Sự thật tàn nhẫn về ngày lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ






Ngày Lễ lớn tại Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ có hai ngày lễ chính thức trong năm được phần lớn mọi người coi là quan trọng nhất: đó là Ngày Lễ Giáng Sinh, được gọi là Christmas hay Noel và ngày Lễ Tạ Ơn hay là Thanksgiving. Nhiều người còn gọi ngày lễ này là ngày Lễ Gà Tây, vì Gà Tây là món ăn độc đáo của ngày lễ này.



Người Hoa Kỳ tuyệt đại đa số theo đạo Thiên Chúa: hoặc là Tin Lành (Protestant) - cũng còn được gọi là Phản Thệ giáo - với rất nhiều tông phái (Baptist, Presbyterian, Lutheran, Anglican, Episcopal, Pentacostal,...) hoặc Ca Tô La Mã, cho nên lễ Giáng Sinh, một ngày lễ có tính cách tôn giáo, được coi là trọng thì chẳng có gì là lạ.

Ngày Lễ Tạ Ơn thì khác, không có tính cách tôn giáo, mà lại liên quan rất nhiều đến lịch sử nước Hoa Kỳ, ở một thời đại rất xa xưa, trước khi Hoa Kỳ trở thành một nước độc lập, tự chủ, trước khi nước này được gọi là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay là The United States of America.

Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại (Myths). Ngày Lễ Tạ Ơn cũng không phải là một ngoại lệ,

Khi mới sang Hoa Kỳ ở cái tuổi quá nửa đời người, tôi tất nhiên chẳng biết ngày Lễ Tạ Ơn là ngày gì và tại sao lại có ngày này.

Chẳng bao lâu gia đình chúng tôi đã được những người bạn thân Hoa kỳ mời đến nhà tham dự Lễ Gà Tây, chúng tôi mới biết đại khái về ngày lễ này. Các con tôi đi học ở trường cũng được các thầy cô giảng dậy rất kỹ về Ngày Lễ Tạ Ơn, đặc biệt về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên. Về nhà, các cháu cũng nói chuyện lại. Do đó bổ túc thêm rất nhiều những điều chúng tôi được biết khi dự Lễ Gà Tây ở nhà người bạn.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên truyền thống

Học trò ở trường được các thầy cô kể chuyện về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên như sau:

"Một thời lâu lắm rồi có những người Anh gọi là "Puritans", dịch là những Thanh giáo đồ, là những người bị bắt buộc theo giáo phái của nhà Vua, gọi là King's Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi.

Những người Thanh giáo đồ này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ đầu tiên là Hòa Lan gần nước Anh. Họ đã tìm cách hòa nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả người Hòa Lan địa phương, nhưng không được, vì ngôn ngữ bất đồng và tín ngưỡng có khác. Thế là một lần nữa, những người theo Thanh Giáo lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi. Họ được gọi là những người "Pilgrims", hay là những người Di Dân Hành Hương.


Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Di Dân Hành Hương đầu tiên đi tìm đất mới rời Hòa Lan và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển.







Bức tranh "Lễ Tạ Ơn đầu tiên 1621"
của họa sĩ Jean Leon Gerome Ferris

MayFlower là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Di Dân Hành Hương kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng mùa đông năm đó khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người Da Đỏ, mà hồi đó người thám hiểm Âu châu cứ nghĩ đó là những người Ấn Độ cho nên gọi họ là Indians.

Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ cuả họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.



Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Di Dân Hành Hương có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ, cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm".

Đó là câu chuyện phần lớn người Hoa Kỳ được biết về Ngày Lễ Tạ Ơn, vì ngay từ nhỏ họ đã được giảng dậy như vậy.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên thực sự



Tuy nhiên có một số người Hoa Kỳ không nghĩ là câu chuyện xẩy ra đã lại giản dị và hoàn toàn tốt đẹp như vậy. Họ là hậu duệ của những người Da Đỏ.

Một trong những người này là ông Chuck Larsen. Ông là con cháu người Da Đỏ khi xưa. Trong huyết quản của ông, một người lai căng, có dòng máu Pháp Quebequois, dòng máu thổ dân Da Đỏ Ojibwa, và thổ dân Iroquois. Ông cũng là một nhà giáo dậy Tiểu học. Ông cũng đã từng nghiên cứu Sử học, viết sách về lịch sử nước Hoa Kỳ và người thổ dân Da Đỏ cũng như về người Hoa Kỳ gốc Da Đỏ. Đối với ông, mỗi lần đến Mùa Tạ Ơn, ông bị rất nhiều khó khăn, không biết phải làm thế nào. Năm 1986, ông viết:

"Là một người Da Đỏ, mà cũng là một giáo viên đã dậy học 12 năm, Mùa Lễ Tạ Ơn không bao giờ là một ngày lễ dễ xử cho tôi khi phải dậy các em. Đôi khi tôi cảm thấy tôi đã biết quá nhiều về ''người Anh Di Dân Hành Hương, (Pilgrims) và người Da Đỏ". Cứ mỗi năm tôi lại phải đối diện với sự mâu thuẫn: một bên là lương tâm nghề nghiệp, một bên là lòng chân thành đạo đức. Tôi làm thế nào để có thể vừa là một người lương thiện thẳng thắn vừa là một nhà giáo cho biết thông tin đầy đủ cho các em học trò lớp tôi dậy, nhân ngày Lễ Tạ Ơn, mà không bị vướng vào những sự bóp méo lịch sử và cách diễn tả con người rập theo một mẫu sẵn."

Theo cô Susan Bates, cũng là hậu duệ của người Da Đỏ, thì chuyện Ngày Lễ Tạ Ơn trong đó những người Di Dân Hành Hương Pilgrims và người Da Đỏ vui vẻ cùng nhau ngồi ăn chung một bữa tiệc lớn là một chuyện có xẩy ra thật, nhưng chỉ xẩy ra có một lần. Chuyện Lễ Tạ Ơn đã thực sự xẩy ra rắc rối và bi thảm hơn nhiều.



Cô viết trong trang The Real Story of Thanksgiving (Chuyện Lễ Tạ Ơn đích thực) như sau:

"Chuyện này bắt đầu xẩy ra năm 1614 khi một nhóm những người thám hiểm người Anh đi thuyền về Anh chở theo rất đông người Da Đỏ bộ tộc Patuxet mang về để làm nô lệ. Bọn họ ra về nhưng để lại bệnh đậu mùa, một căn bệnh hầu như đã giết chết hết những người Da Đỏ đã chạy thoát. Khi người Di Dân Hành Hương Pilgrims đến eo biển Massachusetts, họ chỉ còn thấy một người Da Đỏ bộ tộc Patuxet còn sống. Người này tên là Squanto, từng thoát khỏi bị làm nô lệ bên Anh, mà cũng biết tiếng Anh. Squanto dậy cho người Di Dân Hành Hương (Pilgrms) cách trồng ngô, cách đánh cá. Anh ta còn điều đình được một cuộc hòa giải giữa người Di Dân Hành Hương (Pilgrims) với bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Một năm sau, (năm 1620), những người Di Dân Hành Hương bèn tổ chức ra một bữa tiệc lớn để vinh danh Squanto và bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Đó là lễ Tạ Ơn Đầu Tiên vậy.

Khi người Anh tại chính quốc biết tin là đồng bào họ đã tìm thấy thiên đàng trên vùng đất mới, một số người Anh ngoan đạo và rất sùng tín cực đoan, bọn Thanh giáo đồ (Puritans), bèn kéo nhau sang thật đông. Đến nơi khi họ thấy không nơi nào có rào dậu, họ bèn coi đó là đất hoang cho tất cả mọi người. Cùng với những người Anh đến trước, họ chiếm lấy đất đai, lùng bắt những thanh niên Da Đỏ để làm nô lệ và giết hết những dân Da Đỏ còn lại. Thế nhưng bộ tộc Pequot đã không đồng ý với hiệp ước hòa giải mà Squanto đã điều đình được. Họ chống đối lại người Anh. Cuộc chiến tranh Pequot đã là một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của người Da Đỏ từng làm.






© Wikipedia


Năm 1637, ở gần một nơi bây giờ là Groton, tiểu bang Connecticut, lối trên 700 người Da Đỏ, đàn ông, đàn bà, trẻ con thuộc bộ tộc Pequot đến hội họp để làm lễ Hội Trồng Ngô Xanh (Green Corn Festival) hằng năm, cũng là lễ Tạ Ơn của chúng ta. Trời chưa bừng sáng, dân Da Đỏ còn đang mơ màng giấc điệp thì bọn lính đánh thuê người Anh và người Hòa Lan tiến vào bắt họ phải ra ngoài. Người Da Đỏ nào đi ra thì bị bắn chết hay đập chết, trong khi những đàn bà trẻ con Da Đỏ chạy trốn trong lều thì bị thiêu sống. Ngày hôm sau, ông Thống đốc thuộc địa eo biển Massachusetts tuyên bố ngày hôm đó là Ngày Tạ Ơn, vì 700 người Da Đỏ không khí giới, đàn ông, đàn bà, trẻ con đã bị tàn sát.

Say men "chiến thắng", những người Anh đi kiếm thuộc địa và những người Da Đỏ về hùa theo họ đã tấn công các làng Da Đỏ, làng này sang làng khác. Đàn bà và trẻ con trên 14 tuổi được bắt đem đi bán làm nô lệ, trong khi tất cả những người còn lại thì bị giết chết. Từng chuyến thuyền chở tới 500 nô lệ Da Đỏ đều đều rời hải cảng vùng New England. Người ta còn trả tiền cho những da đầu lột từ người Da Đỏ, hầu khuyến khích việc tàn sát.


Sau khi cuộc tàn sát những người Da Đỏ bộ lạc Pequot thành công ở vùng đất bây giờ là Stamford, Connecticut, nhà thờ (Thiên Chúa giáo) đã tổ chức một ngày Tạ Ơn thứ hai để ăn mừng chiến thắng chống bọn Da Đỏ mà người ta gọi là "bọn mọi dã man" (savages). Trong bữa tiệc, người ta đã chặt đầu dân Da Đỏ đem ra đá như đá bóng vậy. Cả người Da Đỏ bộ lạc Wampanoag trước vẫn tỏ ra thân thiện với người Anh cũng chịu chung số phận. Tù trưởng Wampanoag(1) cũng bị chặt đầu và cái đầu được cắm vào một cái cột ở Plymouth, Massachusetts, suốt trong 24 năm cho mọi người xem".

Thế là cứ mỗi khi tàn sát xong người Da Đỏ, người Di Dân Anh lại tổ chức một bữa tiệc Tạ Ơn ăn mừng.

Sau cùng (năm 1789), Tổng thống George Washington đề nghị mỗi năm chỉ để ra một ngày (ngày thứ Năm 26 tháng 11) để làm Lễ Tạ Ơn thôi, thay vì làm lễ Tạ Ơn mỗi khi thành công trong chuyện tàn sát người Da Đỏ.



Về sau ( năm 1863), Tổng thống Abraham Lincoln ký sắc lệnh tuyên bố ngày Lễ Tạ Ơn là ngày nghỉ lễ cho toàn dân, ngay cả khi trong nước đang có nội loạn.

Cũng chính ngày hôm ấy, Abraham Lincoln đã ra lệnh cho quân đội tấn công bộ lạc Da Đỏ Sioux đang đói rét tại Minnesota.

Số phận người Da Đỏ

Đó là số mạng của dân Da Đỏ khi Hoa Kỳ mới lập quốc. Sau đó thì sao? Người ta chỉ có thể nghĩ đến những cụm từ không lấy gì làm tốt đẹp như: tận diệt, diệt chủng, đồng hoá, cưỡng bách, cải đạo v.v...

Nhân vật chánh trị có gương mặt gần cận nhất cũng như là có trách nhiệm cao nhất ảnh hưởng đến số phận của dân Da Đỏ là tướng Andrew Jackson (1767 - 1845).






Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Hoa Kỳ


Andrew Jackson là tướng chỉ huy quân đội Hoa Kỳ từ năm 1815. Sau đó làm Thống đốc quân sự ở Florida (1821). Ông đã làm Tổng thống thứ Bẩy của Hoa Kỳ từ năm 1829 đến năm 1837. Ông là người chủ chương duy trì "chế độ nô lệ" và nhất là chính sách "Bứng mọi Da Đỏ" (Indian Removal). Ông nổi tiếng là rất cương quyết cho nên có hỗn danh là "Old Hickory(2)". Có thể tạm dịch: ông Jackson là "Thiết đầu kim cương' hay "Kim Cương bất hoại". Ngay trước khi làm Tổng Thống, ông đã thương thuyết với nhiều bộ lạc Da Đỏ để tìm cách đưa họ đi về miền Tây là nơi mà người Anh da trắng chưa đến chiếm ngụ.

Các bộ lạc Da Đỏ đã không thống nhất trong đường lối đối xử với người Âu châu, trước hiểm họa bị cướp đất, bị tận diệt. Có bộ lạc chủ trương phải chống lại, có bộ lạc thấy cuộc chiến vô vọng vì ưu thế khí giới của người Âu Châu, và sau nhiều lần thất bại. Bởi vậy, người Hoa Kỳ, nhất là Tổng Thống Jackson, nhìn thấy nhược điểm của người Da Đỏ, đã nhất quyết đẩy mạnh chính sách "Bứng dân Da Đỏ" đến cùng.


Năm 1830, ông Jackson đưa ra quốc hội Hoa Kỳ duyệt y đạo luật mệnh danh là "Removal Act". Trong khi quốc hội Hoa kỳ tranh luận về dự luật "Removal Act" thì chính quyền tiểu bang Georgia sáp nhập đất đai của bộ tộc Da Đỏ Cherokee vào tiểu bang, trái với những thỏa ước chính phủ trung ương Hoa Kỳ đã có trước đây với bộ tộc này.



Tổng Thống Jackson tỏ ra đồng tình đồng thuận với tiểu bang Georgia. Vấn đề được đưa lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Đến khi chủ tịch Tối Cao Pháp Viện Hoa kỳ, ông John Marshall, phán quyết rằng tiểu bang Georgia đã có hành động vi hiến, và đất của người Da Đỏ phải trả lại cho họ, thì Tổng thống Jackson cũng không coi Tối Cao Pháp viện ra gì và không chịu thi hành án lệnh của viện này. Nếu ở một thời điểm khác thì cách hành xử của Jackson có thể bị coi là lạm dụng quyền hành pháp và có thể bị truất phế. Nhưng ông vẫn tại vị.



Người Da Đỏ phân vân không biết làm sao. Nội bộ bèn chia ra làm hai phe. Một phe nhất định không chịu nhượng đất. Phe kia, lãnh đạo bởi lãnh tụ Da Đỏ Major Ridge, chịu nhượng bộ mà chịu ký một thỏa thuận nhượng đất lấy 5 triệu đô la. Chính phủ của ông Jackson biết rõ thủ lãnh Major Ridge chỉ đại diện cho một số nhỏ bộ lạc Cherokee, nhưng coi việc đó như là xong. Chính phủ Hoa Kỳ từ nay có quyền lấy đất và tiến hành việc "bứng" dân Đa Đỏ về miền Tây.



Nhiều bộ tộc Da Đỏ lần lượt bị "Bứng" trước bộ tộc Cherokee. Bộ tộc Choctaws bị càn quét và bứng vào năm 1831. Sau đó là bộ tộc Seminoles vào năm 1832. Bộ tộc Creeks vào năm 1832. Bộ tộc Chickasaws vào năm 1837 và sau cùng là bộ tộc Cherokees vào năm 1838.



Vì chính sách "bứng" người Da Đỏ được thi hành lần đầu tiên với bộ tộc Choctows, và khi đó chính phủ Hoa Kỳ tổ chức rất luộm thuộm, không lưu tâm gì đến tình trạng an sinh của người Da Đỏ, cho nên người Da Đỏ đã bị đẩy đi trong một tình trạng rất thảm thương, gây chết chóc cho rất đông người Choctows.



Thế nhưng so với công cuộc càn quét dồn ép bộ tộc Cherokees mấy năm sau để bứng họ về Oklahoma thì không thấm tháp gì.



Ngày 17 tháng 5, 1838, tướng Winfield Scott tới New Echota với 7000 quân, đủ mọi thành phần: binh sĩ, tự nguyện, nhà thầu tư nhân... thi hành lệnh của Tổng Thống Jackson, tập trung 13,000 người Da Đỏ Cherokees tại Cleveland, Tennessee, để khởi sự cưỡng ép họ đi đến miền Tây, bây giờ là Oklahoma.



Ngay trước khi ra đi, 3,000 dân Da Đỏ đã chết vì bệnh tật, đói kém và rét lạnh trong trại tập trung. Nhà cửa đã bị đốt cháy, hoa mầu đã bị tàn phá, trang trại đã bị Di Dân người Anh đến chia nhau bằng cách rút thăm. Dân Da Đỏ đã hết lối về, bắt buộc phải để người Hoa Kỳ dẫn đi.



Khi mùa Đông năm 1838 bắt đầu, tướng Scott khởi sự di chuyển những người Da Đỏ về miền Tây, trong một cuộc hành trình dài cả ngàn cây số. Đây là một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu của 13,000 dân Da Đỏ thuộc Cherokee và với một số bộ tộc khác còn lại, đã bi cưỡng ép đi bộ từ miền Tenessee đến Oklahoma, dòng dã cả năm trời vào mùa Đông trong sương tuyết. Bốn ngàn dân Da Đỏ, phần lớn là đàn bà và trẻ con đã bỏ mạng trong khi đi đường vì đói ăn, thiếu mặc, không giầy dép, bệnh hoạn không thuốc thang, chưa kể đến những đốc thúc đánh đập trong khi đi đường, trong số này có Quatie, là vợ ông tù trưởng Cherokees John Ross.







Bức tranh "Hành trình trong Nước mắt" (The Trail of Tears)
của Max D. Stanley

Một binh sĩ tên là John Burnett đã ghi lại trong nhật ký của ông:

"Tôi đã tham dự nhiều trận chiến khi các Tiểu bang đánh nhau trước đây. Tôi đã thấy rất nhiều người bị bắn chết. Nhưng cuộc bứng dân Da Đỏ Cherokee là một điều dã man nhất tôi chưa từng thấy.... Thế hệ tương lai sẽ đọc (dòng chữ này) và tôi hy vọng là họ hiểu cho rằng những binh nhì như tôi hay như 4 người Cherokees đã bị tướng Scott bắt phải bắn chết người tù trưởng Da Đỏ và đàn con của ông ta. Chúng tôi đã phải thi hành lệnh của thượng cấp mà thôi. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác".



Hành trình này sau được mệnh danh là "Trail of Tears" (hành trình trong nước mắt), dịch từ tiếng của người Cherokees: "Nunna daul Tsuny".

Về miền Tây, họ được đưa đi đâu? Đây lại là một số phận thảm thương khác của người Da Đỏ được người Hoa Kỳ dành cho họ. Họ đã bị đưa vào một loại trại tập trung khác gọi là "Reservations". Nói đến "Reservations" người ta chỉ nghĩ đến những cụm từ khác cũng chẳng mấy tốt đẹp: thất nghiệp trường kỳ, ngồi ăn trợ cấp, cờ bạc qua ngày, uống rược giải sầu, đánh vợ đuổi con, bất lực và thất vọng...

Khi người Anh chưa tới, dân số dân Da Đỏ ước khoảng 12 triệu người. Ngày nay số này đã chỉ còn khoảng 1.5 triệu.






Tuyên Ngôn Độc Lập và Dân Quyền



Dưới thời Tổng Thống Andrew Jackson Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, mới thành lập khoảng 50 năm trước thôi, trên căn bản của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, tuyên bố ngày 4 tháng 7 năm 1776, nói rằng:
"Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc(3)"

Người Hoa Kỳ đã quên đi bản Tuyên Ngôn cao quý và tốt đẹp đó, mà thản nhiên khép lại trang sử cuối cùng của một dân tộc ngây thơ, khờ dại, muốn giúp đỡ kẻ khốn cùng, mà chẳng may đã phải đối diện chung sống với một dân tộc khác, từ xa đến, dũng mãnh hơn, khôn ngoan hơn, giỏi giang hơn, nhưng nhiều kỳ thị, nhiều hiếu chiến và nhất là rất tham lam, trên một mảnh đất rộng mênh mông bao la. Mảnh đất này đáng lẽ có thể cho biết bao con người thoả chí vẫy vùng, nhưng khốn thay, dân tộc mới đến chỉ muốn chiếm dụng lấy một mình, đẩy dân tộc địa phương đến chỗ đường cùng


***
Tạ Ơn là một việc làm rất hay, cần có trong việc đối xử giữa con người. Hằng năm người Hoa Kỳ đều tưng bừng làm Lễ Tạ Ơn, mời mọc mọi người đến chia sẻ với mình của ngon vật lạ. Đó là một truyền thống rất đẹp của họ.

Họ tạ ơn ai? Từ Tổng Thống George Washington đến Tổng Thống Lincoln xuống đến bàn dân thiên hạ, người Hoa Kỳ ngày ấy đã Tạ Ơn Trời Đất, gọi là "the Almighty God", tạ ơn Đức Chúa Trời, đã cho họ thêm nhiều của cải và phước lành.


Chẳng mấy ai còn nghĩ đến phải Tạ Ơn những người Da Đỏ tốt bụng khi xưa nữa.



Những người này, phải nói là rất nhiều người này, đã chết, dù có chết vì tay những người Anh Di Dân hay những người công dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đi nữa. Chết là hết, hết chuyện. Bởi vì người Anh, người công dân Hoa Kỳ, nói chung là người Tây phương, theo Thiên Chúa giáo, đều nghĩ là nếu mình là người ngoan đạo, tin tưởng ở Đức Chúa Trời, ở con Ngài là Đức Chúa Giê Su, thì sau khi chết đi sẽ được Chúa đón về Thiên Đàng, về hưởng nhan thánh Chúa. Nếu không, tỷ như bọn Mọi Da Đỏ Dã Man (savages) kia, chết đi chỉ còn con đường là phải xuống Địa Ngục. Chết như vậy là hết chuyện.



Nhưng người Đông phương không nghĩ vậy. Họ không tin là có một vị Thần Linh tối cao nào có thể ban phúc giáng họa cho con người. Họ tin ở quy luật tự nhiên, bất di bất dịch của vũ trụ, đó là luật Nhân Quả. Mình làm ác thì mình sẽ phải chịu quả ác. Họ tin ở thuyết Luân Hồi. Họ không tin là chết là hết, hết chuyện. Quả ác sẽ thể hiện ở đời này hay đời sau.



Muốn tránh quả ác thì có một cách là phải biết Tạ Lỗi, nói lời xin lỗi nạn nhân của mình, phải biết thành tâm ăn năn hối hận với chính mình, tự nguyện sẽ không còn tái phạm.



Truyện kể rằng:



"Ngày xưa dưới thời Vua Lương Võ Đế. Nhà Vua có một bà Hoàng hậu tên là Hy Thị được nhà vua rất yêu thương sủng aí. Hoàng hậu lại là một người rất ác độc, chết đi bị sa xuống Địa ngục, chịu quả báo thành rắn mãng xà. Hoàng hậu rất ăn năn hối hận, khổ sở quá bèn về báo mộng cho Vua Lương Võ Đế xin giúp đỡ. Nhà Vua rất thương vợ, được sự giúp đỡ của Thiền sư Chí Công, một vị cao tăng đắc đạo, đã soạn ra bài Sám, lập trai đàn suốt mười ngày, thay mặt vợ, làm lễ sám hối để giải trừ tiêu tan quả báo. Do đó bà Hoàng Hậu đã thoát khỏi Địa Ngục, siêu thăng về cung trời Đao Lợi".



Kể từ đó, trong Phật giáo, tại các chùa chiền, người ta hay tổ chức Sám Hối theo nghi thức thời Vua Lương Võ Đế, gọi là Lương Hoàng Sám.



Hiện nay, trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, một vị tu sĩ là thầy Hằng Trường thuộc giòng Thiền Quy Ngưỡng của cố Hòa Thượng Tuyên Hóa, thỉnh thoảng vẫn tổ chức Lương Hoàng Sám, hoặc Quán Âm Sám, kéo dài gần một tuần, để các Phật tử cũng như tu sĩ có dịp cùng nhau ngồi lại cầu xin sám hối những tội lỗi, lầm lỡ đã làm, tự mình hứa với mình sẽ không tái phạm, để được làm người tốt cho đời này và đời sau.



Không những thế, ngay tại một số chùa chiền, thiền đường của dòng Thiền Trúc Lâm, hằng tuần đều có tổ chức lể Sám Hối cho các con Phật, tăng cũng như tục, để cầu Sám Hối, trước sự chứng minh của chư Phật và chư Bồ Tát.



Nếu Tạ Ơn là một truyền tống rất hay rất đẹp của người Hoa Kỳ, thì phải chăng Tạ Lỗi và Sám Hối cũng là một truyền thống rất hay, rất đẹp nên theo?



Tổng thống Hoa Kỳ đương thời Barack Obama, một vị Tổng thống được nhiều người coi là có tính tình nhân hậu, ngày 15 tháng 6, 2009 đã mời một số lãnh tụ các bộ tộc Da Đỏ vào tòa Bạch Ốc để ông nói chuyện. Trong buổi nói chuyện ông đã tỏ ý quyết tâm đổi ngược lại đường lối của chính phủ liên bang cũ, đã quên và coi thường các bộ lạc Da Đỏ. Ông cũng nói là ông rất hiểu rằng những vị đại diện Da Đỏ đến đây hôm nay đã phải "có một lòng tin tưởng vượt bực" khi họ nghĩ tới những sự dối trá không tuân thủ những hiệp ước đã ký kết với các bộ lạc Da Đỏ trước đây của chính phủ Hoa Kỳ.



Tổng thống Obama đã biết rằng trong nhiều trại tập trung "Indian Reservations" tình trạng nghèo đói rất thê thảm. 80 phần trăm dân Do Đỏ không có công ăn việc làm. Bởi vậy ông thấy ông phải làm một điều gì của một người có lương tâm.



Trong chính phủ Obama hiện đã có hai vị gốc Da Đỏ tham gia chánh quyền . Một là cô Kimberly Teehee, thuộc bộ lạc Cherokees. Cô Teehee, tiến sĩ Luật khoa Đại học Iowa, hiện là cố vấn trưởng trong ủy ban quốc gia về người Mỹ gốc Da Đỏ.



Hai là bác sĩ Yvette Roubideaux, 46 tuổi, trước làm giáo sư Đại Học Arizona, nay làm giám đốc Da Đỏ Y Tế Sự Vụ, trong Bộ Y Tế và An Sinh Quốc Gia. Bác sĩ Roubideaux là thành viên của bộ tộc Da Đỏ Rosebud Sioux.



Âu cũng là niềm an ủi cho một dân tộc xấu số.



________________________________________________



Chú thích


(1) Ông này tên là Metacomet, còn có tên Anh là King Philip

(2) Hickory là một thứ gỗ rất cứng, đanh mặt rất khó làm gẫy, giống như gỗ lim, gọi là cây Bồ Đào Mỹ.

(3) Nguyên văn tiếng Anh: "We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable rights, that among these are life, liberty and the pursuit of happiness".


Đào Viên

Blog Vườn Đào Kết Bạn

Thứ tư, 29 Tháng mười hai 2010


Nước Mỹ Và Thân Phận Người Da Đỏ

Trương Tấn Thành



Tác giả Trương Tấn Thành, ngụ tại Lacey, WA. Tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, hiện là trợ giáo cho trường dạy người da đỏ và giảng viên parttime cho Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Sau đây là một bài viết đặc biệt của ông.

***

Ở xứ Mỹ, mỗi khi có một người da đen hay da vàng trở thành nạn nhân của sự kỳ thị chủng tộc, báo chí và mọi người đều công khai phẫn nộ nhưng trước sự kỳ thị còn tàn nhẫn hơn gấp trăm lần đối với người Da Đỏ thì từ quá lâu rồi, chỉ thấy sự bình thản làm ngơ.

Tân Định, khoảng năm 1957


- Tuần này ba dẫn con đi xem phim cao bồi đánh với mọi da đỏ nghe ba.


Tôi còn nhớ rõ lúc nào tôi cũng khoái loại phim "cao bồi đánh với mọi da đỏ" này. Mỗi lần bên da đỏ càng bị bắn ngã xuống ngựa là tôi lại thấy mình càng muốn làm "cao bồi" chừng nấy! Tôi ưa hỏi ba tôi:


- Tụi da đỏ sao ác quá vậy ba" Bị cao bồi bắn chết là phải!


….Lacey năm 1998


Đại học The Evergreen State College, Olympia, tiểu bang Washington State. Ngày khai giảng chương trình Cao Học Giáo Dục đào tạo giáo viên cho người Da Đỏ. Tiếng của bà giáo sư người Da đỏ trong bài diễn văn mở đầu chương trình học tôi vẫn còn nhớ:


"Sự bóc lột môi trường và chính sách vô nhân đạo nhằm tiêu diệt, đồng hóa và lấy đi quyền sở hữu đất đai của các dân tộc bản xứ người Da Đỏ có thể bị xem là tội ác lớn nhất mà con người gây ra cho con người. Thật là khó mà hiểu nổi một cấu trúc chính phủ dân chủ như vậy có thể gây sự bất công cho các quốc gia của bộ tộc bản xứ. Lý tưởng "mọi người đều bình đẳng" không được tôn trọng bởi chính phủ Hoa Kỳ trong trường hợp mang tính cách lịch sử này".


Cho tới khi tôi ghi danh theo dự chương trình đào tạo giáo viên cho người da đỏ này thì trong trí của tôi "mọi da đỏ vẫn là mọi da đỏ". Đã dùng từ "mọi" thì không có chút gì "văn minh" trong đó. Dân da đỏ đối với tôi là những gì man rợ, tàn ác, giết người không gớm tay, ăn lông ở lỗ. Tôi còn nhớ những cảnh trong phim cao bồi chiến sĩ da đỏ lột cả da đầu của dân da trắng để làm chiếm lợi phẩm! (sau này khi đi sâu vào chương trình tôi được biết là có những người da trắng còn xỏ sâu lỗ tai của người da đỏ để phô trương chiến công của mình).


Thật tình thì tôi theo học chương trình này vì sau khi học bốn năm ra tôi tìm không ra việc nên đành phải ráng học thêm để mượn fiancial aid và có work study mà sống và mong sau này có cái bằng không chừng dễ kiếm được việc làm hơn. Nhưng càng đi sâu vào chương trình và được học, hiểu thêm về người da đỏ và thân phận của họ tôi mới thấy là họ quả thật là đáng thương và nhất là đáng trọng.


Người da đỏ không chấp nhận từ "Indians" mà người Mỹ gán cho họ. Họ muốn được gọi là "Native Americans" người bản địa của Châu Mỹ. Columbus khi "khám phá" ra Châu Mỹ (điều này vẫn còn là một vấn đề bàn cãi về lịch sử) thì tưởng đây là xứ India (Ấn Độ) nên gọi người bản địa ở đây là Indians. Còn người da đỏ thì đã hiện diện ở Châu Mỹ này có lẽ cả trăm năm trước khi Columbus đặt chân tới!


Người da đỏ cũng tự hào với những bộ tộc của mình ở trên đất Mỹ và dùng danh xưng là "Native Nations" (các quốc gia bản địa) chớ không phải từ "tribes", những bộ tộc bán khai không có tổ chức về cai trị. Người da đỏ tuy không có "một lối sống văn minh" theo quan niệm của người da trắng nhưng họ có nền văn minh riêng của họ và lối sống theo những giá trị tinh thần riêng và bối cảnh riêng. Nếu ta nghĩ cho kỹ thì nền văn minh hiện tại với đầy dẫy những tội ác, bạo động, tôn thờ vật chất thì chúng ta nên đặt câu hỏi "Chúng ta có đang sống ở một xã hội văn minh thật sự không".


Người da đỏ, đặc biệt là miền Tây Bắc nước Mỹ, sống theo lối cộng sinh và cá nhân phục tùng đa số và phụ thuộc vào tập thể.


Quyền hành không lan rộng ra khỏi bộ tộc trong đó "tộc trưởng" không có quyền hành tuyệt đối như ta tưởng. Trật tự xã hội của người da đỏ được phân thành hàng "cao quý" và "hèn hạ" nhưng không phải là xã hội thuần giai cấp. Tuy quyền lãnh tụ là thế truyền nhưng quyền hành vẫn có thể có được nhờ uy tín. Bộ tộc hình thành với nhiều gia tộc có thân nhân ở các bộ tộc khác. Sự phân biệt quà tặng chứng tỏ giai cấp xã hội và quyền hành về chính trị. Càng cho đi nhiều của cải, càng chứng tỏ được là có nhiều danh vị và quyền lực. Tuy lệ cho đi tiêu biểu nhất của người da đỏ là tục "potlatch". Trong một buổi lễ long trọng, người chủ tặng quà cho những khách được long trọng đón mời.


Theo tác giả Suttles và Jonaitis trong quyển "History of the asset in Ethnology" thì đối với người da trắng tục potlatch là một sự phô trương phù phiếm. Nhưng trong thực tế, tục này có hiệu lực tạo nên nghĩa vụ và nới rộng sự liên hệ xã hội kết nối con người với nhau, bảo vệ họ chống lại kẻ thù và sự nghèo đói. Tục potlatch hàm chứa trong nó ý nghĩa "bảo tồn môi trường" khi đem so sánh với cách thức đi tàn phá thiên nhiên để tìm nguồn tài vật của người da trắng.


Đối với người da đỏ, giữa con người và thiên nhiên có một mối liên hệ chặt chẽ về văn hóa, tâm linh và vật chất, giữa tình gia thuần và tính hoang dã. Thế giới của họ là một thế giới tổng thể, bái vật, của những linh hồn có thể vừa độc ác vừa vừa thuần thiện. Ý niệm của người da đỏ về của cải là của sự nối kết giữa người và thiên nhiên. Họ không xem thiên nhiên như là món hàng sở hữu để thương mại. Thú vật, cá tôm, cây trái có thể được dùng nhưng không được xem đó là "vật" hay "tài nguyên" mà cá nhân lấy làm sở hữu. Kẻ nào lạm dụng và tàn phá thiên nhiên sẽ bị ghê tởm và chịu hình phạt bởi các thần linh trong trời đất. Chỉ trong vòng hơn hai thế kỷ mà người da trắng đã thay đổi và làm tổn hại tận gốc tất cả mọi giá trị vật chất lẫn tinh thần đó của người da đỏ.


Cho đến ngày cuối của chương trình về mặt chuyên môn thì tôi không biết mình hấp thụ được ở mức nào nhưng về mặt cảm thông với thân phận của người da đỏ của mình thì tôi phải nói thật là sâu đậm.


Nếu "một hình ảnh có hiệu lực bằng ngàn lời nói" thì tôi phải nhận là sau khi xem cuốn phim "Where the Spirits Live" nói về chế độ đồng hóa người da đỏ của chính quyền Mỹ bằng chính sách thành lập các trường nội trú ép buộc trẻ con da đỏ thời đó, tôi thấy thật không khác gì các trại tù cải tạo của cộng sản đối với người của chế độ miền Nam ta.


Người da đỏ khoảng đầu thế kỷ mười chín bị tập trung vào những khu dành riêng cho họ gọi là "reservation". Trong đó người da đỏ bị lột bỏ tất cả y phục cổ truyền của họ, bị cắt tóc ngắn và tập ăn muỗng nĩa, nhận tên mới theo lối người da trắng, phải học tiếng Anh và học kinh thánh. Kỷ luật trong trại thật là khắc nghiệt. Hình phạt biệt giam, bỏ đói là chuyện bình thường. Số người bị đói ăn vì bị chận bớt khẩu phần và bệnh tật vì thiếu thuốc men và nhiều người bị chết vì bệnh, nhất là bệnh lao. Bài hát về thân phận của người da đỏ trong các trại tập trung của thập niên sáu mươi hiện vẫn còn đang thịnh hành "Cherokee People" chân tả về thân phận của bộ tộc Cherokee, nói lên được tất cả sự tàn nhẫn và thâm độc của một chính sách đồng hóa đối với người da đỏ:


"Họ bắt chúng tôi nhốt vào những reservations, họ tước đoạt đi lối sống quen dùng tên ná, cấm chúng tôi nói tiếng của mình để học tiếng Anh. Họ không cho chúng tôi kết chuỗi, đan lát (thủ công nghệ dân gian của người da đỏ) để đeo những thứ nữ trang xa lạ. Nhưng tuy chúng tôi bị buộc phải mặc áo sơ mi và thắt cà vạt nhưng trong thâm tâm chúng tôi vẫn là những dân da đỏ, sống kiêu hùng và chết cũng kiêu hùng."


Một trong cách để văn minh hóa người da đỏ là dạy tiếng Anh và cưỡng ép một nền giáo dục "trắng" cho trẻ da đỏ. Các vị bô lão nhận ra rất sớm là sự giáo dục ép buộc đó chỉ cung cấp cho trẻ của họ những kỹ năng không thích hợp với lối sống cổ truyền của tổ phụ người da đỏ. Những đứa được thả về với cha mẹ của chúng bỏ ngay đi cái học bắt buộc đó và trở lại với ngôn ngữ và lối sống của bộ tộc mình.


Chính vì sự vô hiệu quả đó mà chính phủ Mỹ đã thành lập những trường nội trú "boarding schools" do người da trắng quản trị và dùng cả võ lực để bắt trẻ con da đỏ vào trường. Chúng ta hãy nghe một thành viên của bộ tộc Blackfoot tả lại kinh nghiệm của mình khi bị bắt đi vào các trường nội trú:


"Bọn lính tới lùa chúng tôi lại, không đứa nào chịu đi, cha mẹ chúng tôi cũng không muốn chúng tôi đi. Chúng tôi khóc lóc vì đây là lần đầu bị tách rời khỏi cha mẹ mình. Đồ đạc chúng tôi mang theo, kể cả cái túi đựng thuốc men mẹ chúng tôi cho để phòng bệnh cũng bị lấy đem ra chất đống và đốt.”


Còn gì đau lòng cho bằng cảnh chia lìa mẫu tử này và thật đáng kinh khiếp cho cái nhẫn tâm của chính sách thâm độc không kém gì các "trường cải tạo" nhằm giết lần giết mòn người bị giam giữ.


Năm 1832 sau khi thành lập các reservations để nhốt người da đỏ, chính phủ Mỹ thành lập “Văn Phòng Đặc Trách về người da đỏ” và gởi các đại diện đến các trại để thi hành các luật lệ và phân phối thực phẩm cùng các nhu yếu phẩm khác cho các bộ tộc. Những viên chức da trắng này đã tham nhũng ăn chận và mua những thực phẩm hư thối, phẩm chất tồi tệ cho người da đỏ bị nhốt trong trại.


Nhằm mục đích hoán cải người da đỏ sang đạo Cơ Đốc, chính quyền thi hành chính sách truyền đạo cưỡng bức nhưng không mấy thành công. Cuối cùng, chính phủ quyết định cấm tất cả việc thi hành các hình thức tôn giáo cổ truyền của người da đỏ trong trường.


Năm 1883, bộ trưởng bộ nội địa Henry M Teller thành lập "tòa án xử tội phạm da đỏ" về tôn giáo. Theo luật này thì bất cứ người da đỏ nào thực hành tôn giáo của tổ tiên họ sẽ bị hình phạt là cắt bỏ khẩu phần và bị bỏ vào nhà giam. Chính trong thời điểm này, một tôn giáo mới của người da đỏ có tên là Ghost Dance (Điệu nhảy ma quái) đã lan rộng trong các bộ tộc Sioux ở miền Tây. Điệu nhảy này do người cầm đầu là lãnh đạo tôn giáo người da đỏ tên Wovoka. Ông hứa với người da đỏ là với điệu vũ này và sự thường xuyên nhảy múa sẽ tiêu diệt được những người da trắng đã chiếm đất đai của mình. Điều này làm cho các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ lo lắng vô cùng. Họ sợ rằng tín đồ đạo sẽ nổi lên chống lại người da trắng. Nỗi lo sợ này đã dẫn đến một cuộc tàn sát người da đỏ thảm khốc nhất trong lịch sử Mỹ.


Đó là cuộc thảm sát ở Wounded Knee ngày 29 tháng Chạp năm 1890, một nhóm 106 chiến sĩ của bộ tộc Sioux khoảng ba trăm năm chục người đóng trại ở Wounded Knee bị quân đội Mỹ ra lệnh phải giao nạp súng. Những chiến sĩ này là tín đồ của đạo Ghost Dance. Trong khi lính Mỹ lục soát hành trang của các chiến sĩ da đỏ thì bất ngờ có tiếng súng nổ. Ngòi pháo đã châm lửa. Hai bên giao chiến với nhau và bắt đầu cho cuộc thảm sát người da đỏ thê thảm tột cùng. Lính Mỹ bắn xối xả vào các chiến sĩ này và gia đình vợ con, cha mẹ của họ.


Khi trận chiến ngưng thì có chừng ba trăm nam phụ lão ấu người da đỏ bị sát hại, phần đông là đàn bà, trẻ con và các bô lão da đỏ. Đây phải nói là một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử của người da đỏ. Nếp sống cổ truyền của họ bị cố tình thiêu hủy, giờ lại bị thảm sát không nương tay. Nhiều người da đỏ bị mất hẳn tinh thần, họ không còn sống được cuộc sống bình thường như trước khi người da trắng đến. Họ bị ép buộc bằng mọi cách phải từ bỏ tất cả những gì họ xem là thiêng liêng. Vậy mà chính phủ Mỹ vẫn còn tìm mọi cách để chiếm thêm đất đai của họ.


Đến cuối những năm 1800 thì phần lớn đất đai của người da đỏ đã bị lấy mất. Dù vậy, chính trị gia ở miền Tây nước Mỹ vẫn muốn chiếm thêm đất của người da đỏ cho dân da trắng đang tìm đất để định cư. Theo đạo luật General Allotment Act năm 1887 thì các khu đất bao la dành cho người da đỏ bị chia thành lô. Mỗi tộc trưởng được chia cho 160 acres (1 acre bằng 0.4047 mẫu tây) và mỗi người trên mười tám tuổi được 80 acres. Chính phủ Mỹ nắm bằng khoán đất trong thời gian là hai mươi lăm năm. Sau đó thuộc về quyền sở hữu hoàn toàn của chủ đất.


Trên thực tế thì lối sống du mục của người da đỏ không thể bị giới hạn trong lô đất chia đó. Gia súc họ nuôi cần phải được lùa đi kiếm ăn ở những đồng cỏ gần sông suối mà lắm khi lô đất chia cho họ chỉ là khô cằn và sỏi đá. Để sinh tồn họ phải cho dân định cư da trắng mướn lại đất và từ từ phần đất của họ bị chiếm và lôi kéo thêm nhiều dân định cư từ xa kéo ào tới. Chẳng những họ bị tước đoạt đi đất đai mà cả quyền sở hữu những lâm hải sản nằm trên phần đất của họ cũng vậy. Trường hợp điển hình nhất là sự tước đoạt quyền đánh cá của bộ tộc Billy Franks thuộc vùng Old Nisqually, tại exit thuộc liên xa lộ 1-5 thuộc tiểu bang Washington ngay chính nơi tôi đang phục vụ cho trường Wa He Lut, trường dành riêng cho trẻ da đỏ.


Theo sử liệu của Hội Sinh Tồn Người Da Đỏ (survival of American Indians Association) thì năm 1855 thống đốc tiểu bang Washington Issac Stevens có hứa với tộc trưởng Billy Franks của khu reservation ở Nisqually là:


"Ngày nào sông còn chảy (as long as the rivers run) sóng còn vỗ và nắng trời còn chiếu, các bạn (bộ tộc của cụ Franks) sẽ còn giữ đất đai, cá tôm và thú rừng để ăn và cây gỗ để làm nơi trú ngụ."


Nhưng thực thế thì sao?


Khu Reservation ở Nisqually rộng 205 acres được chính phủ Mỹ cấp cho cụ Bill Franks năm 1854 nhưng sau đó bị chiếm lấy để thành lập trại Fort Lewis chỉ còn chừa 6 mẫu cho bà Maiselles Bridges, hiện nay có tên là Franks Landing. Cụ bà M. Bridges có ba người con gái, tên Mỹ là: Alison, Suzette và Valerie, mảnh đất này nằm cạnh ngay con sông Nisqually lịch sử nơi cụ tổ B. Franks cặp xuồng vào bến để gây dựng tộc của mình nên gọi là Bến đã landing của Franks. Nơi đây gia tộc Franks mùa hè làm rẫy, mùa thu đánh cá salmon để sinh sống. Nhưng sau đó Bộ ngư Nghiệp của Mỹ dùng Đạo Luật Bảo Tồn Môi Trường (Conservation Act) để cấm gia tộc Franks đánh cá ngay trên phần đất của mình!


Năm 1964 tổ chức vì sự sống còn của người Da đỏ đã tổ chức biểu tình lớn lao ngay dinh thống đốc tiểu bang Washington để tranh đấu cho quyền đánh cá của các bộ tộc từ Nisqually cho tới Tacoma.


Năm 1968 tổ chức này có thanh niên võ trang để bảo vệ ghe và lưới đánh cá, nếu không sẽ bị chánh quyền tháo gỡ, tịch thu. Sau đó họ đã tổ chức đánh cá salmon ngay ở cầu downtown Olympia để công chúng được chứng kiến cảnh đàn áp của chánh quyền.


Thật vậy, cảnh sát tiểu bang đã ào tới đánh đập và bắt gần hết nhóm người trong gia tộc Franks ngay trước công chúng và báo chí chỉ trừ bà Maiselles và con gái. Sau đó, một hôm trong khi hai mẹ con bà đang lưới cá gần nhà thì từ bên kia bờ của trại Fort Lewis lính tiểu bang cho ghe máy chạy qua bắt lấy hai người qua bên bờ bên này. Bà Maisells không chịu buông lưới nên bị cảnh sát lôi sền sệt lên bờ tống vào xe chở đi giam.


Trong một cuộc biểu tình lớn xảy ra ở dinh Thống đốc, cô Alison đã gào thét thảm thiết về thân phận bi thảm của gia đình mình rằng:


- Đây là một xã hội "người ăn thịt người" xin mọi người biết cho rằng chính quyền đã giam giữ gia tộc tôi và cướp đi phương tiện sinh sống để sống còn ngay trên phần đất của chúng tôi!


Cô con gái Út của bà Maiselles là Valerie đã không ngừng tranh đấu bằng mọi phương cách, kể cả phương cách kết hợp với các bộ tộc khác và người bạn ở Alaska bằng phương thức bạo động. Một đêm nọ trên đường về gia tộc, cô đã bị mất tích và sau đó xác của cô tìm thấy được dưới dòng sông Nisqually. Đám tang của cô là một sự đoàn kết của nhiều bộ tộc, kể cả các bộ tộc ở Canada xuống và họ thề rằng sẽ tiếp tục tranh đấu cho sự sống còn của người da đỏ:


"Ngày nào dòng sông này còn chảy, ngày ấy chúng tôi sẽ chiến đấu cho Valerie và cho sự sống còn của chúng tôi".


Tôi xin đoan chắc rằng bất cứ ai khi xem cuốn phim tài liệu này đều thấy vô cùng đau buồn và cực kỳ phẫn nộ cho sự đàn áp của chánh quyền đối với gia tộc của cụ Billy Franks và người da đỏ nói chung.


Sau đó để tránh sự kỳ thị của các trẻ con da trắng đối với trẻ con người da đỏ các trường công, năm 1974 bà Maiselles đã đứng ra thành lập trường Wa He Lut, tên một dũng sĩ da đỏ ở Nisqually, dành riêng cho người da đỏ là trường tôi đang phục vụ hiện giờ.


Trường bắt đầu từ khởi thủy là một căn nhà chòi cho đến sau trận lụt năm 1996 đã được văn phòng đặc vụ người da đỏ tài trợ trên năm triệu đôla và tiền lời từ tiệm bán thuốc lá của tộc Franks để trường có được một kiến trúc đồ sộ, tiện nghi như ngày hôm nay.


Cảm thương với thân phận và ý hướng đứng đắn của Ban Giám Hiệu nhà trường, trong chuyến về thăm nhà tôi đã nhờ một anh bạn họa sĩ họa bức chân dung của dũng sĩ Wa He Lut để tặng trường -hiện đang treo trên tường trước cửa chính vào trường- để tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ.


Người da đỏ đã cam chịu đau khổ vô vàn và ảnh hưởng tai hại sự áp bức vẫn còn kéo dài tới ngày hôm nay. Sự chiếm đoạt đất đai và bóc lột người là nguyên nhân chính đẩy người da đỏ vào chỗ nghèo đói, tự hủy và suy tàn về văn hóa. Người da đỏ đã bị tước đoạt sinh lực và những gì quý giá của họ: những giá trị tinh thần và môi trường họ sinh sống.Văn hóa và lối sống của họ bị dồn vào thế phải tự huỷ. Sự áp bức đã lấy đi môi trường thiên nhiên nuôi sống họ. Chúng ta hãy nghe nhận xét về nhân quả của sự áp bức này của tác giả Robin Cody của một tờ báo ở Portland, Oregan:


"Nếu thiên nhiên là phương cách sống còn thì người da đỏ như là con cá bị vớt ra khỏi nước. Họ phải chịu sống một đời sống bị tha hóa, bị tước đoạt về mặt chánh trị, văn hóa và nhất là về tâm linh. Sự vô trách nhiệm của chính phủ Mỹ đối với họ báo trước cho sự hủy diệt về con người và hậu quả thảm khốc cho sự toàn vẹn của môi trường đầy tràn những di sản của người da đỏ. Nói tóm lại, sự vô trách nhiệm này về đất đai và con người chắc chắn sẽ dẫn đến một chung cuộc thê thảm và kẻ hứng chịu chẳng ai khác hơn là tất cả chúng ta".


Với sức mạnh dân chủ và những nguyên tắc pháp lý ngày càng được phát huy trên đất Mỹ, người Mỹ da đỏ lâu nay đã phần nào dễ thở hơn. Nhưng hậu quả những chính sách tàn tệ mà họ phải chịu đựng hiện vẫn còn kéo dài.


Khi nước Mỹ tuyên chiến với phát xít Nhật, những kiều dân Nhật tại Mỹ đã bị lùa vào trại tập trung và đối xử tàn tệ. Nửa thế kỷ sau, những nạn nhân người Mỹ gốc Nhật đã nhận được lời chính thức xin lỗi và sự bồi thường từ chính quyền Mỹ. Nhưng, cho tới nay, chính quyền Mỹ vẫn chưa thấy có lời xin lỗi chính thức nào về những chính sách tàn tệ đối với người da đỏ, -những người Mỹ bản địa hảo tâm từng góp quà cho Lễ Tạ Ơn đầu tiên tại lục địa này.


Riêng đối với tôi, một thân phận nhỏ bé và yếu thế trong cộng đồng quá to lớn và đầy sức mạnh của kim tiền và thế lực tại xứ Mỹ này, tôi thực sự thương cảm với số phận của người da đỏ và nhận ra rằng nếu chúng ta không biết đoàn kết và phục vụ cho quyền lợi chung của cộng đồng mình thì số phận bi thương của người da đỏ biết đâu lại chẳng là của chính mình".


Dù sao, tôi tin chắc rằng điều đó sẽ không thể đến với chúng ta, phải không các bạn?


Trương Tấn Thành
-https://vvnm.vietbao.com


Cuộc sống "tôn thờ thiên nhiên" của người da đỏ
cách đây 100 năm



Cuộc sống quý trọng thiên nhiên của người da đỏ cho ta thấy cách sống mà con người thời hiện đại đáng phải học tập.


Vào năm 1906, nhiếp ảnh gia người Mỹ - Edward S. Curtis đã thực hiện một bộ ảnh về các bộ tộc người da đỏ của nước Mỹ và văn hóa của họ. Kết thúc chuyến hành trình của mình, ông đã cho ra đời một bộ tác phẩm gồm 20 tập với hơn 1.500 bức ảnh và tài liệu ghi lại lịch sử, cuộc sống, phong tục tập quán của gần 80 bộ tộc người da đỏ khác nhau trên khắp nước Mỹ.

Chúng ta hãy cùng tìm hiểu thêm về các bộ tộc người da đỏ của Mỹ thông qua một phần bộ ảnh của ông.



Người da đỏ là cộng đồng người dân bản địa sống tại Hoa Kỳ từ hàng nghìn thậm chí hàng triệu năm trước. Họ là những người dân du mục được cho là đến từ châu Á khoảng hơn 12.000 năm trước đây, thông qua “cầu nối” là vùng đất Alaska hiện nay. Theo thống kê vào đầu thế kỉ XX, có khoảng gần 80 bộ tộc người da đỏ khác nhau sinh sống trên khắp nước Mỹ.






Trên thực tế, nhiều học giả ước tính rằng, vào thời điểm mà những nhà thám hiểm châu Âu tìm ra lục địa Châu Mỹ, tại đây đã có trên 50 triệu người bản địa sinh sống.


Trong số đó, khoảng 10 triệu người sống tại vùng đất sau này được đặt tên là Hoa Kỳ. Đó chính là những bộ tộc người da đỏ đầu tiên. Sau hàng thế kỉ sinh sống thành các bộ tộc nhỏ, những người da đỏ đã hình thành cộng đồng riêng, họ sống bằng nghề săn bắt hái lượm và sống hòa hợp với thiên nhiên.







Tuy sau này đều được gọi bằng cái tên chung là “người da đỏ” nhưng từng bộ tộc lại có các nét văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ và trang phục khác nhau. Bên cạnh những điểm khác biệt, các bộ tộc này cũng chia sẻ một số đặc điểm chung như cấu trúc xã hội và nét văn hoá đặc trưng.







Văn hóa của những người Mỹ bản địa có lịch sử đến hàng trăm năm và được phát triển cùng với thiên nhiên. Mọi yếu tố trong cuộc sống người dân da đỏ đều được dựa trên sự phát triển của Trái đất.

Các bộ tộc người da đỏ tôn thờ linh hồn của các loài động vật như những vị thần. Tuy nhiên họ vẫn giết thịt chúng để làm thực phẩm và quần áo. Họ sẽ không bao giờ bỏ phí bất cứ phần nào của các loài động vật, họ ăn thịt, dùng lông làm áo, sử dụng da làm trống và xương để chế tạo nên các công cụ, vũ khí.




Những người da đỏ tin rằng, linh hồn các loài động vật sẽ sống mãi cùng linh hồn bộ lạc. Họ chạm khắc những "totem" hình mặt thú trên khúc gỗ để biểu trưng cho linh hồn người thân trong gia đình hay nhân vật quan trọng trong bộ tộc.


Trong nền văn hoá của người Mỹ bản địa, người ta tin rằng mỗi người đều mang linh hồn của một loài động vật nhất định. Khi họ chết đi, linh hồn của họ sẽ sống trong con vật đó.




Sống bằng săn bắt và hái lượm đơn thuần, những người dân da đỏ rất tôn trọng tự nhiên. Họ coi thiên nhiên là một món quà của thượng đế và luôn quan niệm rằng, cần phải tôn kính và quý trọng thiên nhiên.


Cuộc sống của họ thường xoay quanh gia đình. Họ sống một cuộc sống hài hòa, yên bình cẩn thận, hạn chế tối đa việc đổ chất thải ra môi trường.




Cuộc sống yên bình của những người da đỏ kết thúc khi các nhà thám hiểm châu Âu đi đầu là Columbus phát hiện ra “vùng đất mới” này. Những “nhà thám hiểm” này đuổi những người bản địa ra khỏi nơi ở của họ và chiếm đất để xây nhiều khu đô thị mới.


Nhiều cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra nhưng kết quả là, diện tích sống của các bộ tộc người da đỏ ngày càng bị thu hẹp, nhiều bộ tộc thậm chí đã biến mất.





Sau nhiều năm đấu tranh, cuối cùng chính phủ Mỹ cũng nhận ra tầm quan trọng của những bộ tộc người da đỏ. Nhiều bảo tàng được dựng lên và hệ thống giáo dục cũng đưa lịch sử về các bộ tộc người Mỹ bản địa vào giảng dạy như một cách để bày tỏ sự tôn trọng đến những người dân bản địa này.





Ngày nay, một số bộ tộc người da đỏ vẫn còn sinh sống ở một số vùng nhất định của Mỹ. Dù số lượng không nhiều nhưng những người dân da đỏ vẫn mang trên mình niềm tự hào về nguồn gốc và sức sống của bộ tộc mình.


Năm 1854, Tổng thống thứ 14 của nước Mỹ là Franklin Pierce muốn người da đỏ nhượng bớt đất cho người da trắng. Tù trưởng Xi-át-tơn (Seattle) của bộ lạc da đỏ Duwamish và Supuamish đã trả lời với người đại diện của Tổng thống Hoa Kì. Bài trả lời được Tiến sĩ Henry A.Smith ghi và dịch ra tiếng Anh.

Bức thư được coi là văn kiện hay nhất xưa nay nói về mối quan hệ thiêng liêng của các tộc người thiểu số đối với đất đai quê hương ngàn đời của họ và quan niệm thâm thúy của họ về môi trường sống của con người cũng như tham vọng thôn tính của một đế quốc.


"Bầu trời này, nguồn sưởi ấm đất đai của chúng tôi làm sao Ngài có thể mua bán nổi? Ý nghĩ sao mà lạ lùng đối với chúng tôi. Nếu chúng tôi không có bầu không khí trong lành này và mặt nước long lanh, thì làm sao Ngài có thể mua nổi?


Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong ký ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó ký ức của người da đỏ.


Khi người da trắng chết đi, họ thường dạo chơi giữa các vì sao và quên đi đất nước họ sinh ra. Còn chúng tôi, chúng tôi chẳng thể quên được mảnh đất tươi đẹp này. Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều cùng chung một gia đình.


Ấy thế mà vị thủ lĩnh vĩ đại ở Washington lại ngỏ ý muốn mua mảnh đất này của chúng tôi. Họ đòi hỏi quá nhiều và hứa hẹn dành cho chúng tôi một nơi sống thoải mái, và rồi họ sẽ là người cha chăn dắt và chúng tôi sẽ trở thành những đứa con của họ. Vậy, chúng tôi phải cân nhắc ý muốn đất đai của họ. Nhưng, quả không phải việc giản đơn, bởi lẽ mảnh đất này đối với chúng tôi là thiêng liêng.


Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mảnh đất này cho Ngài, Ngài phải nhớ rằng, Ngài phải dạy bảo con cháu rằng, mảnh đất này là thiêng liêng và những tia sáng chói chang phản chiếu từ mặt hồ trong vắt sẽ nói lên cái gì đó về ký ức của người da đỏ. Tiếng thì thầm của dòng nước chính là tiếng nói của cha ông chúng tôi.


Những dòng sông là người anh em của chúng tôi, làm chúng tôi nguôi đi những cơn khát. Những dòng sông chuyên chở những con thuyền và nuôi lớn con cháu chúng tôi... Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ dạy bảo con cháu Ngài những dòng sông là người anh, người em của chúng tôi và các Ngài từ nay trở đi phải đối xử tử tế với những dòng sông như Ngài đã đối xử với anh em Ngài.


Tôi biết người da trắng không hiểu cách sống của chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất khác, bởi lẽ họ là kẻ xa lạ, và trong đêm tối, họ lấy đi từ lòng đất những gì họ cần. Mảnh đất này đâu phải là những người anh em của họ, mảnh đất này là kẻ thù của họ và khi đã chinh phục được, thì họ sẽ lấn tới. Mồ mả tổ tiên của họ, họ còn quên và họ cũng chẳng cần tới dòng tộc của họ. Họ cư xử với mẹ đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước đoạt được, rồi bán đi như những con cừu và những hạt kim cương sáng ngời. Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.


Tôi biết, cách sống của chúng tôi khác với cách sống của Ngài. Cảnh đẹp nơi thành phố của Ngài làm nhức nhối con mắt người da đỏ. Có lẽ, người da đỏ hoang dã và tăm tối chăng?


Ở thành phố của người da trắng, chẳng có nơi nào yên tĩnh cả, chẳng có nơi nào là nghe được tiếng lá cây lay động vào mùa xuân hay tiếng vỗ cánh của côn trùng. Nếu có nghe thấy thì đó cũng chỉ là những tiếng ồn ào lăng mạ trong tai. Và cái gì sẽ xảy ra đối với cuộc sống, nếu con người không nghe được âm thanh lẻ loi của chú chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của những chú ếch ban đêm bên hồ? Tôi là người da đỏ, tôi thật không hiểu nổi điều đó. Người Anh-điêng chúng tôi ưa những âm thanh êm ái của những cơn gió thoảng qua trên mặt hồ, được nước mưa gội rửa và thấm đượm hương thơm của phấn thông.


Không khí quả là quý quá đối với người da đỏ, bởi lẽ bầu không khí này là của chung, muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Người da trắng cũng cùng chia sẻ, hít thở bầu không khí đó. Nhưng hình như người da trắng chẳng để ý gì đến nó. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ rằng không khí đối với chúng tôi là vô cùng quý giá và phải chia sẻ linh hồn với tất cả cuộc sống mà không khí ban cho. Ngọn gió mang lại hơi thở đầu tiên của cha ông chúng tôi và cũng nhận lại hơi thở cuối cùng của họ. Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng cỏ.


Như vậy, chúng tôi mới cân nhắc những ý muốn mua mảnh đất này của Ngài. Nếu có quyết định chấp nhận yêu cầu của Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điều kiện - đó là, người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh em.


Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu bất cứ một cách sống nào khác. Tôi đã chứng kiến cả ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng trơ trọi vì bị người da trắng bắn mỗi khi có đoàn tàu chạy qua. Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn nhiều con trâu rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống. Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy đến với con thú thì cũng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc.


Ngài phải dạy cho con cháu rằng mảnh đất dưới chân chúng là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phải kính trọng đất đai. Ngài phải bảo chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dạy con cháu mình: Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình.


Ngay cả đối với người da trắng, họ được đi cùng và nói chuyện với chúng như người bạn đối với người bạn, cũng không thể nào tránh khỏi số phận chung của con người. Sau hết chúng ta có thể trở thành anh em và hãy chờ xem. Nhưng điều mà chúng tôi biết trước được là đến một ngày nào đó người da trắng sẽ hiểu là chúng ta có cùng một Chúa, có thể lúc này Ngài nghĩ Ngài có Người (Chúa) nên Ngài muốn có mảnh đất này của chúng tôi. Nhưng Ngài sẽ không thể nào có được. Người là vị chúa của con người và tình cảm của Người sẽ được chia sẻ công bằng cho người da đỏ cũng như người da trắng. Mảnh đất này đối với Người là quý giá và làm tổn hại đến mảnh đất là khinh rẻ Đấng tạo thế. Người da trắng cũng vậy, rồi sẽ qua đi và còn sớm hơn tất cả các bộ lạc khác. Làm ô uế nấm mồ của Ngài, thì một đêm nào đó Ngài sẽ chết vì ngạt thở trên đất hoang mạc của Ngài.


Nhưng trước giây phút tàn lụi, ở trong Ngài sẽ lóe sáng lên sức mạnh của Chúa, Người đã mang Ngài tới mảnh đất này là vì lý do đặc biệt nào đó đã cho Ngài quyền thống trị người da đỏ rồi bị thiêu cháy. Đối với chúng tôi vận số đó thật là huyền bí. Bởi vì, chúng tôi không hiểu nổi khi những con trâu rừng bị tàn sát, khi những chú ngựa sắt hoang ngự trị, khi những góc rừng kín đáo nặng mùi con người, khi quang cảnh của những vùng rừng xanh mướt bị những sợi dây biết nói xóa sạch. Đâu còn những cánh rừng rậm rạp? Tất cả đã qua đi và đâu còn những chú đại bàng vĩ đại? Tất cả đã qua đi."

* Bài viết sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Native, Indians, MyModernMet...

BÍCH ĐÀO, THEO TRÍ THỨC TRẺ
05/08/2014
-http://kenh14.vn

 Một Dân Tộc Xấu Số
Đào Viên

Đoàn Kết thì sống; chia rẽ thì chết

Tục ngữ Việt Nam

Trong bài viết trước đây – Tạ Ơn và Tạ Lỗi →– nhân ngày Lễ Tạ Ơn hay Thanksgiving của Hoa Kỳ, chúng tôi có đề cập đến những người thổ dân ở Hoa Kỳ, đã bị người Anh Di Dân đến lục địa Mỹ châu, rồi người Hoa Kỳ, ngược đãi.




Người Da Đỏ trong y phục cổ truyền

Những thổ dân này trước đây được người Tây Âu (Anh, Pháp, Mỹ) gọi trong tiếng Pháp là “les Peaux Rouges”, hay “dân Da Đỏ”, trong tiếng Anh là “American Indians” hay “người Ấn Độ tại Mỹ châu”. Trong hai danh từ này, có lẽ danh từ người Da Đỏ gần với thực tế hơn, vì như ta sẽ xem dưới đây, thổ dân này có gốc là người Á Châu có nước da ngăm đen lại sống ngoài trời, hay ở trần, nên nước da của họ xẫm hơn nước da người Tây Âu. Còn danh từ “American Indians” chắc chắn là sai lầm, bởi vì khi người Tây Âu mới đến lục địa Mỹ châu, họ cứ tưởng dân bản xứ là người Ấn Độ. Danh từ này không được dùng nữa.

Ngày nay người ta dùng danh từ “Native Americans” hay “Thổ dân Mỹ Châu” để chỉ dân tộc này. Danh từ tương đương được dùng trong bài viết này là “Thổ dân Da Đỏ”, nói lên sự khác biệt với người Da trắng là những người Tây Âu.


Thổ dân Da Đỏ từ đâu đến? họ là dân tộc nào?


Theo một giả thuyết đáng tin cậy hơn cả, cách đây khoảng 12,000 năm, khi ấy eo biển Đối Mã (Bering Strait) trong thời kỳ đông đá và nước biển ở mức thấp nhất, đã hình thành một dải đất-cầu nối liền Á châu với Mỹ châu. Nhiều giống người từ châu Á đã vượt qua dải đất-cầu đó mà sang Mỹ châu. Giống người này, về hình thể là người châu Á, đã sang Mỹ châu như thế nào, nhiều hay ít, chúng ta không biết.



Nguồn gốc người Da Đỏ từ Á châu

Khi người Tây Âu sang Mỹ châu, vào những năm 1770, Thổ dân Da Đỏ Mỹ châu đã có mặt tại vùng Tây Bắc và Đông Nam nước Mỹ ngày nay rồi. Tổng số thổ dân được ước tính khoảng 12 triệu người. Tuy nhiên, người Tây Âu đã mang đến lục địa mới này một chứng bệnh mới mà người thổ dân chưa bao giờ mắc phải, do đó, dể dàng ngã gục: đó là bệnh đậu mùa (variole). Bệnh đậu mùa đã giết chết ít ra là 30% thổ dân Mỹ Châu, nhất là ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.

Thổ dân Da Đỏ có nhiều bộ tộc khác nhau. Khác nhau không những về nề nếp sinh hoạt, tổ chức xã hội mà đôi khi cả về ngôn ngữ. Trên toàn bộ Hoa kỳ có khoảng 40 bộ tộc. Đông nhất là các bộ tộc Navajo, Cherokee, Choctaw, Sioux, Chippewa, Apache, Blackfeet, Iroquois, và Pueblo. Có những bộ tộc làm nghề nông, chủ yếu họ giồng ngô , khoai, đậu… Có những bộ tộc chuyên săn bắn làm kế sinh nhai. Họ săn những con bò mộng để ăn thịt, lột da để làm quần áo chăn mền hay lều trại để ở.


Mối liên lạc không tốt đẹp giữa Thổ dân Da Đỏ với người Tây Âu.


Trong khi đó, người di dân Tây Âu, phần lớn là người Anh, tiếp tục đến Mỹ Châu, khai khẩn đất đai, tiến dần về phía Tây. Đất đai trở nên một vấn đề quan trọng. Có khi người Tây Âu mua lại hay đổi chác đất với người thổ dân, có khi họ tự động chiếm dụng. Từ đó đã xẩy ra nhiều đụng độ giữa dân bản xứ với dân mới đến. Đây là mầm mống của những cuộc giao tranh, hay chiến cuộc (người Hoa kỳ gọi là war) giữa chính quyền Hoa kỳ và thổ dân Da Đỏ kéo dài từ thế kỷ thứ 18 đến thế kỷ thứ 20.


Năm 1789, sau cuộc cách mạng chống mẫu quốc là nước Anh cát Lợi, nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ra đời. Trong nước thái bình, quốc gia thống nhất, chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ, rảnh tay mới thực sự áp dụng những chính sách quốc gia đối với thổ dân Mỹ châu.


Thoạt đầu, những nhà lãnh đạo Hoa kỳ như George Washington, Henry Knox còn coi thổ dân Mỹ châu là một giống người hèn kém nhưng có thể giáo hóa được. Chính phủ Trung ương chưa có những chính sách rõ rệt hay những biện pháp mạnh tay đối với dân bản xứ.



Tù trưởng Tecumseh

Sự bành trướng của người Hoa Kỳ về phía Tây – được gọi là cuộc Tây tiến – đã gặp sự phản kháng của thổ dân mỗi ngày một nhiều. Đầu thập niên 1800, một người thổ dân tên là Tecumseh thuộc bộ tộc Shawnee đã nhìn thấy mối nguy cho cả dân tộc mình. Ông ta đã tập hợp các bộ tộc để gây chiến với người Hoa Kỳ. Cuốc chiến này và nhiều cuộc chiến tiếp theo, kéo dài cho đến năm 1812. Tùy theo cuộc chiến đã xẩy ra ở đâu, với bộ tộc nào, sử sách Hoa kỳ ghi là cuộc chiến Tecumseh, cuộc chiến Seminole, cuộc chiến Creeks. Tất nhiên là phần thắng thuộc về binh sĩ Hoa kỳ với võ khí tối tân: súng ống, gươm giáo của Tây Âu đối đầu với cung nỏ, búa tầm sét của kỵ sĩ Da Đỏ.

Nhiều Thổ dân đã phải đầu hàng, được người Hoa Kỳ chiêu dụ, được trở thành công dân Hoa Kỳ. Năm 1817 bộ tộc Cherokee, khoảng 300 người, kỳ hòa ước với chính phủ Liên bang, để trở nên những công dân Hoa kỳ đầu tiên có gốc là thổ dân Da Đỏ Mỹ châu.


Khi Tổng Thống Andrew Jackson lên nắm quyền vào những năm 1880, chính phủ Liên Bang áp dụng thẳng tay một chính sách mới. Năm 1830 Tổng Thống thứ 7 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ Andrew Jackson ban hành Luật “Indian Removal Act” (Bứng người Da Đỏ). Đạo luật này đã đưa đến những đợt cưỡng bách các Thổ dân Mỹ châu. đi bộ trong gió rét tuyết rơi, từ miến Đông Hoa kỳ sang miền Trung, bây giờ là Oklahoma, khiến cho cả chục ngàn người chết, bỏ thây dọc đường. Hành trình này sau được mệnh danh là “Trail of Tears” (hành trình trong nước mắt), dịch từ tiếng của người Cherokees: “Nunna daul Tsuny“. (Chi tiết cuộc hành trình được ghi rõ trong Tạ Ơn và Tạ Lỗi)





Sang đến Oklahoma, các thổ dân Da Đỏ được đưa vào một nơi tập trung để dễ bề kiểm soát. Trại tập trung này được gọi là “Indian Reservation”, gọi tắt là “Rez”, tạm dịch là “Vùng Dành Riêng cho Thổ dân Da Đỏ”, gọi tắt là “Vùng Dành Riêng” . Vùng Dành Riêng ở Oklahoma là Vùng Dành Riêng đầu tiên được chính phủ Liên Bang lập nên cho thổ dân Da Đỏ.


Chính phủ Liên Bang Hoa kỳ đặt ra một cơ quan trong Bộ Nội Vụ, là Bureau of Indian Affars (BIA hay là Phòng Da Đỏ Sự Vụ) để trông nom quản lý những vấn đề về người thổ dân Da Đỏ. Cơ quan này đã giúp thổ dân Da Đỏ rất nhiều trong những việc về giáo dục như mở trường dậy Anh ngữ, mở nhà thờ để thổ dân biết đến đạo Thiên Chúa.Tuy nhiên những cố gắng của người Hoa kỳ nhiều khi lại đi ngược với tín ngưỡng, phong tục tập quán của thổ dân Da Đỏ khiến cho những mâu thuẫn giữa đôi bên chẳng giảm thiểu chút nào.


Những thổ dân da Đỏ ở nhiều nơi đã tỏ ra rất bất bình với người Hoa Kỳ và ngược lại binh sĩ Hoa Kỳ cũng không ưa thổ dân Da Đỏ, sẵn sàng ra tay đàn áp khi thấy cần.


Cuộc tàn sát bộ tộc Da đỏ Lakota ở Wounded Knee Creeks


Ngày 29 tháng 12, 1890 một cuộc tàn sát đẫm máu người Thổ dân Da Đỏ đã xẩy ta tại Vùng Dành Riêng Pine Ridge Indian Reservation, thuộc tiểu bang South Dakota. Câu chuyện đã xẩy ra như sau:


Trước đó mấy ngày, binh đoàn thuộc Đệ Thất Trung đoàn Kỵ binh Hoa Kỳ (7th Cavalry Regiment) do thiếu tá Samuel Whistside chỉ huy, đã bắt gặp một số người thuộc bộ tộc Miniconjou Lakota và Hunkpapa Lakota tại gần một nơi gọi là Porcupine Butte. Thiếu tá Whitside liền hộ tống tất cả dân Da Đỏ về một chỗ gọi là Wounded Knee Creeks, nơi họ đóng quân. Đại tá James Forsyth, chỉ huy trưởng Đệ Thất Kỵ binh, khi đi tuần tra trở về, liền giam giử họ lại, cho Trung đoàn Kỵ binh vây quanh với súng ống sẵn sáng khi bất trắc.


Sáng ngày 29 tháng 12, quân đội Hoa kỳ tiến vào định giải giáp bộ tộc Lakota. Đến đây một cuộc lộn xộn xẩy ra. Người ta kể rằng lúc đó một người bộ tộc Lakota tên là Black Coyote không chịu đưa súng ra cho binh sĩ Hoa kỳ tước khí giới với lý do là ông ta đã phải mua khẩu súng đó với tất cả gia tài của mình.


Thế là có tiếng súng nổ.


Bên ngoài nghĩ rằng bên trong người Da Đỏ đã nổi loạn, liền dùng súng máy bắn xối xả, tứ phía vào những người Da Đỏ tập trung trong đó, không phân biệt già trẻ lớn bé, đàn ông cũng như đàn bà. Một số binh sĩ Mỹ vào tước khí giới thổ dân Da Đỏ cũng bị bắn chết. Một số rất ít Thổ dân Da đỏ sống sót chạy thoát khỏi vòng vây, nhưng rồi cũng bị kỵ binh Hoa Kỳ đuổi theo giết nốt mặc dầu họ không còn vũ khí trong tay


Sau khi cuộc chiến chấm dứt, ít ra đã có 150 người Da Đỏ Lakota, đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết chết, 51 người bị thương, một số bị thương nặng đã qua đời sau đó. Về phía quân đội Hoa Kỳ 25 binh sĩ bị giết, 39 người bị thương, phần lớn do vũ khí của quân bạn bắn nhầm. Sau cùng chính phủ Liên Bang Hoa kỳ đã tặng huân chương Danh Dự cho ít ra là 20 binh sĩ của Liên Bang, không đếm xỉa đến nhũng nạn nhân thổ dân Da Đỏ đã bị chết oan.



Lính Hoa Kỳ giám sát Tù binh Da Đỏ Lakota

Đây là cuộc chiến lớn bi thảm nhất và cũng là cuộc chiến sau cùng giữa Hoa Kỳ mà thổ Dân Da Đỏ. Sau đó người thổ dân đã biết an phận thủ thường, sống trong hoặc ngoài Vùng Dành Riêng , không còn sức phản kháng nữa.

Thổ dân Da Đỏ trở thành công dân Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ


Ngày 2 tháng 6, 1924 Tổng thống Calvin Coolidge, vị Tổng thống thứ 30 của Hoa kỳ, ban hành đạo luật “Indian Citizenship Act”, cho tất cả những Thổ dân Da Đỏ sinh tại Hoa Kỳ được trở thành công dân Hoa kỳ. Do đó họ có tất cả những quyền Hiến định của công dân Hoa kỳ như bầu cử, ứng cử. Tuy nhiên chính phủ Liên Bang vẫn giữ một số quyền hạn trên những việc có tính cách nội bộ của thổ dân Da Đỏ.


Vì thế những xung khắc giữa thổ dân Da Đỏ với chính quyền Hoa Kỳ vẫn thường hằng xẩy ra, như vụ môt số sinh viên thổ dân Da Đỏ ở San Fransisco đã ra đảo Alcatraz chiếm giữ ít lâu (1969-1971), hay khoảng 300 bộ tộc Ogala Lakota quay lại chiếm giữ Wounded Knee Creeks tháng 2, năm 1973, kỷ niệm cuộc thảm sát bộ tộc Lakota năm 1890, để phản đối chính quyền Liên Bang đã không giữ lời hứa. Nhiều dân Da Đỏ từ nhiều miền đất nước cũng chạy đến Wounded Knee Creeks để ủng hộ bộ tộc Ogala Lakota. Quân đội Hoa kỳ đến bao vây. Hai bên giằng co 71 ngày, một người Mỹ bị thương, hai người Da Đỏ bị bắn chết, Sau cùng những bậc trưởng thượng Da Đỏ quyết định không chiếm giữ nơi đó nữa để tránh đổ máu thêm.


Chưa hết, tháng 6, 1975 hai nhân viên của FBI vào Vùng Dành Riêng Pine Ridge để bắt một số người Da Đỏ bị tố cáo là những kẻ cướp có vũ khí. Trong một cuộc chạm súng trong Pine Ridge, cả hai nhân viên FBI bị tử thương trong lúc còn trong xe hơi. Cuộc điều tra cho thấy có kẻ đã cố ý giết họ bằng những phát súng bắn thật gần.


Sau đó một thanh niên Da Đỏ tên là Leonard Peltier bị chính quyền bắt và kết án hai án tù chung thân với tội danh cố ý đả thương chí mạng hai người. Leonard Peltier kêu oan và mặc dầu được sự hậu thuẫn của nhiều danh nhân thế giới như các ông Nelson Mandela, Desmond Tutu, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Jessee Jackson.., chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ vẫn giữ y án.


Sang đến năm 2010, theo thống kê của chính phủ Liên Bang thì dân số toàn dân Hoa Kỳ là 308 triệu. Trong số này 2.8 triệu (0.9%) là dân thuần giống thổ dân Da Đỏ và 2.3 triệu (0.7%) là thổ dân Da Đỏ lai căng. Tóm lại tất cả dân số Thổ dân Da Đỏ chỉ còn là 5.2 triệu người. Phần lớn dân thuần giống Da Đỏ là bộ tộc Navajo và Cherokee.


Cũng vẫn theo thống kê, 78% thổ dân Da Đỏ sống ngoài Vùng Dành Riêng. Người thuần giống Da Đỏ có xu hướng sống trong Vùng Dành Riêng.

Đời sống kinh tế và xã hội trong Vùng Dành Riêng cho người Da Đỏ




Một căn nhà nhỏ chật chội

Đời sống trong những vùng Dành Riêng cho thổ dân Da Đỏ rất tồi tệ.

– Dân chúng khoảng từ 50 đến 80% không có việc làm.


– 54% học trò bỏ học, chỉ ở trình độ tiểu học.


– Thanh niên hư hỏng, rượu chè be bét, kéo bè kết đảng.


Trong Vùng Dành Riêng Pine Ridge đã có tới 39 băng đảng với khoảng 5000 thanh thiếu niên.


– Nạn thiếu nữ chửa hoang rất đông.


– Phụ nữ, thiếu nữ trong Vùng thường xuyên bị đánh đập, hãm hiếp hoặc bởi người quen hay bởi người lạ.


Theo thống kê củaTrung tâm Kiểm Soát Bệnh Dịch (Center for Disease Control) thì 46 % phụ nữ trong Vùng Dành Riêng ở trong tình trạng này.


80% nạn nhân nói là kẻ phạm pháp không phải là người thổ dân Da Đỏ mà là những người từ ngoài xâm nhập vào.


– Nhà cửa thiếu cho nên trung bình có 15 nhân mạng cùng sống trong một nhà, thiếu chỗ thì ra xe hơi mà ngủ. Ít ra là một phần ba căn nhà không có nước hoặc điện.


– Số trẻ em thổ dân yểu tử nhiều gấp ba lần số trẻ em Hoa kỳ.


– Một nửa dân số trên 40 tuổi bị bệnh tiểu đường,


– Lợi tức đầu người của Thổ dân Ogala Sioux là $US 7.000 một năm, chỉ bằng một phần sáu của người Hoa Kỳ. Thanh niên Sioux muốn có việc làm, kiếm ra chút ít tiền thì chỉ có cách là đăng ký nhập ngũ sang đánh nhau tại Afghanistan. Nếu có công việc nào tốt còn sót lại thì lại vào tay những nhân viên của chính quyền Liên Bang hay Hội đồng Thổ dân ở đó.


– Trung bình tuổi thọ của Thổ dân Sioux tại Pine Ridge là 50 tuổi.



Nhà chật phải ngủ trong xe

Một nhà báo phóng viên đã viết:

Mỗi làn tôi lái xe đến làng Whiteclay ở tiểu bang Nebraska, ngay sát với Vùng Dành Riêng Pine Ridge, quang cảnh làm tôi rất đau lòng. Rất nhiều người, không sao đếm hết, say sỉn vì rượu, nằm bò bên đường. Đàn bà sẵn sàng hiến thân để được một chai bia. Tất cả đều là thổ dân Da Đỏ, bộ tôc Ogala Lakota”.


Trong Vùng Dành Riêng, những bậc trưởng thượng của bộ tộc cấm bán rượu. Thổ dân Da Đỏ đã có một thoả ước với chính phủ Liên Bang là chỉ được bán rượu ở những nơi cách biên giới Vùng Dành Riêng 10 miles. Tuy nhiên những người Da Trắng (không phải thổ dân) vẫn ngang nhiên mở các cửa hàng bán rượu ngay sát biên giới. Họ biết rằng bộ tộc Da Đỏ đang phải vật lộn với nạn nghiện rượu mà họ vẫn cứ bán, cả cho những thiếu niên chưa đến tuổi trưởng thành, bất chấp luật lệ Liên bang.


Khi hè về, mỗi ngày có bốn năm chục người Da Đỏ kéo nhau ra đường nhậu nhẹt suốt ngày. 25% thanh niên thổ dân uống rượu, 75% người lớn nghiện rượu


Lãnh tụ Da Đỏ đã đâm đơn kiện nhiều lần, rốt cục chẳng đi đến đâu. Họ tổ chức biểu tình trước những cửa hàng bán rượu. Cảnh sát biên phòng tiểu bang Nebraska đến giải tán, xua dân Da Đỏ trở về Vùng Dành Riêng bên South Dakota.


Nhiều nhà hảo tâm và những tổ chức thiện nguyện Hoa Kỳ muốn giúp dân Da Đỏ chống lại nạn nghiện rượu, đối đầu với chính quyền tiểu bang (South Dakota) và Liên Bang nhưng cũng chẳng đi đến đâu. Nhiều người còn cho rằng chính quyền đâu có muốn thay đổi điều gì khi phải đụng chạm đến những thỏa ước Hoa Kỳ đã ký kết trước đây với thổ dân Da Đỏ.



Thổ dân Da Đỏ tụ họp uống rượu

Có bao nhiêu Vùng Dành Riêng cho thổ dân Da Đỏ?

Trên toàn thể Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, có khoảng 300 Vùng Dành Riêng cho thổ dân Da Đỏ. Những Vùng Dành Riêng lớn nhất và đông dân nhất là những vùng sau:


Tên Vùng - Tại Tiểu bang - Dân số


Navajo Nation - Arizona, Utah, New Mexico - 180,500
Wind River - Wyoming - 23,250
Osage - Oklahoma - 44,400
Flathead - Montana - 26,100
Pine Ridge - South Dakota, Nebraska - 15,500
Rosebud - South Dakota - 20,700



Sang thế kỷ thứ 19 Thổ dân Da Đỏ như Ogala Sioux đã có một nếp sinh hoạt là săn bắn bò mộng. Năm 1874, người ta đã khám phá ra có mỏ vàng tại vùng Black Hills. Nhiều người Hoa Kỳ, người tìm vàng, kẻ buôn bán, đủ các thành phần đã kéo nhau đến những Vùng Dành Riêng Indian Reservations, và thêm vào đó sự thiên vị, bất chấp những thỏa hiệp trước với người Da Đỏ của chính phủ Liên Bang, những Vùng Dành Riêng càng ngày càng bị thu hẹp lại.


Năm 1851 Khu Vực Dành Riêng cho bộ tộc Sioux bao trùm môt phần của ba tiểu bang South Dakota, Nebraska và Wyoming kể ra đã khá lớn với 21 triệu mẫu tây.


Bản đồ Vùng Dành Riêng năm 1851.





Sang đến năm 1889 Vùng Dành Riêng bị cắt ra làm đôi vì 3 tiểu bang mới được thành lập. Hai Tiểu bang North Dakota và Wyoming không muốn có Vùng Dành Riêng cho Thổ dân Da Đỏ. Như vậy chỉ còn Tiểu bang South Dakota là có Vùng Dành Riêng, tại đây người ta lại chia cắt thêm thành những Vùng Dành Riêng cho các bộ tộc khác nhau.


Bản đồ chỉ còn là:




Sau nhiều năm từ 1899 đến 2012, chính phủ Liên Bang lần lượt chiếm đất của Thổ dân Da Đỏ khiến cho họ chẳng còn bao nhiêu đất đai.


Năm 1980 Tối cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán quyết chính phủ Hoa Kỳ phải bồi thường cho Thổ Dân Da Đỏ những khoảng đất đã chiếm hữu tại vùng Black Hills. Cả vốn lẫn lời, số tiền tính ra lên đến trên một tỷ Mỹ Kim. Thế nhưng bộ tộc Sioux không nhận: họ muốn đất của họ phải trả lại cho họ.


Kết luận


Xem như trên những người thổ dân Da Đỏ đang phải đối diện với một tương lai mù mịt. Thống kê của chính phủ Liên Bang Hoa kỳ cho thấy dân số thổ dân này chỉ còn trên 5 triệu người trong số 308 triệu người dân Hoa Kỳ. Trước thế kỷ thứ 17 khi người Tây Âu mới đến xứ này tất cả các thổ dân Da Đỏ được ước lượng khoảng 12 triệu người.


Chính phủ Liên bang Hoa kỳ quả có ý muốn giúp dân Da Đỏ thật đấy nhưng tất cả đã xẩy ra không tốt đẹp như mọi người chờ đợi hay tưởng tượng.


Họ có trên 300 Vùng Dành Riêng nhưng diện tích các Vùng dần dà bị cắt xén đi, thu hẹp lại. Kinh tế tại những Vùng Dành Riêng không phát triển được..


Vẫn theo thống kê của chính phủ Liên Bang, 78% người Da Đỏ không ở trong Vùng Dành Riêng cho họ mà ra ngoài sinh sống vì cơ hội thăng tiến không có, họ muốn hòa nhập với người Da Trắng. Hậu duệ của người thổ dân Da Đỏ trở nên lai căng mỗi ngày một nhiều. Trong Vùng Dành Riêng cho thổ dân Da Đỏ chỉ còn những nhóm dân – tuy là thuần giống Da Đỏ đấy – thấy không thích hợp với lối sống của những người Da Trắng Tây Âu, nên chỉ muốn sống quây quần với nhau, rất nghèo khổ. Họ sinh sống bằng một ít lương thực họ sản xuất ra, trồng trọt ngô khoai đậu. Phần lớn họ phải nhờ vả vào những tấm ngân phiếu là số tiền hàng tháng – rất ít oi – của Chính phủ Liên Bang cấp phát cho họ dưới diện bảo trợ những người nghèo khổ.



Thanh niên Da Đỏ thất nghiệp, rong chơi

Trở lại câu hỏi: tại sao thổ dân Da Đỏ lại rơi vào tình trạng này? Tìm ra manh mối để trả lời câu hỏi này không dễ dàng chút nào. Chúng ta có thể thấy hai nguyên nhân: nội tại và ngoại lai.

Nguyên nhân Ngoại lai thì rất nhiều và khá rõ:


– Chính quyền Liên bang ở xa muốn giúp người Da Đỏ, nhưng chính quyền Tiểu bang, hay chính quyền sở tại lại không thật tâm muốn giúp, lờ đi, đôi khi lại làm ngược lại.


– Nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn, nhất là đối với người Da Đỏ. Chính quyền địa phương thiên vị người Da Trắng, dành những quyền lợi tốt hơn cho người Da Trắng. Một thí dụ nổi bật trong nạn kỳ thị này là vấn đề nhiều dân Da Đỏ nghiện rượu. Theo thỏa ước giữa thổ dân Da Đỏ với chính quyền Liên Bang thì không ai được bán rượu, xì ke, ma túy gần Vùng Dành Riêng mà chỉ được bán cách xa 10 miles biên giới Vùng Dành Riêng. Trên thực tế, chính quyền tiểu bang và địa phương thả mặc sức cho những người Da Trắng mở tiệm bán rượu ngay trước lối vào Vùng Dành Riêng cho người Da Đỏ. Không những thế, FBI, cảnh sát địa phương lờ đi , coi như không thấy họ bán rượu cho những thiếu niên chưa trưởng thành mà theo luật định là một trọng tội


– Người Da trắng không muốn đem tiền vào đầu tư vào Vùng Dành Riêng vì không thấy có lợi nhuận cao như ở ngoài.


– Vùng Dành Riêng cho thổ dân Da Đỏ phần lớn là những vùng đất khô cằn, không mầu mỡ, không có những tài nguyên thiên nhiên như mỏ quặng để khai thác
.
– Những Vùng Dành Riêng lại khuất nẻo, xa thị tứ, đi lại không dễ dàng..



Nguyên nhân nội tại không dễ tìm hiểu.


– Nhiều người cho rằng đất ít, dân thưa là lý do chính để thổ dân Da Đỏ không phát triển được. Lý do này được viện dẫn ra không có tính cách thuyết phục. Nhiều nước trên thế giới có diện tích quốc gia nhỏ hơn Vùng Dành Riêng và dân số ít hơn thổ dân Da Đỏ như Tiểu quốc (pricipauté de) Monaco (36,000 người, 1 mile vuông), Liechtenstein (36,000 người, 62 mile vuông), Bahamas (350,000, 5,300 mile vuông), Luxembourg (530,000, 998 mile vuông), nhưng vẫn là những quốc gia độc lập riêng biệt. Singapore, một nước hùng mạnh ở Đông Nam Á cũng có dân số sấp sỉ như thổ dân Đa Đỏ ở Mỹ châu, sống chật chội trên một mảnh đất có diện tích là 267 mile vuông.


– Nguyên nhân chính có lẽ phải tìm hiểu nơi cá tính người Da Đỏ, trong lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán, và văn hóa của dân tộc này. Trước kia, người Da Đỏ phần lớn là dân du mục, dùng săn bắn làm kề sinh nhai, hợp thành nhiều bộ lạc nhỏ, di chuyển nhiều nơi. Tinh thần “hợp quần là sức mạnh” không cao như các dân tộc khác. Người Da Đỏ sống một cuộc đời rất phóng khoáng, không bị gò bó trong những chuẩn mực đạo đức hay lề lối sống của một xã hội trật tự, có trên có dưới như nhiều dân tộc khác.


– Hệ quả của những sự việc trên là họ khó đoàn kết lại với nhau, dễ dàng theo bè kết đảng, nội bộ chia rẽ để cho người ngoài khống chế, dễ bị lợi dụng.


– Dân tộc Da Đỏ thiếu những người lãnh đạo, nhìn xa trông rộng, để lèo lái, dẫn dắt dân tộc ra khỏi những khó khăn, hiểm nghèo, đối đầu được với người Da Trắng.


Trên thế giới đã có nhiều dân tộc không còn có mặt trên địa cầu này nữa. Họ bị đồng hóa. Đã có những nền văn hóa lẫy lừng, dần dà phai nhạt đi, rồi biến mất. Dấu tích chỉ còn thấy trong một số Viện Bảo Tàng. Dân tộc Chàm ở miền Nam Trung Phần nước ta là một thí dụ.


Cho đến nay, dân tộc Da Đỏ còn cưỡng lại được phần nào sức ép kinh tế, văn hóa, xã hội, trong một cơ chế chính trị Tư Bản chủ nghĩa lấy lợi nhuận làm kim chỉ nam của người Da Trắng Tây Âu, là người Hoa Kỳ.


Tương lai dân tộc Da Đỏ rất ảm đạm.


Có lẽ vì vậy mà ngày 15 tháng 6, 2009, ông Barack Obama, vị Tổng Thống được nhiều người coi là người nhân hậu, đã mời một số lãnh tụ các bộ tộc Da Đỏ vào tòa Bạch Ốc để ông nói chuyện. Trong buổi nói chuyện ông đã tỏ ý quyết tâm đổi ngược lại đường lối của chính phủ liên bang cũ, đã quên và coi thường các bộ lạc Da Đỏ. Ông cũng nói là ông rất hiểu rằng những vị đại diện Da Đỏ đến đây hôm nay đã phải “có một lòng tin tưởng vượt bực” khi họ nghĩ tới những sự dối trá không tuân thủ những hiệp ước đẵ ký kết với các bộ lạc Da Đỏ trước đây của chính phủ Hoa Kỳ.



Kimberly Teehee với Tổng Thống Obama

Tổng thống Obama đã biết rằng trong nhiều trại tập trung “Indian Reservations” tình trạng nghèo đói rất thê thảm. 80 phần trăm dân Do Đỏ không có công ăn việc làm. Bởi vậy ông thấy ông phải làm một điều gì của một người có lương tâm.


Trong chính phủ Obama hiện đã có hai vị gốc Da Đỏ tham gia chánh quyền . Một là cô Kimberly Teehee, thuộc bộ lạc Cherokees. Cô Teehee, tiến sĩ Luật khoa Đại học Iowa, hiện là cố vấn trưởng trong ủy ban quốc gia về người Mỹ gốc Da Đỏ.





Bác sĩ Yvette Roubideaux



Hai là bác sĩ Yvette Roubideaux, 46 tuổi, trước làm giáo sư Đại Học Arizona, nay làm giám đốc Da Đỏ Y Tế Sự Vụ, trong Bộ Y Tế và An Sinh Quốc Gia. Bác sĩ Roubideaux là thành viên của bộ tộc Da Đỏ Rosebud Sioux.

Âu cũng là niềm an ủi cho một dân tộc xấu số.

Và cũng là một bài học cho những dân tộc, những quốc gia không biết đến :


Hợp quần gây Sức mạnh, Đoàn Kết thì Sống, Chia rẽ thì Chết”./.


Posted onNovember 27, 2013
-https://daovien.wordpress.com

 Cổ nhân đã nói:


Không HỨA bậy ... mình không phụ người ...
  

No comments:

Post a Comment