Định kéo Đức (Điên) lại, ra hiệu cho anh ngồi vào chỗ trống của trưởng phi-cơ trên ghế trái, rồi nắm chặt vai Long, như để ngầm gởi gấm sinh mạng những người trên tầu vào tay người phi-công trẻ, xong ông quay xuống săn sóc Huyên và Lân…“Long Ghiền” lấy lại bình tĩnh, vận dụng hết khả-năng và kinh-nghiệm của mình, điều khiển con tầu bị thương, mang các chiến hữu lâm nạn về căn cứ…


*****

…Lân nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, vết thương trên trán bắt đầu hành vì mất nhiều máu. Lúc khâu vết thương, bác-sĩ nói anh thật là may mắn, vì nếu mảnh đạn đi chệch xuống khoảng 1 đốt ngón tay thì anh có thể sẽ mất hai con mắt. Lân mừng là mình đã thoát nạn, nhưng khi nghĩ đến những người bạn vừa cùng anh chia xẻ những nhọc-nhằn nguy-hiểm nơi chiến địa, anh thấy lòng mình quặn thắt.…Cánh dù của Long rơi đúng vào ổ phục kích của VC, bị địch bắt mang đi, không biết sống chết ra sao. Huyên bị trọng thương, và sẽ trở thành một phế binh tàn tật suốt đời. Sự có mặt của Lê Bá-Định trên chiếc trực-thăng cấp cứu, trong lúc mạng sống của mọi người như sợi chỉ treo chuông. Long (Ghiền) “đơn thương độc mã, tả xung hữu đột” điều khiển con tầu định-mạng, dìu mọi người thoát ra khỏi vòng tay oan-nghiệt của Tử-Thần…Tất cả những sự hy-sinh, gắn-bó, và tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, cùng với phong độ hào-sảng của những người bạn Quan-Sát, Khu-Truc, Trực-Thăng, Cơ-Phi Xạ-Thủ phi-hành nơi sa trường, những người lính chiến đã được tinh luyện trong những lò luyện thép của quân-đội, để sẵn sàng thi-hành những công-tác cực kỳ khó-khăn và nguy-hiểm, mà cái gía phải trả cho sự thành-công, đôi khi là chính mạng sống của họ, đã làm con tim anh rúng động…
Có tiếng người lao xao ngoài cửa phòng, Lân đưa mắt nhìn ra, anh thấy Oanh, vợ mình tay dắt bé Luân, đứa con trai đầu lòng vừa được hai tuổi tất tả bước vào. Vừa nhìn thấy Lân trên đầu quấn băng trắng xóa, Oanh chạy ào tới bên cạnh giường bệnh rồi khóc òa lên:
- Chúa ôi! Anh có sao không? Em được anh Định báo tin nên vội vàng dẫn con vào đây.

Lân gượng ngồi dậy, dựa lưng vào thành giường, dang tay đón vợ và con, nói giọng an ủi:
- Anh không sao cả, em đừng lo, làm con nó sợ.

Oanh vòng tay ôm lấy Lân rồi gục đầu lên ngực chồng, giọng thổn thức:
- Anh ơi em sợ lắm! Anh hứa với em là đừng để đứa con của chúng mình ra đời mà không được nhìn thấy mặt cha của nó nghe anh.

Lân lặng người khi nghe Oanh nói. Anh nhẹ vuốt tóc vợ, mái tóc mềm óng ả, một thời mang huyền-thoại người “Em PleiKu má đỏ môi hồng” (*), từng làm thổn-thức con tim của biết bao lữ-khách hơn một lần dừng chân nơi phố núi, bây giờ đã là người vợ ngoan hiền của anh, và sắp làm mẹ của đứa con thứ hai:
- Em đừng sợ, anh không sao cả mà.

Vòng tay của Oanh xiết chặt hơn như không muốn để cho con đại bàng thêm một lần xoải cánh. Lân cười dịu dàng đặt tay lên bụng vợ nói:
- Em coi này, con nó đang đạp chân mừng bố về nè.

Bé Luân kiễng chân chồm lên giường, ôm cánh tay bố khóc thút thít. Nhìn những giọt nước mắt tình cảm của vợ con, Lân thấy lòng hụt hẫng, xót xa…Anh thấy mình đã nợ những người thân, và các đồng đội món nợ qúa lớn:

Những món nợ suốt đời không trả hết
Nợ ba sinh nợ những mối chân tình
Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy thác
Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu linh.

Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc, lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao vào vùng lửa đạn, bỏ lại một ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc, và một ngày cho những đôi mắt vời-vợi chờ trông nơi chốn chân mây tận cuối trời…

Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Một thời ly loạn.)
_____________________________

Chú-Thích: 
(1) Thơ Phạm Ngọc Lư
(2) Kiều của Nguyễn Du
(3) Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
(*) Thơ Vũ Hữu-Định. Bài thơ này VHĐ lấy cảm hứng qua hình ảnh tuyệt-vời của một người con gái tên Nguyễn Thị Hoàng-Oanh nơi tiệm thuốc tây “Cao-Nguyên” trên PleiKu. Bài thơ được nhạc-sĩ Phạm-Duy phổ nhạc…Lời thơ và ý nhạc đã làm hình ảnh của người “ Em PleiKu…” tồn tại mãi với thời-gian.  






  

 

No comments:

Post a Comment