Viên
ngọc nát
(Hồi ký- Vương Mộng Long- K20)
Người
yêu nước có thể bị giết.
Nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc thì bất diệt.”
(TH/TÁ Vương Mộng Long)
TIEU
ĐOÀN TRƯỞNG/BĐQ
---o---
Giữa năm 1978, toán bốn người cựu sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam
Cộng-Hòa, tù cải tạo ở Trại 4, Xã Cẩm-Nhân, Yên-Bái, vượt ngục lần thứ nhì,
nhưng bị thất bại. Đại Úy Lê Bá Tường chết trong rừng. Còn lại Thiếu Tá Đặng
Quốc Trụ, Đại Úy Trần Văn Cả và tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long) bị bắt đưa về
tạm giam ở Đoàn 776 Yên-Bái.

Ngày đầu, một vệ binh còn rất trẻ tên Lời đã thẳng tay nện một
báng súng A.K vào mặt tôi, một cái răng gãy. Tên vệ binh Cộng-Sản trẻ tuổi này
đã nặng tay với tôi, vì hắn vừa tìm thấy trong ba-lô của tôi một bài thơ
"phản động". Chưa hả giận, hôm sau y trở lại. Tôi bị quật thêm một
báng súng vào ngực, gãy một cái xương sườn.
Qua ngày thứ tư thì chúng tôi bị đưa xuống phà để về Trại 9 bên hồ
Thác Bà, Xã Cẩm-Nhân, Yên-Bái.
Hai bạn đồng hành của tôi, Thiếu Tá Trụ và Đại Úy Cả bị nhốt trên
nhà kho của trại. Tôi không rõ họ bị đối xử ra sao. Còn tôi là người cầm đầu
cuộc vượt ngục này, nên bị tách riêng, giam trong nhà kỷ luật, sát với hàng rào
khu cưa xẻ thợ mộc. Tôi bị cùm cả hai chân, còng cả hai tay.
Khi ấy đang mùa hè, trong hầm nóng nực, muỗi như trấu, bất kể đêm,
ngày. Da mặt, da cổ, da tay chân của tôi trở nên sần sùi vì muỗi đốt.
Tôi được phát hai cái ống nứa lồ ô dựng gần chân nằm. Một ống nứa
để đại tiểu tiện, một để chứa nước uống. Tay
bị còng, chân bị cùm, vấn đề đi đại, tiểu tiện quả là một cực hình. Nhưng vì
bụng đói liên miên, nên vấn đề đại tiện cũng khó xảy ra thường xuyên.
Cũng do biên bản bàn giao lại từ Đoàn 776, nên từ hôm về Trại 9,
ngày nào tôi cũng trải qua một trận đòn hội chợ, kéo dài trên, dưới hai tiếng
đồng hồ. Tôi bị bắt đứng giữa phòng trực trại, bốn góc phòng là bốn vệ binh.
Tôi bị đánh chuyền tay từ góc này sang góc khác, xoay tròn quanh phòng. Má bên
trái vừa lãnh một cú đấm chưa kịp cảm thấy đau thì má bên phải đã lãnh cú đấm
tiếp theo. Những đợt máu mũi phọt ra ồng ộc tràn trên má và trên ngực tôi chỉ
làm cho những tên vệ binh trẻ tuổi hăng tiết thêm.
Trọng lượng thân tôi thời này còn chừng trên ba mươi ký lô là
cùng. Những cú đấm móc tận lực làm cho tôi có cảm tưởng như là đang
"bay" từ góc nhà này, sang góc nhà khác. Sau mỗi tiếng
"hự!" máu tôi lại trào ra như xối. Không biết máu từ mồm tôi hay từ
phổi tôi phun qua hai lỗ mũi thành vòi? Mặt tôi bầm tím sưng vù, đôi mắt híp
lại, nhìn một vật hóa hai. Sau khi bị hàng chục cú đá cật lực vào bụng dưới,
cứt đái trong bụng tôi cứ tự do tuôn ra quần. Tôi cố nín, cũng không nín
được.
Lãnh những trận đòn thù như thế này, tôi mới thấm ý câu hăm he của
tên sĩ quan an-ninh Trại 9, "chúng ông sẽ đánh cho mày té đái, vãi
phân".
Nhiều lần tôi bị đánh mửa mật xanh, mật vàng mà vẫn chưa được tha;
đến lúc tôi mềm như sợi bún, vệ binh mới kéo tôi ra vứt ngoài cửa phòng trực.
Có hôm cả giờ sau trực trại mới cho người kè tôi về nhà giam.
Chắc nhiều bạn tù thấy cảnh tôi nằm rũ như cái xác không hồn nơi
góc sân phơi sắn khô, nên một người được tha về Ban-Mê-Thuột đã đến nhà ông bà
nhạc của tôi kể lại rằng tôi trốn trại và bị vệ binh đánh chết rồi!
Khi nhận tin này, ông anh vợ của tôi lo quá, vội đề nghị với bà mẹ
vợ tôi, "Đừng nói cho con Loan hay tin chồng nó chết. Nghe tin này nó
không sống nổi đâu! Nó mà chết thì đàn con nó sẽ bơ vơ..."
Những ngày không bị dẫn lên "khung" để lãnh đòn, tôi nằm
chờ thời gian trôi qua.
Một tia nắng xuyên khe mái nứa, in một đốm sáng trên nền nhà. Nhìn
vị trí đốm nắng di chuyển, tôi biết giờ giấc. Chấm nắng bắt đầu xuất hiện trên
vách nhà hướng Tây vào lúc kẻng giải lao thứ nhứt của trại (khoảng chín giờ
sáng) rồi từ từ di chuyển dần về hướng đông. Khi tiếng kẻng báo giờ điểm danh
chiều (khoảng năm giờ chiều) thì chấm nắng tới giữa vách hướng Đông, thế là hết
một ngày!
Hàng ngày, tù nhân của nhà bếp đem cho tôi một bát sắn khô nấu
nhão nhoét. Anh ta phải để bát sắn nơi cửa buồng giam; tiếp xúc với người đang
bị cùm là điều cấm kỵ!
Khi người tù đưa cơm rời bước, đàn gà của trại vội tranh giành
nhau những mẩu sắn trong tô. Tới giữa trưa, tên bộ đội trực trại mới đến mở cửa
hầm giam cho tôi ăn bữa cơm tù độc nhất trong ngày. Nhiều khi, tô sắn tới tay,
tôi chỉ thấy một mớ bầy hầy đất cát và vài cọng sắn khô cỡ ngón tay. Tôi đói
tới run chân, run tay, đói ngủ không được.
Hình như không có "chế độ" ẩm thực nào áp dụng cho những
trường hợp tù cải tạo vượt trại. Có hôm tôi được một củ sắn lớn cỡ cườm tay,
dài một gang. Cũng có ngày tôi được hai củ khoai lang luộc nặng chừng nửa ký.
Thường xuyên, thực đơn cho tù trốn trại là một tô cháo sắn phơi khô rắc muối.
Từ lâu lắm rồi, không nghe ai nhắc tới hai chữ "nhân
quyền". Trong thời gian tôi bị cùm ở trại này thì, cứ cách hai hay ba
tiếng đồng hồ, một tên bộ đội đi tuần tra lại ghé kiểm soát tình trạng khóa,
chốt, còng, cùm một lần. Trong bóng tối, để chắc chắn rằng tôi còn sống, anh ta
thường "tiện tay" khện cho tôi một cái bạt tai hay một báng súng để
nghe tôi la lên oai oái vì đau.
Đêm nào nghe thấy tiếng chân nhiều người đi tuần, lòng tôi lại
phập phồng,... biết đâu?... rất có thể, người ta sẽ ập vào, hè nhau đè tôi
xuống, bịt miệng, khóa tay tôi, tròng một sợi dây thòng lọng vào cổ tôi, rồi
lôi thân tôi lên xà nhà, như cách đây hai năm họ đã làm, để giết một anh tù
vượt ngục bên Trại 4. Những cái chết như thế sẽ được thông báo là "tù tự
tử", thật đơn giản.
Một ngày, khi vệt nắng vừa chấm chân vách tường hướng Tây, từ bên
sân của đội cưa xẻ, sát hàng rào có tiếng người nhắn sang, tôi nhận được đó là
tiếng thằng bạn thân Vũ Văn Bằng,
" Long ơi! Thợ mộc được lệnh đóng ba cái áo quan. Chắc tụi
mày sẽ bị xử bắn. Trưa mai tao sẽ đem cơm cho mày. Mày có nhắn gì cho gia đình
thì nói với tao, tao sẽ thư cho gia đình tao, rồi chuyển cho gia đình mày. Tao
cứ tưởng tụi mày đã đi thoát, không ngờ..."
Rồi nó nấc lên, nghẹn ngào...
Thằng Bằng cũng là dân Bắc-Kỳ Di Cư như tôi. Chúng tôi thân thiết
sáu năm cùng lớp Trung Học Trần Quí Cáp. Sau khi tốt nghiệp Tú Tài 1, nó tình
nguyện đi Khóa 63 A Sĩ-Quan Không-Quân.
Thiếu Tá Vũ Văn Bằng là Trưởng Phòng Quân-Báo Sư Đoàn 6
Không-Quân. Mỗi lần từ tiền đồn về thăm Pleiku, tôi thường gặp nó.
Nằm trong cùm, nghe tiếng khóc của người bạn đồng môn, lòng tôi
chạnh nhớ ngôi trường đã đào tạo tôi thành người.
Tiếng thày hiệu trưởng Tăng Dục, ngày đầu Đệ Thất, còn đâu đây,
"Trường chúng ta được hân hạnh mang tên Trần Quí Cáp. Cụ Trần
là một vị anh hùng ái quốc. Thày mong muốn các em chăm chỉ học hành, để sau này
thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường."
Hôm ấy có một vị khách, vốn là một giáo viên, bạn của thày hiệu
trưởng, tới thăm và nói chuyện. Vị khách này là thân sinh ra anh Phạm Phú Nhàn,
người ngồi bên cạnh tôi.
Ông khách mở đầu bài diễn văn bằng một câu mà tôi nhớ cả đời,
"Tụi mi nhớ đây! Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một
viên ngói lành. Nếu tụi mi không chăm chỉ học hành thì suốt đời tụi mi chỉ là
những cục cứt xái mà thôi!"
Sau đó ông già dài dòng kể về lý lịch và cuộc đời người anh hùng
ái quốc Trần Quí Cáp, qua đấy, chúng tôi biết cụ Trần vì yêu quê hương, yêu
đồng bào, nên đã bị cầm tù, bị đưa lên đoạn đầu đài.
Tôi lớn lên, tự hào và hãnh diện là một đứa con của cụ Trần. Tôi
cứ nhớ mãi hai danh từ "viên ngọc nát"' và "cục cứt xái" mà
ông bố anh bạn học của tôi đã đem ra ví von trong câu truyện khuyên nhủ tụi
nhỏ.
Tháng Năm năm 1908 cụ Trần Quí Cáp đã bị đưa ra pháp trường, xử
trảm ngang lưng. Ngày đó khóc bạn, cụ Phan Bội Châu đã viết,
"Ngọc toái bất ngõa toàn, tam tự ngục hàn, sơn hải
khấp
Hồng khinh nhi thái trọng, thiên thu luận định, nhật tinh
huyền." (Phan Bội Châu)
Dịch:
Ngọc nát vẫn hơn ngói lành, nhà tù ba chữ, núi biển khóc
Thái Sơn nặng, lông hồng nhẹ, bàn luận nghìn năm, còn thấy sao
trời sáng.
Bảy chục năm sau, tháng Năm năm 1978, một người vì yêu đất nước,
yêu đồng bào cũng đang nằm chờ giờ ra pháp trường.
Hai người, tôi và cụ Trần Quí Cáp, tuy sinh ra không cùng thế kỷ,
nhưng đã phạm cùng một tội: "Tội mất nước" (Phan Bội
Châu)
Thế mới biết, những người yêu nước có thể bị giết, nhưng tinh thần
ái quốc của một dân tộc thì bất diệt.
Trưa nay nghe tiếng khóc của thằng bạn, tôi thở dài,
"Thôi thế cũng là xong! Cứ coi như một lần ra trận..."
Mười hai năm lửa đạn, vào sinh ra tử, tôi đã không ngừng cố gắng
để hoàn thành phần nào ước vọng của thày tôi ngày đầu Đệ Thất. Là đệ tử của cụ
Trần Quí Cáp, tôi đã noi gương cụ, cống hiến trọn đời tôi cho tổ quốc.
Tiếc thay, đất nước tôi đã tới thời mạt vận, nên tôi đành chấp
nhận những tai ương giáng xuống số phận mình.
Đêm hôm đó tôi thức trắng. Tôi nằm im, nhắm đôi mắt lại, mường
tượng ra trong trí, từng khuôn mặt của những người thân. Trước hình ảnh mỗi
người, tôi lẩm nhẩm nhắn nhủ lời vĩnh biệt. Lần lượt, tôi chia tay với mẹ tôi,
rồi tới vợ tôi, cùng ba đứa con gái.
Đến lúc phải tưởng tượng ra khuôn mặt thằng con út thì óc tôi quay
mòng mòng. Tôi không làm sao vẽ ra trong trí khuôn mặt của thằng con. Nó sinh
ra ba tháng sau ngày Miền Nam
sụp đổ, lúc đó tôi đã ở trong tù rồi.
Trưa hôm sau thằng Bằng năn nỉ anh bạn tù trưởng bếp để nó thay
anh ta đem phần ăn một ngày sắn khô cho tôi. Nó đứng ngoài cửa buồng giam,
miệng cười hô hố,
- Long ơi! Chiều hôm qua, sau khi đóng xong ba cái áo quan, về lán
tao không ngủ được. Tao buồn, tao thương mày, tao khóc suốt đêm. Sáng nay tao
mới biết, Trại 7 có năm thằng chết đuối vì bị chìm mảng khi đi chặt nứa. Nhưng
Trại 7 chỉ có hai cái áo quan, nên tụi tao phải đóng thêm ba cái nữa. Thế mà
tao cứ ngỡ là áo quan để dành cho ba đứa tụi mày...
Thằng Bằng chưa dứt lời đã có tiếng vệ binh quát tháo,
- Anh kia! Đem cơm cho "phạm" xong là phải đi ngay. Lớ
ngớ ở đây tôi cho một báng súng bây giờ.
Lúc đó vệt nắng nằm ngay giữa nền nhà, đúng Ngọ! Anh bạn Thiếu Tá
Vũ Văn Bằng vừa báo cho tôi một tin vui. Như vậy là, ít nhứt tôi cũng còn sống
thêm một, vài ngày nữa!
Nhưng vừa cảm thấy vui đó, lòng tôi lại chùng xuống ngay. Bởi vì,
suy nghĩ lại, thì đó cũng là một tin rất buồn, vì tôi vừa mất năm đồng đội. Mai
đây, ở một nơi xa xôi nào đó, trong Nam, sẽ có năm gia đình đau khổ vô
cùng khi được báo tin này.
Chuyện ra pháp trường của tôi đã không xảy ra. Hôm sau chúng tôi
bị chuyển trại. Ba người bị trói quặt hai tay ra đàng sau. Thêm vào đó là một sợi
thừng được buộc vào cánh tay phải của tôi, luồn qua lưng anh Trụ, tới cánh tay
trái của anh Cả. Đi hướng nào, chúng tôi cũng bị dính chùm.
Hai khẩu A.K kèm chúng tôi rời Trại 9 vào giờ tù tập họp đi lao
động. Những khuôn mặt hốc hác vì đói khát của đồng đội đang hướng về phía chúng
tôi. Có đôi bàn tay gầy guộc đưa lên má vội vàng quệt nước mắt.
Chúng tôi bị dẫn đi một vòng quanh chợ Cẩm-Nhân để cho dân địa
phương coi mặt. Cũng may, lần này dân chúng chỉ đứng nhìn theo ba người tù bị
trói một cách tò mò, không có ai chạy theo ném đá hay đả đảo, sỉ nhục chúng tôi
như thời 1976.
Năm 1976, sau khi bị bắt vì tội vượt ngục lần đầu từ Trại 3, tôi
và Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ đã bị trói ngoặt cánh khuỷu, rồi bị dẫn riệu qua đây
để dân địa phương bày tỏ lòng căm thù “Ngụy Quân ác ôn". Chúng tôi bị ném
đá sưng đầu, sưng cổ.
Cùng thời gian đó, toán bị bắt bên kia sông Hồng, về qua đây cũng
bị dân đánh đập tơi bời, Thiếu Tá Hồ Văn Hòa gãy xương sườn, Thiếu Tá Nguyễn
Văn Nghiêm sưng vù hai má, Thiếu Tá Trần Tấn Hòa dập mũi.
Riêng toán đi từ Trại 4 là bị "chiếu cố" kỹ càng nhứt:
Đại Úy Nguyễn Tấn Á bị đánh bằng đòn gánh, xệ vai trái, Thiếu Tá Chu Trí Lệ bị
quật lọi cẳng chân, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đông bị đấm lòi mắt. Không những thế,
ba anh này còn bị nhốt trong chuồng trâu, bị dân quân nắm tóc, dúi mặt vào hố
phân trâu bò nhiều đợt, xém chết ngạt.
Trong hai năm bị giam giữ ở đây, chúng tôi có nhiều dịp đi lao
động "vần công" với các hợp tác xã nông nghiệp của dân địa phương.
Qua những lần tiếp xúc ấy, người dân có lẽ đã nhận ra rằng, những sĩ quan
Việt-Nam Cộng-Hòa không phải là những kẻ "ác ôn" như họ từng nghe chế
độ Bắc-Việt tuyên truyền. Dần dà, dân chúng nơi này đã nhìn chúng tôi với đôi
mắt khác xưa. Càng ngày, dân trong vùng càng tỏ ra thân thiện với chúng tôi
hơn.
Rời chợ Cẩm-Nhân, vệ binh dẫn chúng tôi nhắm hướng Lũng Ngàn: thế
là chúng tôi về lại Trại 4!
Tháng Tám năm 1976 tôi đã bị cùm ở buồng giam Trại 4 hơn ba tháng
trời. Rồi cũng từ nơi này, đầu năm 1978, tôi lại xuất phát cuộc vượt ngục lần
thứ hai.
Nay bị đưa trở lại nơi đây để chấp cung thì quả là điều đáng sợ
đối với tôi.
Cũng như ở bên Trại 9, hai bạn tôi bị nhốt trên ban chỉ huy. Còn
tôi bị cùm riêng trong nhà kỷ luật nơi góc trái cổng trại, sát hàng rào, bên bờ
suối.
Vừa đặt chân vào phòng giam, tôi đã nhìn thấy một cái cùm mới cáo
cạnh. Cái cùm chân này tinh vi và chắc chắn hơn cái cũ nhiều.
Trước đây, năm 1976, chân người bị cùm có thể duỗi dài thoải mái,
hai chân sát đất trong buồng giam.
Lần này cùm làm bằng hai tấm ván ghép, mỗi tấm được khoét hai nửa
vòng tròn vừa cổ chân. Sau khi gác hai cổ chân tù nhân lên hai hình bán nguyệt
của tấm ván dưới, cai tù sẽ kéo sập tấm ván trên xuống và khóa chốt. Thế là, tù
nhân chỉ còn cách nằm ngửa, vắt hai chân lên cao 45 độ. Chân người bị phạt sẽ
lòi ra ngoài ô cửa sổ đầu hồi. Lính canh không phải đi tới cửa buồng giam, mà
chỉ cần bước qua cổng chính là đã nhìn thấy đôi chân người có tội rồi.
Sau này tôi mới biết, cái cùm đó được hoàn thành chỉ vài ngày
trước khi chúng tôi bị giải về đây. Người vẽ kiểu cùm là viên Thượng Úy
Việt-Cộng tên Xuyên, Chính Trị Viên của Trại 4. Người tù thợ mộc được giao
nhiệm vụ đóng cái cùm lại là một cựu Hải Quân Thiếu Tá VNCH, bạn cùng lớp Trần
Quí Cáp của tôi.
Còng tay là một cặp khoen sắt rèn số 8 vừa sát với cổ tay. Khóa
của nó là loại khóa cửa, lớn bằng bàn tay, nặng chừng một ký lô. Cái khóa này
đè trên ngực làm cho tù nhân khó thở vô cùng.
Ngay buổi chiều đầu tiên, tôi đã bị tên vệ binh Lê Văn Tưởng tới
"hỏi thăm sức khỏe".
Vệ binh Lê Văn Tưởng và vệ binh Hồ Ngọc Thắng, biệt danh
"Thắng Bo" là hai hung thần của Trại 4. Thấy bóng dáng hai tên này từ
đàng xa, anh em bạn tù đã run rồi.
Tên Tưởng ló đầu bên cửa sổ đầu hồi, đôi mắt chớp chớp, miệng cười
cười,
- Anh Long ơi! Mạnh khỏe chứ?
- Thưa anh bộ đội, tôi vẫn khỏe.
- Người ta đồn, nửa đường, máy bay lên thẳng của Mỹ đến đón, nhưng
các anh thích đi bộ cho khỏe chân, nên mới bị bắt lại, có đúng không?
- Tôi không biết chuyện này anh bộ đội ạ!
- Mình "nhớ" anh muốn chết! Anh có "nhớ” mình
không?
Tôi lặng thinh.
- Anh đi vắng mấy ngày? Anh nhỉ?
- Tôi trốn sáu mươi bốn ngày.
Tên bộ đội gỡ cái băng đạn A.K ra khỏi súng, nhoài người qua cửa
sổ,
- Sáu mươi tư ngày! Kỷ lục đấy!
Hắn dơ cao cái băng chứa đầy đạn A.K gõ xuống hai chân đang bị cùm
của tôi, rồi lớn tiếng dõng dạc đếm,
- Một!...Hai! ...Ba!... Bốn!...
Sống của cái băng đạn giáng trên xương ống quyển làm cho tôi thót
tim. Tôi la lên,
"Ối!... Ối!...Ối! ..."
Thấy tôi đau líu lưỡi, Tưởng cười khoái trá. Nó cười bằng miệng,
và cười cả bằng đôi mắt,
- Anh Long đi vắng sáu mươi tư ngày. Tôi khổ vì anh sáu mươi tư
ngày. Tôi sẽ gõ chân anh sáu mươi tư lần để anh nhớ! Mười hai! Mười ba!
Mười...
Tôi đau đến chảy nước mắt, đau nhảy nhổm, đau quằn quại, giẫy đành
đạch.
Vệ binh Lê Văn Tưởng vẫn tỉnh bơ, mặt không đổi sắc, tay nó dơ
lên, giáng xuống, đều đều...
Ống chân tôi sưng lên, rồi tóe máu. Mắt tôi bắt đầu hoa, tai tôi ù
như sắp điếc đặc.
Đau quá, tôi điên tiết, ngồi bật dậy. Tôi dơ hai tay có cái còng
lên cao, nện một phát thẳng cánh, trúng cổ tay thằng mất dạy.
Bất ngờ bị một cú đau điếng, nó buông rơi băng đạn. Mặt nó đổi sắc
thành màu tím. Nó nghiến răng, rít lên,
- Tiên sư cha nhà mày! Ông cho mày biết tay. Từ nay mày chỉ còn
nước bò thôi, hết đi được nữa rồi! Con ơi!...
Nó cúi xuống rút con dao găm đeo trên dây lưng. Một tay nó cầm bàn
chân phải của tôi, tay kia dí mũi dao vào nhượng chân. Chỉ một giây đồng hồ nữa
là gân nhượng chân tôi bị cắt! Tôi sẽ thành phế nhân!
- Ngừng tay ngay!
Tiếng quát của ai đó làm cho tên khát máu chùn tay, mũi nhọn của
con dao găm vừa chạm lớp da khuỷu chân tôi thì ngừng lại.
Người vừa quát là cán bộ Vấn.
- Đồng chí có nhiệm vụ gì ở đây? Sao lại định cắt gân chân người
ta?
- Thủ trưởng ơi! Thằng này hỗn láo quá! Nó chửi tôi. Tôi phải dạy
nó một bài học.
Cán bộ Vấn nghiêm giọng,
- Chuyện gì cũng phải báo cáo với cấp trên. Đồng chí không được tự
tiện.
Hung thần họ Lê đi vòng sang cửa chính, khom mình lượm cái băng
đạn. Nó lườm lườm nhìn tôi với đôi mắt căm hờn,
- Tiên sư cha mày! Số mày còn may lắm đấy!
Tôi cũng nghiến răng, trợn mắt, nhìn ngay mặt nó,
- Tổ mẹ mày! Đồ con chó!
Cán bộ Vấn ra lệnh,
- Đồng chí Tưởng ra khỏi đây ngay! Từ nay, nếu không phải phiên
trực, tôi cấm đồng chí léo hánh tới đây.
Chờ cho tên Tưởng qua khỏi cổng, cán bộ Vấn mới bước tới sát cửa
phòng giam, nhỏ giọng nói với tôi,
- Chuyện đâu còn có đó. Anh Long yên chí nằm nghỉ đi, đừng lo nghĩ
gì cả.
Viên Trung Úy Cộng-Sản tên Bùi Văn Vấn này là dân Hải-Dương. Anh
ta làm quản giáo ở đây từ ngày mới lập trại.
-----o-----
Đêm tháng Năm, muỗi vo ve...
Ngoài rào có tiếng chân người lội lõm bõm dưới nước; chắc đó là
ông già Khê người dân tộc Tày? Đêm nào già Khê cũng đi cắm cần câu cá dọc theo
con suối.
Nhà của già Khê nằm sát rào Trại 4. Trước khi trốn trại, mỗi lần
tôi đi ngang qua rào, ông cụ tốt bụng này thường dúi cho tôi một gói ớt hiểm,
kèm với lời dặn dò,
"Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, nhớ mỗi ngày làm một quả ớt
hiểm để chống sốt rét, ngã nước!"
Có ánh đèn pin loang loáng, rồi tôi nghe già Khê lớn tiếng hỏi
người nào đó,
- Làm gì mà ngồi đây thế? Thấy hết hồn... tưởng ma!
Người kia trả lời,
- Suỵt! ... Suỵt!... Cháu... ngồi ...chơi...
Tiếng người này nhỏ nhí, nhưng tôi vẫn nghe được đó là tiếng vệ
binh Đèo Văn Thắng. Trại 4 có hai vệ binh tên là Thắng. Đèo Văn Thắng người
Cao-Bằng, hiền như bụt nên chúng tôi gọi là "Thắng Phật". Tính nết
"Thắng Phật" trái ngược hẳn với "Thắng Bo" Hồ Ngọc Thắng
người Bắc-Thái rất độc ác dữ dằn. Gặp điều không vừa ý, "Thắng Bo"
đánh tù không nương tay. Chữ "Bo" là từ chữ "Porteur" tiếng
Pháp, có nghĩa là "phu khuân vác". Biệt danh của hai vệ binh tên Thắng
đều do anh em tù Trại 4 đặt ra, và truyền miệng với nhau.
Già Khê lại lớn tiếng thắc mắc,
- Ngồi chơi mà chong súng như canh kẻ trộm? Có báo động hử?
- Không...không...cháu ngồi chơi mà...
- Ừ! thôi nhá! Có rảnh vào nhà rít điếu thuốc lào rồi hãy về...
- Vâng...vâng...
Sau đó tôi nghe mấy tiếng “Thịch! Thịch! Thịch!...” trên nền đất,
có lẽ già Khê đang dậm dậm gót chân vài cái cho ráo nước?
Rồi tiếng chân bước xa dần, đêm trở lại với mớ âm thanh hỗn độn
của ếch nhái, côn trùng...
Tôi đang thiu thiu sắp ngủ thì có bóng người bước vào. Người đó vỗ
nhè nhẹ bên hông tôi,
- Dậy! Dậy mau! Ban chỉ huy trại thấy anh tiến bộ nên xét tha cho
anh về lán đấy!
Tên vệ binh cúi xuống lấy chìa khóa mở còng tay cho tôi, rồi y đi
vòng ra ngoài đầu hồi tháo chốt cái cùm chân.
Bất ngờ nghe lệnh được tha về đội lao động, tôi vừa ngạc nhiên,
vừa mừng rỡ.
Tôi chưa đứng vững, tên bộ đội đã thúc giục,
- Đi mau! Anh lên "khung" gặp trực trại, ký giấy tha rồi
về lán cho sớm!
Tôi thấy ngoài trời tối đen như mực, nên chùn bước,
- Tối thế này làm sao thấy đường mà đi? Mọi đêm, các anh dẫn tôi
đi đâu cũng có cái đèn bão mà?
- Hôm nay chỉ lên ký cái giấy thôi, cần gì đèn với đóm?
Linh tính báo cho tôi biết, hình như có điều gì không ổn, nên tôi
vội ngồi bệt xuống bực cửa,
- Tôi không đi đâu! Muốn tôi đi, phải có đèn, đi không đèn thì vệ
binh gác trên chòi sẽ bắn tôi chết!
Tên bộ đội thấy tôi ngồi ì ra trước thềm, bèn rút túi, lấy ra một
khúc nến. Y bật quẹt đốt nến lên, trao cho tôi,
- Đây! Đèn đây, anh cầm lấy rồi đứng lên đi đi!
Tôi ù lì,
- Nếu anh đưa cái đèn bão, tôi sẽ cầm đi ngay. Cây nến này ra gió
là tắt liền, tôi không đi đâu!
Tức quá, nó quát ầm lên,
- A! Cứng đầu hả? Anh không đi, tôi điệu anh đi!
"Huỵch! Huỵch!"
Bị hai cái báng súng đánh vào vai, đau lắm, nhưng vẫn không nao
núng, tôi cứ ngồi ôm chặt cây cột cửa không chịu buông.
Sau cùng, thằng vệ binh đành quàng khẩu súng ngang vai để hai tay
nó được tự do nắm cổ áo tôi, lôi ra cửa. Biết mình không đủ sức vật nhau để
cướp súng, tôi đành ôm cánh tay kẻ thù, nhe răng cắn tới tấp. Đau quá, nó đành
buông tôi ra. Tay xoa chỗ bị cắn, miệng nó
chửi,
- Đồ chó cắn càn!
Tôi la lên,
- Anh muốn bắn tôi phải không? Bắn thì bắn bây giờ đi! Tôi không
ngu mà bước ra cổng cho anh bắn đâu! Tôi biết tỏng... tòng... tong... âm mưu
của anh rồi!
Hình như câu nói đó làm cho tên vệ binh chạm nọc, nó ấp úng,
- Ấy! Ấy! Tôi không bắn anh đâu! Mà sao anh biết? Ơ ...ơ ...ơ...
Bộ dạng bối rối của thằng cai tù kèm với câu “Mà sao anh biết?...”
khiến tôi suy ra ngay,
“Đúng rồi! Tụi nó gài cho mình không đèn đóm đi ra cổng để giết
mình! Mấy thằng bộ đội chong súng ngoài kia đang ngồi phục kích chờ bắn mình
chứ đâu phải ngồi chơi?”
Thấy chết đến nơi, tôi đánh nước liều, chõ mồm về hướng các lán
tù, tôi gào lên,
- Anh em ơi! Người ta giết tôi! Anh em ơi! Chúng nó bắt tôi đi ra
khỏi rào để bắn tôi! Anh em ơi! Cứu tôi với!
Ngay từ lúc đôi bên giằng co, đã có vài người tù ở Lán 1 và Lán 5
ló đầu ra theo dõi. Nghe tiếng tôi kêu cứu, họ cũng hét ầm lên,
- Không được giết người! Không được giết người!
- Chúng nó giết tù! Anh em ơi! Chúng nó giết tù! Anh em ơi!
Tiếng la lớn nhứt tôi nghe được, rõ ràng là tiếng của Đại Úy Phạm
Xuân Độ.
Gặp cảnh bất ngờ, tên bộ đội đứng ngẩn người, không biết xử trí ra
sao.
Bỗng có ba tiếng súng chỉ thiên phát ra từ chòi gác ngoài cổng
trại. Rồi một tốp bộ đội ôm A.K chạy túa vào sân. Tên trưởng toán vệ binh thét
lớn,
- Tù làm loạn hả? Vào lán! Đóng cửa lại! Đứa nào lớ ngớ ngoài hiên
chúng ông bắn bỏ mẹ! Nghe chưa?
Có tiếng lên đạn, "Cà róch!... Cà rách!..."
Tôi bị tống năm, sáu báng súng vào ngực, vào lưng, rồi bị đẩy vào
nhà kỷ luật trở lại. Hai phút sau, còng, cùm khóa xong. Vệ binh tản mát dần.
Cảnh vật lại yên tĩnh như không có gì xảy ra.
Trại tù đèn tắt tối thui, nhưng tôi yên tâm nhắm mắt ngủ, vì tôi
tin tưởng rằng qua khe vách liếp của các lán tù, thế nào cũng có vài đôi mắt
đang theo dõi sự an nguy của tôi.
Sáng hôm sau, trước khi nghe tiếng kẻng xuất trại lao động, có
bốn, năm người bị gọi lên trình diện cán bộ an ninh của trại, trong số này có
anh Phạm Xuân Độ. Đại Úy Biệt Động Quân Phạm Xuân Độ là một người đàn em trong
đơn vị tôi. Tôi và Độ thân nhau như anh em ruột.
Khi đi ngang qua nhà giam, Độ lớn tiếng, cốt cho tôi nghe,
“Thái Sơn ơi! Đàn em không bỏ đại ca đâu! Đại ca ơi!”
Tôi ngồi nhìn theo bóng chú Độ, lòng bồn chồn, thấp thỏm không
yên.
Chừng một tiếng đồng hồ sau, nhóm tù dính líu tới vụ lộn xộn đêm
qua được thả về. Ngang qua chỗ tôi ngồi, Độ lại phát thanh bổng,
“Thái Sơn ơi! Chỉ có một tờ kiểm điểm, không nhằm nhò gì.”
Nghe vậy, tôi mới thấy lòng nhẹ nhõm, hết lo âu.
Mấy cái báng súng đêm trước đã khơi động những chấn thương cũ
trong thân thể tôi. Tôi chợt thấy ngực mình đau nhói một cách kỳ lạ.
"Bục!...Bục!...Ục!...Ục!..."
Ruột gan tôi như đang lộn lạo, sôi sùng sục. Có một vật gì tròn
tròn, mềm mềm như cái bong bóng đang tìm đường chui qua cổ họng tôi để thoát ra
ngoài.
"Ộc!...Ộc! Phè!...Phè!..." Máu từ ngực tôi vọt qua hai
hàm răng, văng tung tóe trên đùi và trên nền ván gỗ.
Tôi ói máu liên tục. Lúc này, trước mắt tôi chỉ còn những đốm sao
chớp chớp, lập lòe. Rồi tất cả tối sầm lại, đen đặc. Tôi gục đầu hôn mê trên
chiếc còng tay...
"Lai tỉnh đi Long! Long ơi!... Lai tỉnh đi
Long!..."
Tôi mở mắt ra, thấy mình đang nằm thoải mái trên nền đất nhầy
nhụa, hôi tanh, tay không còng, chân không cùm. Ông thầy thuốc Nam của trại
một tay bóp miệng cho tôi thở, tay kia không ngừng giựt giựt mớ tóc mai bên
thái dương tôi.
Cán bộ Nghiễm trực trại, đang đứng trước cửa theo dõi. Thấy tôi mở
mắt tỉnh lại, y buột miệng,
- Tưởng đi luôn rồi chứ!
Sau đó y ra lệnh cho tên lính gác,
- Dẫn nó ra suối!
Thế rồi, sau nhiều ngày ủ mình trong bộ quần áo kaki đầy máu me,
cứt đái hôi thối, tôi được đi tắm. Sức yếu, hai chân lại đau, tôi đi không nổi,
đành phải bò. Tới cổng, tôi níu vào hàng rào đứng lên, cố gắng lần mò từng
bước. Có hai anh bạn đánh liều chạy tới đỡ, dìu tôi đi. Thấy thế, vệ binh cũng
làm ngơ.
Trong lúc tôi đi vắng, một anh bạn tù bị bắt làm công tác vệ sinh
nhà giam với một thúng tro.
Tới suối, tôi tụt hết quần áo, lết nhanh xuống dòng nước mát. Hai
tên lính canh đã ghìm súng ngồi sẵn trên bờ. Cán bộ Nghiễm ra điều kiện,
- Anh Long có mười phút tắm gội. Cấm không được lặn!
Tôi bỏ ngoài tai lời đe dọa, cứ gục đầu xuống uống đầy một bụng
nước, rồi lặn ngụp, vò đầu vò tai. Những con cá lòng tong bu vào gặm nhấm lớp
da phủ vảy máu mủ chưa khô trên ống quyển. Lúc đầu, răng cá làm cho những vết
thương chân của tôi thật là đã ngứa. Sau đó máu tươm ra, tôi bắt đầu cảm thấy
xót, thấy đau.
Buổi chiều, trực trại sai hai bạn tù kè nách đưa tôi lên phòng làm
việc. Tôi phải viết hai tờ tự kiểm, phải thành tâm hối hận về hành động trốn
trại vừa qua để xin ban chỉ huy trại khoan hồng.
Tôi nại cớ hai tay bị cùm, bị đánh, đã tê dại, không cầm bút được.
Thế là một anh bạn gốc Không Quân đang ngồi tỉa bắp trên kho bị điệu vào ghi
chép tờ tự khai cho tôi. Tôi nói anh bạn muốn viết gì thì viết, rồi tôi nhắm
mắt ký bừa, không cần đọc lại. Lúc nộp hai tờ tự kiểm cho cán bộ, hình như anh
ta đã ghi lộn họ Vương của tôi thành họ... Nguyễn thì phải?
Trong thời gian chờ cán bộ của Nha Quân-Pháp Bộ Quốc-Phòng
Cộng-Sản từ Hà-Nội về chấp cung, tôi không được đi ra ngoài. Mọi sinh hoạt
tiêu, tiểu đều ở ngay chỗ nằm. Hằng ngày, ông thầy thuốc Nam của trại có
nhiệm vụ đi vứt cứt đái cho tôi. Biết tôi bị nội thương, ông ta lén dấu cho tôi
vài viên xuyên tâm liên. Ông thầy thuốc này cũng là tù cải tạo. Tù mắc bịnh gì
ông ta cũng cho uống xuyên tâm liên! Từ thời ông ta đảm nhận công tác y tế của
trại, tôi chưa thấy ai chết vì xuyên tâm liên cả.
Ngày Chủ Nhật, trại được nghỉ lao động. Hai cổng trước sau đều bị
khóa. Tên lính gác trên chòi cao ngồi ngủ gà ngủ gật. Các bạn tù túa ra sân,
người thì tay chân bận bịu với ca cóng trong việc nấu nướng, kẻ tụ họp đánh cờ,
vài anh khác mải mê tập thể dục, dưỡng sinh. Có bóng người lạng qua cửa nhà
cùm.
"Vèo!...Vèo!...Độp!...Độp!..." vài cục đường thẻ và mấy
củ khoai lang luộc được quăng vào nhà kỷ luật.
Hai củ khoai bay tuốt vào góc phòng, ngoài tầm tay với. Còn hai
cục đường vì nhẹ, nên rơi nơi bục cửa, tôi chụp lẹ, rồi đưa ngay vào mồm.
Oái oăm làm sao! Cục đường trong miệng lại nằm kẹt ngay chỗ cái
răng đã bị tên Lời đập gãy, tôi đau điếng người! Cả hàm răng tê tái, cứng đờ,
cục đường nằm trong họng mãi không chịu tan.
Hai ông bạn tù vừa ném đồ ăn cho tôi, một ông là Hải Quân Thiếu Tá
Trần Văn Căn, bạn cùng lớp Trần Quí Cáp, người thứ nhì là Đại Úy Vương Thành
Lân Khóa 19 Võ-Bị.
Lâu ngày mới thấy chất ngọt, nước dãi trong mồm tôi tiết ra ào ào,
nuốt không kịp.
Tới trưa hôm đó mới khổ! Tôi chưa kịp cởi quần đã bị "Tào
Tháo" đuổi, bắt tại chỗ! Tay còng, chân
cùm, tôi đành nằm chịu trận.
Chờ mãi, tôi mới thấy bóng dáng ông thầy thuốc Nam trước cửa
nhà bếp. Tôi lên tiếng gọi, rồi mắc cỡ, nói với ông ta rằng vì bị trúng gió,
tôi đã "bĩnh" ra quần.
Ông lang sốt sắng chạy vội lên gặp cán bộ trực trại. Tôi được
"chiếu cố" cho ra suối tắm rửa lần nữa.
Hai ngày sau, vào lúc xế chiều, cán bộ Vấn xuất hiện. Đứng chân
trong, chân ngoài ngạch cửa, anh ta dặn dò,
- Ngày mai có người từ trên Bộ xuống chấp cung. Tính mạng của anh
coi như an toàn rồi đấy! Tôi cũng mừng cho anh. Có điều là cần kín miệng.
Nói vừa xong câu, anh ta vội vàng xoay lưng, bước đi.
---o---
Chín giờ sáng ngày hôm sau, tôi ngồi đối mặt với một thượng úy của
Nha Quân-Pháp Cộng-Sản. Công tác chấp cung xảy ra đúng ba ngày.
Ngày thứ nhứt...
Tay nhấn cái nút "Play" màu trắng, đồng thời với cái nút
"Record" màu đỏ của chiếc cassette để trên bàn, tên cán bộ bắt đầu
cuộc thẩm vấn,
- Trong thời gian ở Trại 4 này, cán bộ và chiến sĩ của trại có làm
điều gì trái với chính sách của đảng và nhà nước khiến cho anh và các trại viên
khác bất mãn không?
Tôi thoáng nghĩ,
"Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, mình có nói ra những hà
khắc, bất nhân của cán binh trại này, chưa chắc hắn ta đã làm được điều gì thay
đổi. Mà không chừng, tố cáo những gì mình chứng kiến, có khi còn mang vạ vào
thân..."
Hai bàn tay xếp trên đùi, tôi tránh đôi mắt người đối diện,
- Thưa cán bộ, tôi thấy rằng ở trại nào thì chế độ cũng như nhau.
Tôi không có điều gì để khiếu nại cả.
- Vậy thì, nguyên nhân nào đã khiến anh vượt trại?
- Tôi trốn trại là để đi tìm tự do.
- Sao lại phải đi tìm? Bao giờ học tập xong, anh sẽ được trả tự do
thôi!
Ngẩng đầu lên, thấy vẻ mặt người sĩ quan Cộng-Sản không có nét gì
là giận dữ, tôi đánh bạo,
- Thưa cán bộ. Cán bộ có thể cho tôi biết, đến bao giờ thì khóa
học của tôi mới chấm dứt?
Thừ người ra một phút, viên thượng úy nhịp nhịp cái bút chì trên
mặt bàn,
- Cái ấy cũng tùy, một năm, vài ba năm, tùy nơi các anh...
Lúc đó mắt tôi chợt nhìn thấy trong góc phòng một cái giá súng,
trên đó dựng bốn khẩu A.K của vệ binh. Một ý nghĩ thoáng qua,
"Hai giây đồng hồ để nhảy từ đây tới cái giá súng.
Một giây chụp khẩu A.K. Một giây kéo cơ bẩm. Hai giây vượt qua cửa sổ. Một phút
sau có mặt trong vườn sắn. Lính canh trên chòi gác không thể quan sát được phía
sau vườn sắn. Phải tốn ít nhất là năm phút, vệ binh mới tập họp xong. Chỉ cần
năm phút phù du ấy là ta đã lên tới Lũng Ngàn rồi!"
Tiếng gõ nhịp bút chì chợt ngừng thình lình. Tôi liếc mắt thấy vẻ
mặt hơi thất sắc của tên cán bộ. Hình như hắn ta đã thấy mắt tôi đang dán vào
cái giá súng?
Y vụt xô ghế, đứng dậy,
- Thôi anh về nghỉ, ngày mai ta làm việc tiếp.
Tôi chột dạ, nhưng cũng không tỏ vẻ bối rối. Phải chống hai tay
lên ghế lấy đà, tôi mới từ từ đứng lên được. Lúc này tôi chợt sực tỉnh: sức tôi
yếu quá! Tôi đứng còn khó khăn, nói chi tới chuyện chạy, nhảy, leo trèo?
Ngày thứ nhì...
Bước vào phòng trực, tôi không còn thấy cái giá súng A.K trong góc
nhà nữa. Bên ngoài cửa sổ thấp thoáng bóng vệ binh ôm súng, rảo bước đi qua, đi
lại.
Chờ cho tôi ngồi xuống ghế, viên sĩ quan quân pháp chỉ tay vào một
cái bịch giấy dày cộm trên bàn,
- Tôi đã có toàn bộ hồ sơ quân bạ của anh Long ở đây. Đầy đủ hết!
Từ bản tướng mạo công vụ, cho tới từng cái giấy phạt, giấy khen, huy chương,
khai sinh, giá thú ... không thiếu bất cứ thứ gì. Nếu không tin, anh có thể tự
tay kiểm tra lại, xem tôi nói có đúng không?
Rồi y rút ra đưa cho tôi mấy tờ huy chương và bản tướng mạo công
vụ của tôi. Thoáng nhìn thôi, tôi đã biết đó là thứ thật.
Thấy tôi có vẻ không hứng thú với việc đọc mớ giấy tờ kia, hắn từ
tốn cất chúng vào bao trở lại, rồi gật gù,
- Hôm nay chương trình sẽ là nghe vài cuộn băng.
Cuộn băng thứ nhứt dài nửa giờ ghi lại phiên tòa ngoài trời, cách
đây không lâu, xử một anh tù cải tạo tên Phê (?) trốn trại ở đâu dưới Vĩnh-Phú
hay Thanh-Hóa gì đó. Tiếng loa vang vang lời kết tội phát ra từ miệng một
"cải tạo viên", có lẽ là trật tự hay thi đua,
"Tên ngụy quân này đã ngoan cố vượt trại, không chịu học tập!
Đề nghị xử tử!"
Hàng chục người khác nhao nhao tán đồng,
"Đồng ý! "..."Nhất trí!"..."Đồng
ý!"..."Nhất trí!"...
Một người nữa phát biểu,
"Thằng này đã cướp súng bắn lại cán bộ! Phải xử tử nó
ngay!"
Đám đông lại thét gào,
"Xử tử!"..."Xử tử!"..."Xử tử!"...
Một ý kiến khác,
"Chúng tôi không an tâm học tập khi tên ác ôn này còn sống và
tiếp tục quấy rối chúng tôi..."
Khán giả dường như đã say máu,
"Xử tử nó đi!"..."Xử tử nó ngay!"..."Xử
tử nó!"..."Xử tử!"...
Đa nghi cách mấy tôi cũng không thể nói cuộn băng này là giả tạo
được! Rõ mồn một, đấy là tiếng nói, tiếng la, tiếng hét của đồng đội tôi. Tôi
không thể nghe lầm: Đồng đội của tôi đang tranh nhau đòi giết bạn mình!
Là một tù nhân sắp ra tòa lãnh án, tôi không mảy may sợ hãi cái
chết, nhưng những tiếng la hét của những người đồng ngũ lại làm cho tôi đau đớn
vô cùng.
Cuộn cassette dài có nửa giờ, vậy mà tôi cảm như mình đang trải
qua một cuộc tra tấn dài vô tận. Ngón đòn cân não đã có hiệu quả! Lòng đau như
cắt, hai lá nhĩ lùng bùng, đầu tôi choáng váng như muốn nổ tung vì những tiếng
thét đầy man rợ,
"Xử tử!"..."Xử tử!"..."Xử
tử!"..."Xử tử!"...
Cuộn băng ghi âm chấm dứt không có đoạn kết của phiên tòa. Viên
thượng úy xoi mói nhìn vào mặt tôi, như tìm đọc phản ứng của tôi, rồi y bồi
theo một câu, như phát đạn ân huệ,
- Anh Phê bị xử bắn rồi đấy anh Long ạ!
Thấy tôi ngồi lặng thinh, hắn ta nói nhỏ,
- Tôi không cần hỏi thêm anh về lai lịch hay thành tích nữa làm
gì. Chúng tôi có đủ tài liệu và hồ sơ để xác định tội trạng của anh rồi. Tuy
nhiên, tôi cũng mạnh miệng bảo đảm rằng, tội của anh chưa đến mức bị xử tử
hình. Tin tôi đi!
Sau khi được uống một bát nước lạnh, tôi tiếp tục ngồi nghe cuộn
băng thứ nhì, cuộn băng ghi lời phát biểu của hai vị đại tá bị Cộng Quân bắt
tại mặt trận Ban-Mê-Thuột.
Cuộn băng chót là một buổi học tập, phê bình, kiểm thảo của một
nhóm sĩ quan cấp tướng và đại tá.
Qua hai cuộn ghi âm vừa rồi, tôi nhận ra giọng nói của những vị
tôi đã từng dưới quyền, đã từng thân thiết. Vẫn giọng nói xưa, nhưng những lời
tôi nghe được lại như từ miệng ai đó, tôi chưa từng gặp, chưa từng tiếp xúc bao
giờ!
Trong cơn bão tố cuồng điên, con thuyền quốc gia của dân tộc tôi
chìm nhanh quá! Giữa biển khơi không thấy bến bờ, những người sắp chết đuối
thấy vật gì bồng bềnh trước mắt, cứ ngỡ rằng đấy là một cái phao, đâu ngờ đó
chỉ là đám bọt nước mà thôi!
Thực tình, từ ngày mất nước, tôi chưa bao giờ có ý oán trách bất
cứ ai, kể cả các cấp chỉ huy và bạn đồng ngũ của tôi. Tôi chỉ thấy xót thương
cho bạn bè mình, và buồn cho số phận của chính mình.
Người cán bộ xếp dọn đồ nghề, rồi nói câu chấm dứt buổi thẩm cung,
- Thôi! Mai ta tiếp tục anh Long nhé!
Tôi khập khiễng trên đoạn đường từ ban chỉ huy trại về buồng giam,
sau lưng là một họng A. K.
Ngày chấp cung thứ ba...
Viên thượng úy xoa xoa hai bàn tay vào nhau,
- Hôm nay chủ đề trao đổi giữa chúng ta sẽ là: “Quốc-Gia và
Cộng-Sản.” Tôi sẽ không đánh đập anh đâu. Đừng e ngại, sợ sệt, cứ việc phát
biểu một cách công tâm. Tôi cho phép, và khuyến khích anh nói thật lòng mình,
về những gì anh cho là sai, là đúng của hai chế độ. Mục đích chuyến công tác
của tôi lần này chỉ có thế!
Tôi ngồi ngẩn mặt ra. Thật là ngoài mức tưởng tượng! Tôi đã một
lần nếm mùi cái “kinh nghiệm thương đau" của kẻ bị tra khảo vì tội trốn
trại rồi, nên tôi biết, trong thời gian chấp cung, tù vượt ngục nào cũng bị
đánh cho tới bò lê, bò càng, cả tháng sau, thân mình còn ê ẩm.
Tôi nghĩ lần này cũng lại bị đánh, bị buộc tội trối chết, rồi phải
tỏ ra ăn năn, hối lỗi những việc mình đã làm, sau cùng là ký bản cam kết, hứa
hẹn sẽ không còn tái phạm nữa...vân vân.
Ấn nút cho máy ghi âm chạy, thẩm vấn viên hất hàm,
- Theo anh, cuộc chiến tranh vừa qua chính nghĩa thuộc về phe
Quốc-Gia hay Cộng-Sản?
Tôi đáp liều,
- Mỗi bên tham chiến có lý lẽ riêng để bênh vực cho chủ trương của
phía mình. Người Cộng-Sản có lý của họ, còn chúng tôi, có lý của chúng tôi.
Người hỏi cung lắc đầu, nghiêm giọng,
- Anh hãy nói thẳng ra ý kiến của cá nhân anh. Phải là "ý
kiến tôi thế này, ý kiến tôi thế kia!" Không được nói quanh quanh, nói
chung chung kiểu..."chúng tôi thế này, chúng tôi thế kia..."
Tôi nuốt nước bọt rồi trả lời thẳng thừng,
- Tôi chiến đấu có chính nghĩa vì tôi là người tự vệ, Miền Bắc là
kẻ xâm lược.
Hắn ta vội át giọng tôi,
- Anh nói sai rồi! Chúng tôi mới có chính nghĩa vì chúng tôi chiến
đấu để giải phóng Miền Nam
thoát ách cai trị của ngoại bang.
- Không có ngoại bang nào cai trị Miền Nam cả. Việt-Nam Cộng-Hòa là một
nước độc lập.
Y hét lên,
- Độc lập giả tạo! Thực chất Ngụy-Quyền Miền Nam chỉ là tay
sai của đế quốc Mỹ.
- Việt-Nam Cộng-Hòa là một quốc gia đồng đẳng với các nước khác
trên thế giới. Miền Nam
có chính phủ riêng, hiến pháp luật lệ riêng. Tổng Thống và Quốc Hội nước
Việt-Nam Cộng-Hòa là do dân bầu lên, có nhiệm kỳ hiến định hẳn hoi, sao lại gọi
là tay sai được?
Tôi ngừng lại, chờ xem ý kiến của người đối diện ra sao thì thấy y
đã tắt máy.
Ngồi im một lát như để tĩnh tâm, rồi thật chậm rãi, hắn ta ôn tồn
trở lại,
- Tôi sẽ không đấu lý với anh nữa. Vì nếu cãi nhau thì anh sẽ ở
vào thế yếu, còn tôi ở thế mạnh, không được công bằng. Từ bây giờ tôi chỉ đặt
câu hỏi. Anh được tự do trả lời theo ý anh! Như vậy có được không?
Thấy tôi gục gục đầu, hắn nhấn nút cho máy quay, rồi tiếp tục,
- Anh nói rằng Miền Nam là tự do, vậy hãy diễn tả cái tự do đó thể
hiện ra sao ngay trong cuộc đời của chính anh.
- Tôi lớn lên trong một chế độ mà trong đó, chúng tôi muốn nói gì
thì nói, nghe gì thì nghe, đọc gì thì đọc. Không bị ai nhồi nhét tư tưởng này,
tư tưởng kia vào đầu. Ngay như tôi là một thiếu tá, mà suốt mười hai năm quân
ngũ tôi chưa bị bắt buộc phải vào dự một buổi học tập chính trị nào cả. Những
hiểu biết về Cộng-Sản, hay Tự-Do là do cái vốn kiến thức thu thập từ thực tế và
tự tìm hiểu qua báo chí, sách vở. Không ai ép buộc tôi phải tôn thờ chủ nghĩa
này, đả phá chủ nghĩa kia.
- Nếu nói rằng Miền Nam tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì tại sao
lại có những cuộc biểu tình, xuống đường của Cha, Cố, Giáo Dân cũng như của
Tăng Ni, Phật Tử?
- Chính vì có tự do nên mới xảy ra những chuyện xuống đường, phản
kháng, nếu không có tự do thì toàn dân sẽ câm như hến.
- Anh có là một thành viên của đảng Dân-Chủ không? Nếu một người
lính mà không là đảng viên đảng Dân-Chủ thì có bị thiệt thòi gì không?
- Thú thật tôi không để ý đến vụ đảng phái. Tôi không gia nhập
đảng nào. Tôi cũng chưa thấy đảng nào công khai gây ảnh hưởng trong đơn vị tôi
bao giờ.
- Trong thời gian qua, anh đã có dịp tiếp xúc với dân chúng Miền
Bắc, anh có nhận xét gì về nếp sống của dân chúng Miền Bắc không?
Thấy có dịp giải tỏa ấm ức, tôi hứng chí nói một mạch,
- Miền Bắc và Miền Nam
khác hẳn nhau. Ở trong Nam,
người dân có thể sống theo ý mình muốn. Còn Miền Bắc là một xã hội có quy củ,
có khuôn phép. Từ vấn đề cơm, áo, gạo, tiền, nhà cửa, ruộng vườn, cái gì cũng
có tiêu chuẩn cả. Cái gì cũng tem phiếu, sổ sách. Hàng còn nằm trong kho quốc
doanh có một giá, tới lúc tuồn ra ngoài, nó thành giá khác, đắt gấp chục lần.
Lao động xã hội chủ nghĩa thì người này dựa vào người kia. Làm việc hợp đồng,
vần công chỉ là chuyện lãng phí nhân lực. Tôi đã thấy có một mảnh ruộng cỡ nửa
sào, mà ào xuống mười người, với mười con trâu, và mười cái cày. Họ làm việc
chừng một giờ đồng hồ, mà chấm công là một ngày. Thời giờ còn lại, mạnh ai nấy
đi canh tác riêng để cải thiện. Lý thuyết là không có quyền tư hữu, tất cả là
tài sản chung, nhưng trên thực tế, ai cũng lo mưu cầu lợi ích riêng, vì ai cũng
thiếu thốn cả. Có lẽ vì thế mà mấy chục năm nay Miền Bắc vẫn nghèo, không khá
lên được.
Tôi thấy kỹ thuật thẩm vấn của người Cộng-Sản có vẻ na ná với kỹ
thuật khai thác của Đức Quốc-Xã thời Thế Chiến thứ 2 trong những tài liệu mà
tôi đã đọc qua. Thoạt đầu, với đôi ba câu hỏi bâng quơ, tù binh được nói thoải
mái thả giàn vài phút. Sau đó, thẩm vấn viên mới ra tay, bằng những câu hỏi dồn
dập, tới tấp, loanh quanh, lẩn quẩn một vấn đề, làm cho óc người bị thẩm vấn
rối tung lên, không biết đâu mà chống đỡ.
Với những câu hỏi ngoắt ngoéo, viên thượng úy Cộng-Sản đã cố gắng
moi móc những gì tôi cất dấu trong đầu về cuộc đời tôi, từ thuở mới di cư, đến
khi ngập ngũ, rồi tới ngày rã ngũ.
Trong thời chiến, tôi đã qua lớp Tình-Báo Tác-Chiến Singapore, rồi
nhiều năm, đảm nhận chức Trưởng Phòng Quân- Báo của Bộ Chỉ-Huy Biệt Động Quân,
Quân-Khu 2, Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi đã thẩm vấn rất nhiều tù binh, và đã hoàn
tất nhiều bản cung từ.
Do đó, tôi đủ bản lãnh để luồn lách, tránh né những bí mật liên
quan tới sinh mạng những người đã cộng tác với tôi thời trước, như tên tuổi các
mật báo viên trong mạng lưới mật báo của Phòng 2 Biệt Động Quân Quân-Khu 2,
danh sách các cán binh chiêu hồi đã hướng dẫn các chuyến xâm nhập vào lòng địch
của tôi trong thời gian 1972- 1973.
Chỉ sau vài câu hỏi trùng lặp, tôi đã nghiệm ra ngay chủ đề của
cuộc "thi vấn đáp" trường chinh hôm ấy là nhằm khai thác tin tức liên
quan tới "Vai trò của Chính-Trị và Tôn-Giáo trong Quân-Đội Việt-Nam
Cộng-Hòa" Về cả hai lãnh vực trên đây, quả tình, tôi chỉ là một tay ấm ớ,
nên người tra hỏi chẳng biết được gì.
Cứ thế, trừ đi cỡ sáu, bảy phút cho hai lần đi tiểu, và khoảng
mười phút cho bữa ăn trưa với một củ khoai lang luộc, tôi phải trả lời hàng
trăm câu hỏi trong thời gian dài từ sáng sớm tới xế chiều. Tôi không nhớ có bao
nhiêu cuộn băng mới đã được thay, mấy lần pin mới được lắp vào máy.
Chấm dứt ngày làm việc cuối cùng, không chỉ người bị chất vấn, mà
ngay cả người đặt câu hỏi cũng thấy mồ hôi vã ra đầy mặt.
Người cán bộ châm điếu thuốc lá, rít một hơi, rồi trao nó cho
tôi,
- Anh Long ạ! Tôi đã thực hiện công tác phỏng vấn này với một ông
sư, một ông cha, một nghị sĩ, một dân biểu, hai cấp tướng, hai cấp đại tá, và
ba người cầm đầu đảng phái chính trị. Mỗi anh có nhân cách riêng khi đối diện
với tôi. Cũng những câu hỏi ấy nhưng mỗi người trả lời khác nhau. Mỗi anh có lý
lẽ riêng. Anh là người tuổi nhỏ nhất và có địa vị thấp nhất mà tôi đã gặp trong
công tác này đấy! Bây giờ tôi có một câu hỏi riêng tư với anh. Câu hỏi cuối
cùng. Anh có vui lòng trả lời tôi không?
Tôi rít một hơi thuốc dài, nuốt ực vào, ém khói trong phổi, thấy
tỉnh táo dần,
- Vâng! Tôi sẽ trả lời cán bộ.
- Nào! Anh hãy thành thật, tuyệt đối thành thật, trả lời tôi: Quan
niệm của anh ra sao đối với sự sống và sự chết?
Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt người đối diện, dò chừng. Hình như hắn
ta không có âm mưu gì chứa ẩn trong câu hỏi. Tôi hắng giọng, rồi nhỏ nhẹ trả
lời, rõ ràng từng tiếng một,
-Thưa cán bộ. Tôi nghĩ, đời tôi bây giờ có sống cũng chẳng thấy
vui thú gì, thì nếu chết, tôi cũng coi như là trở về cùng cát bụi. Tôi không có
điều gì phải hối hận hay vướng bận cả.
Viên thượng úy Cộng-Sản đứng lên, bàn tay y xiết bàn tay tôi một
cái rất nhẹ, rồi buông ra ngay. Y nói với tôi, nhưng có vẻ như nói một mình,
-Tiếc thay! Anh lớn lên ở Miền Nam. Nếu ngày đó anh không di cư,
thì có lẽ, giờ này, những người tầm cỡ như tôi, muốn gặp mặt anh cũng là một
điều khó khăn.
Buổi trưa sau ngày hoàn tất hồ sơ thẩm vấn, đầu óc thật thoải mái, tôi nằm im,
đón nghe trong gió vọng về những âm thanh quen: tiếng ve sầu rên rỉ trên Lũng
Ngàn, tiếng chân trâu kéo gỗ nặng nề qua đoạn đường quanh, tiếng xẻng cạo chảo
bên nhà bếp. Gần tôi nhứt là tiếng "kẽo! kẹt!" của loài mọt gỗ đang
đục khoét cái cột giữa nhà.
Tôi ngửa cổ nhìn lên nóc tranh, trước mắt tôi là cảnh một con ruồi
xanh đang cố gắng một cách tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi cái màng lưới nhện.
Thân phận tôi giờ đây ví như thân phận con ruồi xanh trên kia, không hơn, không
kém. Nhện và ruồi là hai động vật khác loài. Chúng giết nhau để sinh tồn. Còn
tôi và những người đang giam cầm tôi lại cùng chủng loại.
Tuần lễ sau, vào giờ cơm chiều, cán bộ Vấn bước vào, ngồi trên bệ
cửa, rút bao Cửu-Long ra, bật lửa châm cho tôi một điếu. Chờ tôi hút xong điếu
thuốc lá thơm, anh ta mới mở lời,
- Bà mẹ anh ngày xưa đẹp nhất làng Trác-Châu đó! Anh có biết
không?
Tôi trố mắt,
- Cán bộ có lớn tuổi hơn tôi nhiều đâu? Làm sao mà cán bộ biết
điều này?
- Ngày anh bị đưa về cùm lần đầu ở trại này, tôi đã đọc qua lý
lịch của anh rồi. Tôi biết tên bố mẹ anh và tất cả họ hàng bên ngoại của anh
nữa. Nhà tôi ở sát rào nhà cụ Ngãi, ông ngoại của anh. Thời còn là con gái, bà
cụ sinh ra tôi là bạn thân của bà cụ nhà anh. Mẹ tôi nói hồi đó mẹ anh có làn
da trắng như trứng gà bóc. Mẹ anh không lấy người trong làng, lại đi lấy người
làng bên. Sau khi bố anh bị giết, mẹ con anh đã bỏ xứ, ra đi biệt tăm. Không
ngờ sau đó gia đình anh di cư vào Nam, và anh đã làm tới chức thiếu
tá. Dù gì thì chúng ta cũng là người cùng làng...
Tới lúc đó, tôi mới hiểu lý do vì sao viên sĩ quan Cộng-Sản này
lại nương tay với mình.
Cán bộ Vấn thọc tay vào túi, lôi ra một cái phong bì. Mở phong bì,
móc cái ảnh cỡ 6x9 cm đưa cho tôi, anh ta nói nhỏ,
- Anh Long có thơ. Nhưng tôi không được phép đưa thơ cho anh. Tôi
"diếm" cho anh cái ảnh của vợ con anh. Nhớ giữ kín đừng cho ai biết.
Nói xong câu này, Vấn nhét vào tay tôi một điếu thuốc nữa, rồi
đứng lên, lững thững đi về hướng nhà bếp.
Có lẽ cái thư chứa tấm hình đã tới trại trong thời gian tôi tại
đào. Trong hình là vợ tôi bế thằng con út ngày nó vừa biết lật. Nay chắc thằng
bé đã biết nói, biết chạy rồi?
Ấp cái ảnh vợ con vào lòng, tôi nghe rõ ràng, tim mình đang thổn
thức...
Tôi được nhìn thấy mặt bố tôi lần cuối cùng (1946), ngày tôi lên
bốn tuổi. Còn thằng con tôi, không biết suốt đời, nó có dịp nào nhìn thấy mặt
bố nó hay không?
Từ lúc đó cho tới tối mịt, cứ lâu lâu, tôi lại dở cái ảnh ra xem
(Vợ và con trai của VMLong-1975)
Vằng vặc trăng trôi...
Tôi nằm quay mặt về hướng
Tây. Cửa chính của phòng giam không bao giờ đóng. Ngoài kia ánh nguyệt chan
hòa.
"Tưng!...
Tửng!... Từng!... Tưng!..."
có tiếng đờn ghi ta vọng cổ
bay sang từ Lán 1. Tiếp đó là một câu hò (hay sàng xê) não nuột,
"Đêm nay trăng
sáng...(á!) lung linh, em ngồi trông trăng.
Lòng nhớ thương anh, mà
lòng... (ừ!) buồn mông mênh.
Mình cách xa nhau rồi...(à!)
Mình mất nhau muôn đời.
Đêm ngồi trông trăng, mà mắt
lệ ...(ý! à!) tuôn rơi..."
Tôi không phân biệt được
giọng hò này là của ông trung tá con rể bà Bút Trà, hay là của ông đại úy con
rể cụ dân biểu Hoàng Kim Quy?
Ánh trăng lùa tiếng đờn tràn
qua cửa phòng giam.
"Từng!"
..."Tưng!"..."Tứng!"..."Tứng!"
..."Tưng!"...
Nhịp đờn bỗng rối rít hẳn
lên, quện vào tiếng hát, xoắn lại như con chốt, rồi vút lên thật cao,
" Trời ơi! ...
Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn
Nên Võ Đông Sơ đành chia tay
vĩnh viễn Bạch Thu ... Hà...
...Tưng! Từng!...Tưng!
Tửng!...Từng! Tưng!... Ư...ưng... ư...ưng..."
Giữa đêm trăng lạnh, vô tình,
khúc "Võ Đông Sơ" đã như mũi dao nhọn, xoáy vào tim người
nghe...
Ngày xưa tôi là chúa ghét
vọng cổ. Cứ thấy mấy anh kép cải lương "miệt rừng" trong đơn vị vừa
cất giọng,
"Biên cương lá
rơi, Thu Hà em ơi!”
... tôi lại bấm bụng cười
thầm, lỉnh nhanh đi chỗ khác.
Vậy mà giờ đây, giọng ca của
mấy ông nghệ sĩ tay ngang cũng làm cho tim tôi xốn xang. Tôi nằm trằn trọc hoài
mà không nhắm mắt được. Đêm sao quá dài...
-----o-----
Từ đầu tháng Sáu, sau giờ ăn
trưa mỗi ngày, tôi được mở còng cùm vài phút để đi vệ sinh. Chuyện ỉa đái của tôi
xảy ra ngay trong vòng rào mà vệ binh cũng phải kè kè đi kèm. Khi tới đầu Lán
11, vì sợ thối nên tên bộ đội đành dừng lại, ôm súng đứng canh, cách nhà cầu
chừng sáu chục thước. Mắt nó cứ lom lom theo dõi những người tù trên đường ra
nhà xí. Nó soi mói, kiểm soát kỹ càng những ống vầu chứa nước họ xách theo để
rửa đít. Nó sợ bạn tù lén lút liên lạc tiếp tế cho tôi!
Bọn cai tù không thể ngờ
rằng, trước khi tôi được mở cùm, đã có hai ba anh bạn tới ẩn mình trong cầu
tiêu rồi. Họ tranh nhau nhét vào miệng tôi, cục đường, củ khoai, và cả những
viên thuốc bổ. Tôi chỉ được phép ở trong chuồng xí có năm phút. Trong năm phút,
tôi vừa ăn, vừa đại tiểu tiện, vừa nói chuyện với bạn bè.
Hàng ngày, bạn tù chia phiên
nhau giúp đỡ cho ba người đang bị phạt. Các anh Thiếu Tá Hoàng Văn An, Đại Úy
Vương Thành Lân, Đại Úy Nguyễn Hữu Quang, Đại Úy Phạm Xuân Độ, và Đại Úy Đỗ
Dũng là những người tôi gặp mặt thường xuyên, ngoài ra còn nhiều bạn khác nữa.
Họ lo cho tôi vào giữa trưa, và lo cho anh Trụ, anh Cả vào lúc xế chiều. Nếu
hôm nào cả trại phải đi lao động suốt ngày, thì các anh trực lán sẽ làm công
tác cứu trợ.
Thời gian này người tù mang
cơm cho nhà kỷ luật là Nguyễn Hữu Quang, bạn cùng khóa Võ-Bị của tôi. Những khi
có dịp thuận tiện, anh Quang thường lén lút ém thêm phần ăn cho người bị giam.
Cũng may những chuyện này
không đổ bể. Chứ cai tù mà biết được thì các bạn tôi chỉ có nước vào cùm!
Trong cảnh hoạn nạn, tôi đã
không bị bạn bè bỏ rơi. Những sự trợ giúp ấy đã khiến tôi tăng thêm sức lực cả
về thể chất lẫn tinh thần. "Khốn khó có nhau, là huynh đệ chi binh!"
phải gặp cơn nguy biến mới thấy cái cao đẹp của tình đồng đội.
Những tháng tiếp theo, tôi và
hai anh bạn bị đưa đi vòng vòng, lần lượt nhốt trong các trại tù quanh vùng
Cẩm-Nhân, Yên-Bình. Mỗi khi tới trại mới, ba “cải tạo viên” vượt ngục lại trở
thành những cái bao cát cho bọn vệ binh của trại đó thực tập võ nghệ.
Cuối cùng chúng tôi bị dẫn
vào Trại 2 trong Tích-Cốc, nhốt chung với một tay "Papillon" của trại
này. Anh ta nằm trong căn bìa của nhà kỷ luật, cách tôi một tấm phên.
Ghé mõm sát cái lỗ nhỏ dưới
chân vách, tôi hỏi nhỏ,
- Này! Tên gì? Cấp gì?
- Thường! Đại úy!
- Đi lúc nào?
- Sau các cha một tháng.
- Mấy người?
- Bốn.
- Ba ông nội kia đâu?
- Thoát rồi!
- Còn cha? Sao lại nằm đây?
- Mình bị sa ruột, giữa đường
đành bỏ cuộc, bị dân quân bắt, dẫn về giao lại cho trại, rồi bị tống vào đây.
- Đã bị chấp cung chưa?
- Rồi!
- Có bị đánh không?
- Tơi bời! Đau lắm các cha
ơi!
Mấy ngày sau, người đưa cơm
của Trại 2, vốn là một đại úy Biệt Động Quân thì thầm với tôi rằng,
"Một toán vệ binh của
Trại 2 đã kêu gọi được ba người bạn của anh Thường ra đầu hàng rồi. Nhưng ngay
sau đó, chúng bắn chết hết ba người này, rồi đổ hô là họ bỏ chạy lúc ban
đêm!"
Nghe chuyện này, tôi nhớ lại
cái đêm trời tối đen như mực cách đó không lâu, nếu tôi nghe lời tên vệ binh,
bước ra khỏi cổng để lên ban chỉ huy ký giấy cho về đội lao động, thì tôi đã bị
bắn chết rồi!
Cuối năm 1978 có tin
Trung-Cộng sắp đánh Việt-Cộng, ba chúng tôi lại bị còng dính vào nhau đưa lên
xe, vượt sông Lô, qua đèo Khế, ghé Tân-Trào, rồi chạy một lèo về Trại Phú-Sơn
4, Thái-Nguyên.
Tại đây, vừa được tháo còng
ra, tôi đã bị tống vào đội trừng giới số 12 toàn là dân vượt ngục, chuyên làm
lò gạch. Đồng cảnh ngộ, nên anh em trong đội này đã thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau như người thân trong một nhà.
Tháng Ba năm 1979 quân Tầu ào
qua biên giới, chúng tôi lại bị còng từng cặp, đưa lên Molotova, chạy một mạch
qua thủ đô Hà-Nội về tuốt miệt Hà-Nam, Phủ-Lý.
Trong lúc chờ phà vượt sông
Hát, đoàn xe bị dân chúng ném đá tơi bời. Tù chỉ còn nước ôm đầu, úp mặt xuống
sàn xe. Thì ra dân chúng tưởng chúng tôi là tù binh Trung-Quốc!
Đến khi biết trên xe là tù
cải tạo Việt-Nam Cộng-Hòa thì dân chúng lại đua nhau ném chúng tôi lần nữa!
Chúng tôi lại lo ôm đầu, úp mặt. Nào ngờ, lần này đầu cổ, tóc tai lãnh toàn là
xôi, đường, kẹo bánh, xu hào, cải bắp!
Quý hóa hơn mọi món quà mà
chúng tôi nhận được ngày hôm đó là, lần đầu kể từ khi bại trận, chúng tôi lại
được nghe hai tiếng "Hoan hô!" từ miệng của đồng bào tôi.
Dù chỉ có vài tiếng
"Hoan hô!" rụt rè phát ra trong đám đông thôi, đã khiến đôi mắt tôi
cay xè. Nhìn sang bên, tôi thấy mặt anh bạn chung còng cũng nhạt nhòa nước
mắt...
Từ ấy, cứ vài năm một lần,
tôi lại bị chuyển sang trại mới, cuối cùng là Z30 D Hàm-Tân. Tới năm 1988 tôi
được tha.
Nhớ lại, một ngày mùa đông
năm 1965, tôi đã quỳ xuống giữa vũ đình trường Lê-Lợi Trường Võ-Bị Quốc-Gia
Việt-Nam để tuyên thệ rằng sẽ đem xương máu mình bảo vệ tổ quốc, phục vụ đồng
bào. Sau khi đứng lên, tôi trở thành một sĩ quan Biệt Động Quân. Qua bao nhiêu
năm xông pha nơi chiến trường, rồi trầm luân trong tù ngục, tôi vẫn ghi tạc
trong lòng một lời khuyên,
“Thà làm một viên
ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành!"
Vương Mộng Long
Seattle, tháng 3 năm 2012